Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.94 KB, 25 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử xã hội loài người đã trải qua các hình thái kinh tế xã
hội khác nhau, đánh dấu những nấc thang phát triển của nhà nước và
pháp luật. Nhưng không phải thời kỳ nào nhà nước cũng ra đời và
phát triển, nhà nước chỉ ra đời khi những mâu thuẫn trong xã hội
không thể điều hòa được. Trong quá trình phát triển, mỗi hình thức
nhà nước đều có vai trò lịch sử nhất định. Bởi vì, vai trò của nhà
nước là rất quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội,
thi hành những luật lệ buộc công dân phải tuân thủ. Có thể khẳng
định rằng sự tồn tại của nhà nước là vô cùng quan trọng, là cần thiết
để duy trì trật tự và quản lí xã hội. Nhưng, quan trọng và cần thiết
hơn đó là tính hiệu lực, hiệu quả mà nó mang lại cho xã hội. Để thực
hiện tốt vai trò của mình, nhà nước phải thực thi tính pháp quyền của
nó một cách đầy đủ để chống lại sự lạm quyền và tùy tiện trong quản
lý, điều hành hoạt động của bộ máy nhà nước. Điều này càng cần
được thể hiện rõ ở mặt lí luận và thực tiễn trong nhà nước Pháp
quyền.
Tam quyền phân lập là một trong những lý thuyết chính trị pháp lý có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trong lí luận và thực tiễn
chính trị trên thế giới. So với các tư tưởng chính trị trong chế độ
chuyên chế độc tài, lý thuyết tam quyền phân lập được coi là tư
tưởng của thời đại, đánh dấu sự chuyển biến từ việc sử dụng “quyền
lực dã man” ở các xã hội chuyên chế sang việc thực thi quyền lực
văn minh trong xã hội dân chủ. Sự hình thành và phát triển của lý


2
thuyết này gắn liền với quá trình đấu tranh cho bình đẳng, tự do và
tiến bộ xã hội, hướng đến xác lập các mối quan hệ cơ bản giữa pháp
luật và quyền lực, cá nhân và cộng đồng, công dân và nhà nước,


nhằm đảm bảo tính hiệu quả cao nhất của việc thực thi quyền lực.
Chính vì vậy, tư tưởng tam quyền phân lập được coi là một tất yếu
khách quan trong các nhà nước dân chủ, là điều kiện đảm bảo cho
những giá trị tự do được phát huy, là tiêu chí đánh giá sự tồn tại và
phát triển của nhà nước pháp quyền, nơi nhân dân giữ vai trò tối
thượng.
Việt Nam bắt đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước từ
năm 1986, với mục đích phục vụ nhiệm vụ cấp bách mà Đảng ta đã
vạch ra là: Tăng cường bộ máy nhà nước, cải tiến tổ chức và hoạt
động để nâng cao hiệu quả quản lý của nó, tư tưởng phân chia quyền
lực nhà nước đã được quan tâm nghiên cứu để hiểu rõ nội dung, ý
nghĩa của nó và để vận dụng vào việc tổ chức bộ máy Nhà nước ta ở
mức độ phù hợp. Yêu cầu cơ bản của nhà nước pháp quyền là phải
có sự phân chia quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhằm tạo ra sự độc
lập và hiệu quả hoạt động cao cho từng cơ quan nhà nước. Đồng
thời, phải có cơ chế thực hiện sự kiểm soát quyền lực lẫn nhau và
hợp tác với nhau giữa các cơ quan nhà nước để qua đó vừa hạn chế
được sự lạm dụng quyền lực, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ
thể.
Với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu
những giá trị của tư tưởng Tam quyền phân lập trong triết học khai


3
sáng, đồng thời vận dụng những giá trị ấy vào xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng tôi
lựa chọn đề tài: “Tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai
sáng” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những giá trị của tư tưởng tam quyền
phân lập trong triết học khai sáng, luận văn vận dụng các giá trị tiến
bộ vào xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam
2.2. Nhiệm vụ đề tài
- Nghiên cứu về nhà nước tam quyền phân lập trong triết học khai
sáng.
- Những giá trị trong tư tưởng tam quyền phân lập của triết học khai
sáng qua một số nhà triết học tiêu biểu.
- Những giá trị của tư tưởng tam quyền phân lập có thể được tham
khảo vào xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn đi vào nghiên cứu tư tưởng tam quyền phân lập
trong triết học thời kỳ khai sáng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề chủ yếu về tư tưởng tam quyền phân lập
trong triết học thời kỳ khai sáng; từ đó, rút ra những giá trị đối với
vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam


4
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời tiếp cận quan điểm của Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, lịch
sử cụ thể; kết hợp cùng các phương pháp: so sánh, trừu tượng hóa,
thống kê.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Luận văn góp phần vào việc nhận thức rõ hơn ý nghĩa và
giá trị của tư tưởng tam quyền phân lập trong triết học khai sáng để
từ đó có thể vận dụng những hạt nhân hợp lý của nó trong công cuộc
xây dựng Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Các giá trị đề xuất trong luận văn có thể được nghiên cứu
vận dụng vào quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo
tại các trường, lớp, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
6. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương.


5
7. Tổng quan lịch sử nghiên cứu
* Nhóm nghiên cứu về nguồn gốc, bản chất của nhà nước
tam quyền phân lập và xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
* Nhóm nghiên cứu về những đặc trưng, cách thức tổ chức
bộ máy nhà nước, giám sát quyền lực nhà nước ở các nước tư sản
hiện đại cũng như nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
* Nhóm nghiên cứu về những giá trị của thuyết tam quyền
phân lập



6
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƢỚC TAM QUYỀN PHÂN
LẬP TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG
1.1. TRIẾT HỌC KHAI SÁNG
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học khai sáng
Xã hội Tây Âu vào nửa cuối thế kỷ XV đã có những chuyển
biến quan trọng về mặt kinh tế, chính trị xã hội. Đặc biệt là lĩnh vực
khoa học tự nhiên, triết học và phát kiến địa lí, đã đánh tan những
quan niệm của Nhà thờ, Giáo hội đưa ra trước đó.
Phong trào văn hóa Phục hưng được thúc đẩy bởi những
chuyển biến kinh tế, chính trị, xã hội thời kỳ chuyển tiếp.
1.1.2. Đánh giá chung về triết học khai sáng
* Những thành tựu triết học khai sáng
+ Trong triết học
Triết học thời kỳ này, những nhà triết học cũng đồng thời là
những nhà khoa học tự nhiên. Ảnh hưởng của các khoa học tới sự
phát triển triết học Tây Âu giai đoạn này rất lớn, tới mức khó xác
định được ranh giới giữa các lĩnh vực thế giới quan đó. Những nhà tư
tưởng lớn như Brunô, Galilê, Đêcáctơ, Lépnít… đều là những người
uyên bác cả về phương diện triết học lẫn khoa học tự nhiên.
+ Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên
Trong vật lý học, Voltaire và Ganvani nghiên cứu những
hiện tượng về điện, tìm ra điện dương và điện âm; Franklin giải thích
hiện tượng sấm sét và phát minh cột thu lôi. Anh em Môngônfie
(Mongolfier) chế tạo khinh khí cầu…
+ Trong lĩnh vực khoa học xã hội


7

Dưới chế độ quân chủ chuyên chế, ở nhiều nước châu Âu đã
xuất hiện một trào lưu tư tưởng mới đòi quyền tự do, công kích triều
đình phong kiến và những nhà vua độc đoán, phê phán sự tha hóa
của Giáo hội Thiên chúa, đưa ra các dự kiến về thể chế xã hội tương
lai. Nổi bật nhất là các nhà tư tưởng Pháp, Anh được gọi là các nhà
Khai sáng.
+ Trong kinh tế chính trị học
Các nhà kinh tế học thời kỳ này cũng đưa ra những lý thuyết
mới, chỉ trích các chính sách hạn chế của nhà nước, chủ trương tự do
kinh doanh. Đại diện cho phái này là Quesnay và Gournay cho rằng
chế độ quan thuế và sự hạn chế kinh doanh là những trở ngại lớn đối
với sự phát triển kinh tế. Họ đòi hỏi phải thiết lập chế độ kinh tế tự
do, chính phủ không hạn chế việc kinh doanh.
* Những hạn chế
Bên cạnh những thành tựu về các lĩnh vực mà thời kỳ Phục
hưng mang lại thì nó vẫn còn những hạn chế nhất định thể hiện ở
tính ôn hòa trong lập trường giai cấp và thuyết tự nhiên thần luận.
Đặc biệt là trong tư tưởng của các nhà triết học.
1.2. NHÀ NƢỚC TAM QUYỀN PHÂN LẬP
1.2.1. Quan điểm về nhà nƣớc trong lịch sử
* Quan điểm về nhà nước trong triết học cổ đại
+ Ở phương Đông Nhà nước ra đời từ rất sớm, đa phần các
nhà nước phương Đông cổ đại là kiểu nhà nước quân chủ chuyên
chế.


8
+ Ở phương Tây do có những đặc điểm riêng về kinh tế, xã hội
mà sự hình thành nhà nước cũng khác phương Đông.
* Quan điểm về nhà nước trong triết học trung đại

Phương Đông được nối tiếp với các kiểu nhà nước phong
kiến, quân chủ chuyên chế.
Phương Tây được xem là “Đêm trường trung cổ”, nhà nước
đứng dưới nhà thờ, giáo hội, nhà nước phục vụ cho nhà thờ, giáo hội.
* Quan điểm về nhà nước trong triết học cận đại
Phương Đông được nối tiếp thời kỳ phong kiến, nhà nước
vẫn là kiểu quân chủ chuyên chế, mở rộng thêm một số kiểu hình
thức nhà nước khác như quân chủ lập hiến.
Phương Tây được xem là thời kỳ phục hưng, khai sáng, xoá
bỏ “Đêm trường trung cổ”. Rất nhiều tư tưởng tiến bộ về nhà nước
cũng như các lĩnh vực khác được khai sáng, vận dụng vào thực tế tây
Âu thời kỳ này.
* Quan điểm trong triết học Mác – Lênin về nhà nước
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin tập trung vào
phân tích nguồn gốc và bản chất của nhà nước, lý luận của những
người Mác-xít đi sâu nghiên cứu về nhà nước một cách tổng thể
những vấn đề cơ bản nhất, chung nhất về bản chất, chức năng cũng
như vai trò của nhà nước, hình thức tổ chức nhà nước, bộ máy nhà
nước đồng thời làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các bộ phận trong
thượng tầng kiến trúc chính trị - pháp lý với các tổ chức xã hội, giữa
nhà nước với cá nhân.


9
1.2.2. Bản chất chức năng của nhà nƣớc
* Bản chất nhà nước
+ Tính giai cấp của nhà nước
Khi nghiên cứu về nhà nước, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác – Lênin cho rằng, nhà nước xuất hiện và tồn tại trong xã hội có
giai cấp, “nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn

giai cấp không thể điều hòa được, nhà nước là bộ máy trấn áp đặc
biệt của giai cấp này đối với giai cấp khác”[51, tr.9].
+ Tính xã hội của nhà nước
Tất cả các nhà nước bên cạnh việc duy trì sự thống trị giai
cấp thì các nhà nước còn quan tâm giải quyết các vấn đề trực tiếp
nảy sinh trong lòng xã hội, phục vụ lợi ích của các giai tầng khác
trong chừng mực lợi ích của các giai tầng đó không đối lập với lợi
ích của giai cấp thống trị. Nhà nước là phương thức tổ chức đảm bảo
lợi ích chung của xã hội.
* Chức năng của nhà nước
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin nhà nước có hai
chức năng chính: chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
1.2.3. Tƣ tƣởng về nhà nƣớc tam quyền phân lập trong
triết học khai sáng
Voltaire chống lại sự độc đoán của chính quyền chuyên chế,
nhưng lại không muốn lật đổ chế độ quân chủ, xóa bỏ chế độ tư hữu
mà chủ trương thực hiện nền “chuyên chế sáng suốt”, đặt hy vọng
vào những vị vua sáng suốt thấm nhuần triết học.


10
Holbach là triết gia đầu tiên trong truyền thống Khế ước xã
hội, bên cạnh những người khác như Loke, Rousseau. Đóng góp
quan trọng của Holbach là đã sử dụng các phân tích khoa học về
hành vi con người, để từ đó đưa ra một cơ sở mới cho quyền lực
chính trị, đó là sự đồng thuận của người dân.
John Loke cho rằng, trước khi nhà nước xuất hiện, con người
sống trong tự nhiên và tuân thủ theo lẽ tự nhiên đó là trạng thái : “Tự
do hoàn hảo, để sắp xếp cho hành động của họ, sắp đặt tài sản và cá
nhân họ theo những gì mà họ cho là thích hợp, trong khuôn khổ luật

tự nhiên mà không phải hỏi xin phép và phụ thuộc vào ý chí của bất
kỳ ai khác” [33, tr.33].
Montesquieu có khuynh hướng coi sự xuất hiện của nhà nước
và pháp luật mang tính lịch sử xã hội. Theo ông, nhà nước chỉ xuất
hiện ở những điều kiện nhất định của xã hội loài người. Nhà nước tất
yếu xuất hiện khi những cuộc chiến tranh không thể chấm dứt, những
mâu thuẫn trong xã hội đối kháng không thể điều hòa được.
Tiểu kết chƣơng 1
Trong chương 1 ngoài vấn đề chung về nhà nước, chúng tôi
còn đi vào tìm hiểu triết học thời kỳ khai sáng. Có thể nói đây được
xem là thời kỳ phát triển rực rỡ của nhân loại trên nhiều lĩnh vực.
Bên cạnh những giá trị mà triết học khai sáng đem lại thì những hạn
chế trong tư tưởng của các nhà triết học, chính trị thời kỳ này cần
được bổ sung và phát triển. Nhất là tư tưởng về nhà nước với mô
hình tam quyền phân lập, một mô hình nhà nước kiểu mới vừa có
những giá trị tiến bộ, vừa có những mặt hạn chế. Những mặt tiến bộ


11
của thuyết này đã được vận dụng vào xây dựng nhà nước tư sản
đương thời cũng như hiện nay.
Nhà nước ra đời là một tất yếu lịch sử, như V.I.Lênin khẳng
định: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu hễ lúc nào và chừng nào mà
về mặt khách quan những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa
được thì nhà nước xuất hiện”[51, tr.9]. Nhà nước ra đời cũng nhằm
phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Lịch sử xã hội loài người
đã trải qua bốn kiểu hình thức nhà nước tương ứng với nó là mỗi giai
cấp thống trị: Nhà nước Chiếm hữu nô lệ, Nhà nước Phong kiến, Nhà
nước Tư sản và Nhà nước Xã hội chủ nghĩa.

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG TAM QUYỀN PHÂN
LẬP TRONG TRIẾT HỌC KHAI SÁNG
2.1. QUAN ĐIỂM PHÂN CHIA QUYỀN LỰC TRONG TƢ
TƢỞNG TAM QUYỀN PHÂN LẬP
2.1.1. Tƣ tƣởng phân chia quyền lực
Theo học thuyết tam quyền phân lập, công cụ quyền lực của
Nhà nước bao gồm, quyền lập pháp, quyền hành pháp, và quyền tư
pháp. Ba quyền này phải được tách biệt và độc lập với nhau, ràng
buộc, giám định và khống chế lẫn nhau. Các thiết chế quyền lực Nhà
nước được chia tách độc lập, không chỉ tạo điều kiện chuyên môn
hoá các quyền mà quan trọng hơn là để giữa các quyền đó có sự
giám sát, chế ước lẫn nhau, tạo nên sự cân bằng về quyền lực giữa
chúng.


12
Quyền lực ngăn chặn quyền lực chính là điểm cốt yếu trong
chủ trương phân chia quyền lực.
2.1.2. Mối quan hệ giữa các quyền lập pháp, hành pháp,
tƣ pháp
Ba quyền này có sự tách biệt nhau về phạm vi hoạt động
cũng như quyền hạn của mình. Thực tế không có bất kỳ một hệ thống
quyền lực nhà nước nào khi phân định xong thì mỗi bộ phận quyền
lực lại hoàn toàn tự hoạt động riêng biệt. Các loại cơ quan không thể
tự hoạt động riêng rẽ nhau mà có sự đan xen, kiềm chế lẫn nhau,
buộc phải dựa vào nhau.
Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mặc dù hoạt
động theo phạm vi quyền hạn của riêng mình nhưng thực chất giữa
chúng vẫn có mối quan hệ nhất định. Bởi để điều hành hệ thống
chính trị, cả ba quyền phải có mối quan hệ lẫn nhau, ràng buộc nhau

ở những thời điểm nhất định.
2.1.3. Vấn đề kiểm soát quyền lực trong nhà nƣớc tam
quyền phân lập
Ở đâu có quyền lực thì ở đó có thể có sự lạm dụng quyền
lực. Mặc dù là một loại quyền lực đặc biệt, nhưng quyền lực nhà
nước cũng không vượt ra ngoài quy luật trên.
Trong chương II quyển thứ VIII cuốn “Tinh thần pháp luật”
với tựa đề “Sự sa đọa trong nguyên tắc của ba loại chính thể”, Ch.
Montesquieu khẳng định “sự sa đọa của mỗi chính thể hầu như bao
giờ cũng bắt đầu từ sự sa đọa trong nguyên tắc của chính thể ấy” [5,
tr.80].


13
Nhận thức trên cho thấy, tinh thần bình đẳng chân chính
không phải làm cho mọi người đều là chỉ huy hay không ai bị chỉ
huy, mà là chỉ huy những người bình đẳng với mình và phục tùng
con người bình đẳng với mình. Nhưng tự do chính trị không đồng
nghĩa muốn làm gì cũng được mà phải được đặt trong sự kiểm soát
của pháp luật.
Hiện nay, nhận thức về lý thuyết phân chia quyền lực có
những cách tiếp cận thiếu đầy đủ. Nhiều quan điểm coi thuyết này là
căn nguyên của đa nguyên chính trị, nhưng cũng có quan điểm cho
rằng lý thuyết này đi ngược lại với lý thuyết “quản lý nhà nước là
thống nhất”.
Sự cần thiết phải kiểm soát quyền lực còn xuất phát từ
nguyên nhân sâu xa: quyền con người, quyền công dân cần được tôn
trọng, bảo đảm, bảo vệ trong nhà nước pháp quyền.
Tóm lại, kiểm soát quyền lực là một đòi hỏi của chế độ dân
chủ và là một điều kiện tiên quyết để quyền lực được thực hiện một

cách đầy đủ, đúng đắn trong phạm vi thẩm quyền và thủ tục do pháp
luật quy định, đồng thời ngăn ngừa và xử lý kịp thời mọi biểu hiện
tha hóa quyền lực, lộng quyền, lạm quyền, sử dụng quyền lực phục
vụ lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm.
2.2. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƢ
TƢỞNG TAM QUYỀN PHÂN LẬP
2.2.1. Những giá trị của thuyết tam quyền phân lập
Giá trị của học thuyết tam quyền phân lập là đã tạo ra được cơ
chế phân chia quyền lực hữu hiệu giữa các nhánh quyền lực nhà


14
nước. Sự phân quyền này đã ngăn chặn khả năng tập trung tất cả
quyền lực nhà nước vào tay một cá nhân, nhóm người hay một cơ
quan quyền lực duy nhất nào đó đồng thời tránh được sự chuyên chế,
độc tài trong thực thi quyền lực nhà nước.
Thuyết tam quyền phân lập vẫn còn những giá trị tiến bộ vượt
thời đại. Những giá trị này đã được kiểm chứng trong thực tiễn chính
trị hàng trăm năm ở các nước tư bản phát triển:
* Đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật
* Phát huy dân chủ và bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
* Hoàn thiện các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp
* Đảm bảo quyền con người là một trong những giá trị to
lớn của thuyết tam quyền phân lập
2.2.2. Một số hạn chế trong thuyết tam quyền phân lập
Thứ nhất, học thuyết phân quyền chứa nhiều yếu tố bất hợp
lý, do việc đề cao sự phân quyền một cách tuyệt đối nên chưa thấy rõ
được những phương thức kiểm soát quyền lực ngoài nhà nước, mất
đi vai trò giám sát thường xuyên của nhân dân, không đề cao vai trò
giám sát của nhân dân.

Thứ hai, đó là việc quyền lực rơi vào tay một hoặc một nhóm
người, dẫn đến sự mất kiểm soát quyền lực, chuyên quyền, tha hóa
quyền lực.
Thứ ba, không thấy được khi nhân dân đã uỷ quyền cơ quan
nhà nước thì người nắm quyền lực nhà nước có thể liên minh với
nhau lộng quyền trở lại lạm quyền với nhân dân, tức là thiếu cơ chế
kiểm soát nhà nước từ phía nhân dân.


15
Thứ tư, nó chưa giải quyết được tình trạng tranh giành quyền
lực thường xuyên giữa các đảng chính trị, các phe phái chính trị, các
lực lượng xã hội có tham vọng tham gia giành quyền lực nhà nước.
Thứ năm, mô hình này không phù hợp với các quốc gia kém
phát triển.
Tiểu kết chƣơng 2
Như vậy, qua chương 2 có thể thấy, tư tưởng phân chia
quyền lực nhà nước đã được hình thành và phát triển từ thời cổ đại.
Bước vào thời kì chuẩn bị cho cách mạng tư sản, lý luận này phát
triển mạnh mẽ bởi các nhà triết học, chính trị Voltaire, Loke,
Rousseau, Montesquieu. Học thuyết phân chia quyền lực do các ông
đưa ra khi giai cấp tư sản đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh phá bỏ chế
độ phong kiến. Nó đã trở thành vũ khí tư tưởng có hiệu quả cho cuộc
đấu tranh của giai cấp tư sản. Nguyên tắc phân chia quyền lực nhà
nước là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước tư sản.
CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ THAM KHẢO CỦA HỌC THUYẾT
TAM QUYỀN PHÂN LẬP VÀO XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ

MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng nhà nƣớc pháp quyền


16
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, theo quan niệm của
Đảng ta, là nội dung trọng tâm, trụ cột của hệ thống chính trị; là công
cụ thực hiện quyền lực của nhân dân. Nhà nước Việt Nam được xây
dựng theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân và được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
* Tiếp thu quá trình xây dựng nhà nước trong lịch sử dân
tộc
Trải dài theo lịch sử dân tộc hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước đã hun đúc nên nhiều truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt
Nam, như truyền thống đoàn kết dân tộc, truyền thống yêu nước
thương nòi, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.
Năm 1927, trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Nguyễn Ái
Quốc đã cho rằng, làm cách mạng là để chuyển giao quyền lực cho
dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một số ít người. Sau Cách
mạng Tháng Tám, với Tuyên ngôn độc lập và sự ra đời của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
thể hiện tư tưởng về một nhà nước độc lập, dân chủ, cộng hoà, một
nhà nước của dân, do dân, vì dân.
* Bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được thể hiện như sau:
+ Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước



17
+ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà
nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập
trung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
+ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ
chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan
hệ giữa Nhà nước và công dân.
+ Tính chất dân chủ rộng rãi của Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
3.1.2. Vấn đề đặt ra trong việc xây dựng nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Ở Việt Nam, cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền
lực nhà nước ở các cấp chưa được chế định rõ.
Cơ chế kiểm soát quyền lực của tư pháp đối với hành pháp
còn mang tính thụ động.
Bên cạnh đó vẫn còn có những tồn tại hạn chế, cần tiếp tục
quan tâm giải quyết:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật vẫn chưa đồng bộ, thống nhất,
vẫn còn tình trạng có nhiều văn bản chồng chéo, mâu thuẫn.
Thứ hai, tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn
nhiều bất cập.
Thứ ba, việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân còn có
những hạn chế.
Thứ tư, sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn có những mặt hạn chế.


18

Trên cơ sở những vấn đề đặt ra trong xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng tôi mạnh
dạn đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
3.2.1. Đảm bảo tính thƣợng tôn của pháp luật
Tiếp thu giá trị trong các học thuyết về nhà nước, nhất là
thuyết tam quyền phân lập, với giá trị đề cao tính thượng tôn của
pháp luật.
Ở Việt Nam, trong nhận thức và hành động xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước và các nhà lập
pháp, hành pháp, tư pháp luôn xem thượng tôn pháp luật là nguyên
tắc đầu tiên trong mọi nhận thức và hành động.
Một bộ máy nhà nước lành mạnh là một tổ chức trong đó các
quyết sách phải được thực thi một cách nghiêm minh, nhất quán từ
trên xuống dưới mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của cá
nhân người công chức hay người lãnh đạo.
Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân hiện
nay là rất cần thiết trong công cuộc đưa đất nước phát triển.
Bên cạnh việc tuyên truyền đưa pháp luật đến với mọi nhà
mọi người, các cơ quan chính quyền cũng cần hoàn thiện hệ thống
pháp luật, nâng cao trình độ làm luật để luật pháp trở nên thiết thực
dễ đi vào đời sống người dân.


19
3.2.2. Tăng cƣờng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển 2011) của Đảng ta khẳng định:

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực.
Để phát huy dân chủ, củng cố và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
chúng ta cần:
Thứ nhất, Đảng, Nhà nước cần tạo lập những cơ chế, chính
sách, hành lang pháp lý để đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân
dân.
Thứ hai, phải dân chủ hóa thông tin, phải quy định chế độ
cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước
trước nhân dân, bằng cách: tạo lập cơ chế cung cấp thông tin cho
người dân một cách minh bạch, rõ ràng, đầy đủ, chính xác.
Thứ ba, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp về
bảo đảm quyền tự do, quyền con người của mọi công dân.
Thứ tư, phát huy một cách có hiệu quả quyền dân chủ của
nhân dân, cả dân chủ trực tiếp và gián tiếp, nhất là dân chủ trực tiếp.
3.2.3. Đảm bảo quyền con ngƣời trong quá trình xây
dựng và hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam


20
Việt Nam là thành viên của các công ước quốc tế về quyền
con người, nước ta luôn coi trọng và nỗ lực thực hiện các cam kết
quốc tế của mình trên lĩnh vực quyền con người.
Sự đổi mới nhận thức về vấn đề quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân ở nước ta bắt đầu từ Chỉ thị 12/CTTW của Ban Bí thư Trung ương Đảng năm 1992, trong đó Đảng ta
xác định quyền con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển, và

là bản chất của chế độ ta.
Trong Hiến pháp năm 2013, Khoản 1, Điều 2, Chương 1
khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân”[43, tr.2].
Thực tiễn tình hình phát huy vấn đề quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân ở Việt Nam trong nhiều năm vừa
qua đã khẳng định tuyên bố pháp lý này đã được thực hiện một cách
có hiệu quả trong thực tế, được nhân dân cả nước đồng tình và được
các tổ chức quốc tế đánh giá cao.
3.2.4. Hoàn thiện các cơ quan lập pháp, hành pháp và tƣ
pháp
* Đổi mới nâng cao hiệu quả cơ quan lập pháp
Để hoàn thiện cơ quan lập pháp, mà cụ thể ở đây là Quốc hội
cần thực hiện: Tăng số lượng đại biểu quốc hội chuyên trách, hướng
đến xây dựng một Quốc hội chuyên nghiệp với những nghị sĩ chuyên
nghiệp, có thể họp bất cứ lúc nào, có thể trình dự luật, thẩm tra dự


21
luật do các cơ quan khác trình lên và thông qua luật bất cứ khi nào
chứ không nên họp mỗi năm hai lần như Quốc hội hiện nay.
Tăng thẩm quyền và trách nhiệm của từng đại biểu quốc hội
theo cách thành lập văn phòng của từng đại biểu quốc hội để nhân
dân có thể gặp gỡ, trao đổi, trình bày nguyện vọng của mình trước
đại biểu do mình bầu ra.
* Nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan hành pháp
Trong quá trình nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan
hành pháp, chúng ta đang xây dựng một Chính phủ kiến tạo phát
triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ Nhân dân. Để xây

dựng chính phủ kiến tạo trong hoạt động quản lý hành chính nhà
nước cần tạo môi trường thông thoáng cho người dân và các doanh
nghiệp.
* Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp
Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp ở
nước ta cơ quan tư pháp gồm: Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân
dân. Hệ thống các cơ quan tư pháp có trách nhiệm giữ gìn pháp luật,
bảo đảm quyền công dân, công bằng xã hội và công lý.
Cần đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 theo tinh thần và nội dung Nghị quyết số 49/NQ-TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, cải cách tư pháp khẩn trương và
đồng bộ. Cần phải tạo điều kiện để phát triển nhanh các tổ chức bổ
trợ tư pháp, phục vụ trực tiếp cho hoạt động của các cơ quan tư pháp.


22
Tiểu kết chƣơng 3
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam là quá trình tìm kiếm, kiến tạo, thử nghiệm mô hình nhà nước
pháp quyền, đây là một quá trình gian nan, đầy khó khăn, phức tạp.
Việc đứng trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin để xác lập, định
hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một cuộc đấu tranh tư
tưởng lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đây là kết quả của
một quá trình phát triển lý luận và cải tạo thực tiễn theo đúng quy
luật khách quan của nó đáp ứng yêu cầu đòi hỏi quản lý xã hội trong
tình hình mới. Vấn đề này thể hiện trong các bản Hiến pháp từ năm
1946 cho đến 2013, trong quá trình đổi mới tư duy của Đảng qua các
kỳ Đại hội. Việc đứng trên lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời kế thừa có chọn lọc tư tưởng tiến bộ, hợp lý của nhân loại, trong
đó có tư tưởng của các nhà tư tưởng khai sáng về vấn đề nhà nước

pháp quyền trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là quan điểm xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Mặc
dù trong quá trình thực hiện, chúng ta gặp phải những khó khăn, yếu
kém. Song, với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc,
Việt Nam sẽ xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
hiện đại. Một nhà nước đúng nghĩa của nhân dân, do nhân, vì nhân
dân.


23
KẾT LUẬN
Thuyết tam quyền phân lập với ý nghĩa là học thuyết về xây
dựng nhà nước tư sản kiểu mới đã được vận dụng vào xây dựng nhà
nước trong các thời kỳ lịch sử từ khi mới ra đời. Khởi nguồn là nhà
triết học Hy Lạp – La Mã cổ đại Aristote khi ông chia quy trình hoạt
động của nhà nước thành ba bước chính: Quy ước, Thực hành và Xét
xử. Tư tưởng về phân chia quyền lực chỉ trở thành một lý thuyết toàn
diện và độc lập trong thời kỳ Khai sáng với những đại biểu tiên tiến
John Loke, Montesquieu.
Trải qua hàng trăm năm, thuyết tam quyền phân lập vẫn
mang lại giá trị cho các quốc gia trên thế giới hiện nay vận dụng vào
xây dựng nhà nước. Một trong những giá trị quan trọng nhất trong tư
tưởng tam quyền phân lập là luôn đặt nhân dân ở vị trí tối thượng,
tức nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực. Chủ trương xây dựng
nhà nước của dân. Nhân dân là tối thượng và ngọn nguồn xuyên suốt
toàn bộ vấn đề nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của các nhà khai
sáng. Xuất phát từ nền tảng này mà gần như tất cả các nhà khai sáng
đã phác thảo được mô hình tổ chức nhà nước sao cho hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả, sau này đã hoàn thiện và áp dụng vào thực tiễn tổ
chức nhà nước ở các nước có nền dân chủ phát triển. Đó là nhà nước

mà trong đó, nhân dân là người có quyền lực tối cao, quyền lực này
không phải do ai ban tặng mà xuất phát từ các quyền tự nhiên thiêng
liêng bất khả xâm phạm của con người; quyền lực của nhà nước
chẳng qua chỉ là do nhân dân ủy quyền thông qua việc ký với nhau
bản khế ước, khi đi vào xã hội chính trị, xã hội dân sự thì các quyền


24
này không mất đi mà nó chỉ ẩn vào trong chính quyền và nếu chính
quyền vi phạm khế ước thì dân sẽ đòi lại quyền của mình và giao cho
người khác xứng đáng hơn.
Những nội dung trong thuyết tam quyền phân lập đã được
Hồ Chí Minh vận dụng vào xây dựng nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, đặc tiệt là tư tưởng nhân dân là người có quyền lực tối cao. Tư
tưởng này được Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong điều đầu tiên của bản
Hiến pháp 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa “Tất cả quyền
bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt
nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Sau này khi bước
vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân, nguyên tắc này vẫn được giữ vững. Điều 2
Hiến pháp năm 2013 ghi: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức”. Tư tưởng về nhân dân là người có
quyền lực tối cao tiếp tục được Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng
định lại trong các bản Hiến pháp.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Việt Nam lại càng được đặt ra và quan tâm giải quyết. Thuyết tam
quyền phân lập vẫn còn nguyên những giá trị tiến bộ, nhưng không
phù hợp với thể chế chính trị của Việt Nam, chúng ta không thể đưa


25
mô hình này vào xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa,
mà chỉ vận dụng những giá trị tiến bộ của học thuyết này để xây
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân.


×