Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Bai giang Nguyên lý kế toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 99 trang )

MỤC LỤC

MỤC LỤC.............................................................................................................1
LỜI NÓI ĐẦU.......................................................................................................4
CHƯƠNG 1: BẢN CHẤT CỦA HẠCH TOÁN KẾ TOÁN................................5
1.1. Tính tất yếu khách quan của hạch toán kế toán...............................................................5
1.1.1. Hạch toán là nhu cầu tất yếu khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội........................5
1.1.2. Hạch toán kế toán là cần thiết và tất yếu trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá........6
1.2. Hạch toán kế toán trong hệ thống các loại hạch toán......................................................7
1.2.1. Các thước đo sử dụng trong hạch toán......................................................................7
1.2.2. Các loại hạch toán.....................................................................................................7
1.2.3. Các loại hạch toán kế toán........................................................................................8
1.3. Hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý.....................................................................10
1.3.1. Vai trò, vị trí của thông tin kế toán trong hoạt động quản lý..................................10
1.3.2. Yêu cầu thông tin và nhiệm vụ của công tác kế toán..............................................11
1.4.Các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận...............................................................13
1.4.1.Khái niệm và giả định kế toán.................................................................................13
1.4.2. Các nguyên tắc kế toán...........................................................................................14

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN KẾ TOÁN. .18
2.1. Đối tượng của hạch toán kế toán...................................................................................18
2.1.1. Khái quát chung......................................................................................................18
2.1.2.Phân loại vốn kinh doanh theo kết cấu và nguồn hình thành...................................19
2.1.3. Tuần hoàn của vốn kinh doanh...............................................................................22
2.1.4.Quan hệ kinh tế pháp lý thuộc đối tượng hạch toán kế toán....................................22
2.1.5. Kết luận chung về đối tượng hạch toán kế toán......................................................22
2.2. Chu trình kế toán............................................................................................................23
2.3.Hệ thống phương pháp kế toán.......................................................................................23
2.3.1. Các phương pháp hạch toán kế toán.......................................................................23
2.3.2.Mối quan hệ giữa các phương pháp hạch toán kế toán............................................24


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP CHỨNG TỪ.....................................................25
3.1. Khái quát chung về phương pháp chứng từ...................................................................25
3.1.1. Khái niệm và các yếu tố cấu thành phương pháp chứng từ....................................25
3.1.2.Vị trí, vai trò của phương pháp chứng từ.................................................................26
3.2. Hệ thống bản chứng từ...................................................................................................26
3.2.1.Nội dung chứng từ kế toán......................................................................................26
3.2.2. Phân loại chứng từ..................................................................................................27
3.3. Luân chuyển chứng từ....................................................................................................29
3.3.1. Trình tự xử lý và kế hoạch luân chuyển chứng từ...................................................29
3.3.2. Qui định về chứng từ kế toán..................................................................................30

CHƯƠNG 4: PHƯƠNG PHÁP TÀI KHOẢN KẾ TOÁN.................................32
4.1. Khái niệm Phương pháp tài khoản kế toán....................................................................32
4.1.1. Khái niệm và sự cần thiết của phương pháp tài khoản kế toán...............................32

1


4.1.2. Biểu hiện của phương pháp tài khoản kế toán.......................................................32
4.2. Nội dung và kết cấu của tài khoản kế toán....................................................................32
4.2.1. Nội dung của tài khoản kế toán...............................................................................32
4.2.2. Kết cấu của tài khoản kế toán.................................................................................32
4.3. quan hệ đối ứng và phương pháp ghi sổ kép.................................................................33
4.3.1. Các loại ghi chép trên tài khoản kế toán.................................................................33
4.3.2. Phương pháp ghi sổ kép..........................................................................................34
4.4. Kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết..............................................................................35
4.4.1. Kế toán tổng hợp.....................................................................................................35
4.4.2. Kế toán chi tiết........................................................................................................35
4.4.3. Mối quan hệ giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết...........................................35
4.5. Hệ thống tài khoản kế toán............................................................................................35

4.5.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống tài khoản................................................................35
4.5.2. Hệ thống tài khoản..................................................................................................36
4.5.3. Phân loại tài khoản kế toán.....................................................................................41
4.6. Kiểm tra việc ghi chép trên tài khoản kế toán...............................................................46
4.6.1. Tác dụng của việc kiểm tra ghi chép trên tài khoản kế toán...................................46
4.6.2. Bảng cân đối tài khoản............................................................................................46
4.6.3. Bảng đối chiếu số phát sinh kiểu bàn cờ.................................................................47

CHƯƠNG 5: PHƯƠNG PHÁP TÍNH GIÁ.......................................................49
5.1. Khái niệm và sự cần thiết của phương pháp tính giá.....................................................49
5.2. yêu cầu và nguyên tắc tính giá.......................................................................................49
5.2.1. Yêu cầu tính giá......................................................................................................49
5.2.2. Nguyên tắc tính giá.................................................................................................50
5.3. Nội dung và trình tự tính giá tài sản mua vào................................................................51
5.4. Nội dung và trình tự tính giá sản phẩm, dịch vụ sản xuất..............................................52
5.5. Nội dung và trình tự tính giá sản phẩm, hàng hoá dịch vụ tiêu thụ và giá vật tư xuất dùng cho
sản xuất kinh doanh..............................................................................................................53

CHƯƠNG 6: PHƯƠNG PHÁP TỔNG HỢP CÂN ĐỐI...................................56
6.1. Khái quát chung về phương pháp tổng hợp -cân đối kế toán........................................56
6.1.1. Khái niệm và cơ sở hình thành phương pháp.........................................................56
6.1.2. Ý nghĩa, vai trò của phương pháp...........................................................................56
6.2. Hệ thống báo cáo kế toán...............................................................................................57
6.3. Một số báo cáo kế toán chủ yếu.....................................................................................57
6.3.1. Bảng cân đối kế toán...............................................................................................57
6.3.2. Báo cáo kết quả kinh doanh (bảng cân đối thu nhập, chi phí và kết quả)...............60
6.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ......................................................................................61
6.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính................................................................................62

CHƯƠNG 7: KẾ TOÁN CÁC QUÁ TRÌNH KINH DOANH CHỦ YẾU........63

7.1. Khái quát chung về quá trình kinh doanh và nhiệm vụ hạch toán kế toán............................63
7.2. Hạch toán kế toán quá trình cung cấp (mua hàng).........................................................63
7.2.1. Ý nghĩa....................................................................................................................63

2


7.2.2.Nhiệm vụ hạch toán kế toán.....................................................................................63
7.2.3. Phương pháp hạch toán...........................................................................................63
7.3. Hạch toán kế toán quá trình sản xuất.............................................................................66
7.3.1. Ý nghĩa và nhiệm vụ hạch toán kế toán..................................................................66
7.4. Hạch toán kế toán quá trình tiêu thụ..............................................................................68

CHƯƠNG 8: SỔ KẾ TOÁN VÀ CÁC HÌNH THỨC SỔ KẾ TOÁN................73
8.1. Sổ kế toán.......................................................................................................................73
8.1.3. Chu trình kế toán trên sổ.........................................................................................75
8.1.4. Sửa chữa sai sót trên sổ sách kế toán:.....................................................................76
8.2. Các hình thức sổ kế toán cơ bản....................................................................................77
8.2.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của hình thức sổ kế toán.......................................77
8.2.2. Hình thức sổ Nhật ký- Sổ cái..................................................................................78
8.2.3. Hình thức sổ Chứng từ- ghi sổ................................................................................79
8.2.4. Hình thức sổ Nhật ký chung...................................................................................81
8.2.5. Hình thức sổ Nhật ký chứng từ...............................................................................83
8.2.6. Hình thức kế toán trên máy vi tính........................................................................85

CHƯƠNG 9: BỘ MÁY KẾ TOÁN VÀ MÔ HÌNH TỔ CHỨC.........................87
BỘ MÁY KẾ TOÁN...........................................................................................87
9.1. Bộ máy kế toán..............................................................................................................87
9.1.1. Đơn vị kế toán.........................................................................................................87
9.1.2. Khối lượng công tác kế toán và các phần hành kế toán..........................................87

9.1.3. Bộ máy kế toán.......................................................................................................88
9.2. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán...................................................................................89
9.2.1. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán tập trung.............................................................89
9.2.2. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán phân tán..............................................................89
9.2.3. Mô hình tổ chức bộ máy kế toán hỗn hợp..............................................................90

PHỤ LỤC...........................................................................................................92
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................99

3


LỜI NÓI ĐẦU

Lý thuyết hạch toán kế toán là môn học cung cấp những kiến thức cơ bản làm cơ sở
cho việc học tập và nghiên cứu về chuyên ngành kế toán. Qua đó sinh viên được tiếp
cận với các khái niệm, nguyên tắc và phương pháp kế toán để có thể tiếp tục tìm hiểu
các môn học khác của lĩnh vực kế toán cũng như áp dụng vào thực tiễn công tác kế
toán và quản lý doanh nghiệp. Để phục vụ cho việc giảng dậy và học tập môn học này,
bộ môn Kinh tế Vận tải tổ chức biên soạn Bài giảng Lý thuyết hạch toán kế toán:
- Tiến sỹ Phạm Thị Lan Anh viết các chương 1,2,3,6,7,8.
- Thạc sỹ Nguyễn Thị tường Vi viết các chương 4,5.
- Cử nhân Đỗ Minh Ngọc viết chương 9.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế.
Các tác giả hy vọng nhận được các ý kiến đóng góp để cuốn sách có thể hoàn thiện hơn.

Hà nội, tháng 9-2008
Nhóm tác giả

4



CHƯƠNG 1: BẢN CHẤT CỦA HẠCH TOÁN KẾ TOÁN
1.1. Tính tất yếu khách quan của hạch toán kế toán
1.1.1. Hạch toán là nhu cầu tất yếu khách quan của mọi hình thái kinh tế xã hội.
Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Bằng các
hoạt động lao động sản xuất, con người đã tạo ra được của cải vật chất để duy trì cuộc sống
bản thân và cộng đồng xã hội.
Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội ( từ công xã nguyên thuỷ đến tư bản chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa) con người đều phải tiến hành hoạt động lao động sản xuất. Khi tiến hành hoạt
động lao động sản xuất luôn có sự quan tâm đến thời gian lao động đã bỏ ra và kết quả lao
động đem lại, luôn có sự suy nghĩ và tích luỹ kinh nghiệm để lao động sản xuất đem lại kết quả
cao hơn đảm bảo thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của cộng đồng xã hội. Do đó hình thành
nên hoạt động tổ chức và quản lý của con người đối với quá trình tái sản xuất xã hội: trong đó
con người thực hiện việc quan sát hoạt động lao động sản xuất, đo lường phạm vi, qui mô hoạt
động, tính toán, ghi chép thời gian lao động bỏ ra và kết qua hoạt động lao động đem lại để
thấy được cần phải hoạt động lao động sản xuất như thế nào để hao phí lao động ít hơn mà của
cải làm ra nhiều hơn. Nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đòi hỏi con người luôn có sự suy
nghĩ và tích luỹ kinh nghiệm để lao động sản xuất đem lại kết quả cao hơn, vì vậy đã hình
thành nên hoạt động hạch toán.
Khái niệm hạch toán
Hạch toán là sự quan sát, lượng hoá (đo lường, tính toán) và phản ánh (ghi chép) các hiện
tượng và quá trình kinh tế - xã hội, nhằm quản lý và giám đốc các quá trình đó ngày càng chặt
chẽ.
- Quan sát là giai đoạn đầu tiên của việc phản ánh và giám đốc quá trình tái sản xuất.
Quan sát trong hạch toán được hiểu là sự tiếp cận đối tượng phản ánh của nó theo những cách
thức nhất định tuỳ thuộc vào đặc điểm của đối tượng. Qua quá trình quan sát, có thể nắm bắt
được những vấn đề cơ bản về hình thức của đối tượng cần quản lí.
- Lượng hoá là sự đo lường, tính toán quy mô của từng hoạt động, từng quá trình kinh tế
xã hội. Trong đó đo lường là việc biểu hiện các đối tượng của sản xuất (hao phí về tư liệu lao

động, sức lao động, đối tượng lao động, kết quả sản xuất) bằng các loại thước đo thích hợp với
từng đối tượng (thước đo hiện vật, thước đo lao động , thước đo giá trị). Tính toán là việc sử
dụng các phép tính, các phương pháp phân tích và tổng hợp thích hợp để xác định các chỉ tiêu
cần thiết, qua đó có thể rút ra những kết luận chính xác và kịp thời về quá trình sản xuất để đưa
ra những quyết định điều chỉnh đúng đắn.
- Phản ánh là sự cung cấp thông tin cho chủ thể quản lý về một đối tượng nào đó mà
hạch toán đã tiếp cận, đo lường, tổng hợp. Quá trình này được thực hiện bằng cách thu thập xử
lý, ghi lại tình hình, kết quả của các hoạt động kinh tế trong từng thời kỳ, từng địa điểm phát
sinh theo một trình tự nhất định. Dựa trên các số liệu đã được ghi chép, nhà quản lý hoặc
người có quan tâm có thể rút ra những đánh giá, kết luận cần thiết đối với từng loại công việc
khác nhau.
Qua các hình thái kinh tế xã hội khác nhau, hạch toán đã được sử dụng như một công cụ
cần thiết để tổ chức và quản lý hoạt động lao động sản xuất nhằm tạo ra ngày càng nhiều của
cải vật chất hữu ích thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của xã hội. Sản xuất xã hội phát
triển, con người càng có sự quan tâm hơn đến hiệu quả lao động. Vì vậy hoạt động tồ chức và
quản lý quá trình lao động sản xuất, quá trình tái sản xuất xã hội, trong đó có hạch toán cũng
được phát triển và đạt tới trình độ ngày càng cao hơn. Sản xuất phát triển không ngừng, vì vậy
hạch toán cũng được phát triển, đạt tới trình độ ngày càng cao để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của
xã hội. Như vậy rõ ràng là hạch toán gắn liền với quá trình lao động sản xuất và tái sản xuất xã
hội, nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất xã hội và của xã

5


hội loài người. Vì vậy có thể nói hạch toán là tất yếu khách quan trong mọi hình thái kinh tế xã
hôi.
1.1.2. Hạch toán kế toán là cần thiết và tất yếu trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá.
a)Khái quát quá trình hình thành và phát triển của hạch toán kế toán
Để nhận biết sự cần thiết và tính tất yếu của hạch toán kế toán trong nền kinh tế sản xuất
hàng hoá cần nghiên cứu khái quát quá trình hình thành và phát triển của hạch toán kế toán

trong mối liên hệ chặt chẽ với lịch sử phát triển xã hội loài người.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua những hình thái kinh tế xã hội khác
nhau, nền sản xuất xã hội trong các hình thái kinh tế xã hội do đó cũng phát triển ở mức độ
khác nhau. Sản xuất ở các hình thái kinh tế xã hội sau bao giờ cũng phát triển hơn sản xuất ở
các hình thái kinh tế xã hội trước nó. Lịch sử hình thành và phát triển của hạch toán kế toán
cũng tuân theo quy luật phát triển đó - hạch toán kế toán ở hình thái kinh tế xã hội sau được
phát triển hơn hạch toán kế toán ở hình thái kinh tế xã hội trước đó.
* Ở hình thái kinh tế xã hội công xã nguyên thuỷ, trình độ sản xuất còn rất lạc hậu, chưa
phát triển, hoạt động lao động sản xuất của con người được tiến hành bằng các phương thức
hết sức đơn giản, thô sơ nên của cải làm ra trong thời kỳ này không nhiều và chưa có của cải
dư thừa Nhưng trong thời kỳ này con người đã có những suy nghĩ sơ khai về hoạt động tổ
chức và quản lý quá trình lao động sản xuất. Đó là hoạt động quan sát, đo lường, tính toán và
ghi chép các hoạt động lao động sản xuất, thời gian lao động hao phí và kết quả lao động đem
lại với mục đích để điều chỉnh hoạt động lao động sản xuất để tạo ra nhiều của cải hơn
* Sản xuất xã hội phát triển, hình thái kinh tế xã hội chiến hữu nô lệ hình thành. Trong
hình thái kinh tế xã hội này đã có sự phân công lao động xã hội. Sản xuất phát triển hơn, của
cải làm ra đã có dư thừa, nảy sinh các hoạt động trao đổi của cải làm ra giữa con người với
nhau, giữa các bộ tộc, các khu vực địa phương. Hoạt động trao đổi của cải diễn ra ngày càng
đa dạng và phạm vi ngày càng mở rộng dẫn tới sự ra đời của tiền tệ và nền sản xuất hàng hoá
sơ khai cũng hình thành từ đó. Theo các tài liệu lịch sử cho thấy hạch toán kế toán đã hình
thành vào giai đoạn lịch sử này. Con người đã tiến hành hạch toán kế toán trong các trang trại
của chủ nô lệ, trong các nhà thờ, trong các phòng đổi tiền và đặc biệt trong các trung tâm
thương mại... để ghi chép, phản ánh các hoạt động sản xuất, dịchvụ, buôn bán. . . , Hạch toán
kế toán ở thời kỳ ban đầu hình thành, việc ghi chép, phản ánh cũng rất đơn giản: thực hiện ghi
đơn trên các tờ sổ kế toán đơn giản.
* Sản xuất tiếp tục phát triển. xã hội loài người tiếp tục trải qua hình thái kinh tế xã hội
mới - hình thái kinh tế xã hội phong kiến. Sản xuất hàng hoá từng bước phát triển kéo theo sự
phát triển của hạch toán kế toán. Trong thời kỳ này, hạch toán kế toán đã sử dụng hệ thống sổ
kế toán phong phú, chi tiết hơn để ghi chép, phản ánh các hoạt động sản xuất, giao dịch, trao
đổi, buôn bán đa dạng hơn. Tuy nhiên trong hình thái kinh tế xã hội phong kiến, nền sản xuất

hàng hoá tuy đã phát triển song còn rất phân tán nên hạch toán kế toán ở thời kỳ này cũng chỉ
mới phát triển trong chừng mực nhất định so với thời kỳ mới hình thành.
* Hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa thay thế hình thái kinh tế xã hội phong kiến
đã đánh dấu một bước phát triển mới của nền sản xuất xã hội. Với sự phái triển mạnh mẽ của
nền kinh tế sản xuất hàng hoá đòi hỏi hạch toán kế toán phải có sự phát triển mới. Vào thời kỳ
phát triển tiền tư bản, ghi kép trong kế toán đã nảy sinh và dần được ứng dụng rộng rãi cùng
với hệ thống sổ kế toán ngày càng đa dạng, phong phú và chi tiết.
Qua các hình thái kinh tế xã hội, quá trình sản xuất hàng hóa phát triển mạnh mẽ đòi hỏi
HTKT không ngừng phát triển, trở thành một môn khoa học với hệ thống các phương pháp để
ghi chép, phản ánh, thu nhận, kiểm tra, xử lý và cung cấp những thông tin về các hoạt động
kinh tế tài chính, phục vụ cho việc đề ra các giải pháp, các quyết định kinh tế, góp phần thúc
đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội và xã hội loài người.

6


Hạch toán kế toán hình thành và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của
nền kinh tế sản xuất hàng hoá. Bởi vậy có thể nói hạch toán kế toán là cần thiết và tất yếu
trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá.
b)Khái niệm hạch toán kế toán
Hạch toán kế toán là một môn khoa học phản ánh và giám đốc các mặt hoạt động kinh tế
- tài chính ở tất cả các đơn vị, các tổ chức kinh tế xã hội. Hạch toán kế toán có đối tượng cụ thể
là các hoạt động kinh tế, tài chính: sự biến động về tài sản, nguồn vốn, sự chu chuyển của
tiền,...
1.2. Hạch toán kế toán trong hệ thống các loại hạch toán
1.2.1. Các thước đo sử dụng trong hạch toán
Để lượng hoá được các hoạt động và quá trình kinh tế - xã hội rất đa dạng và phong phú,
hạch toán sử dụng nhiều loại thước đo khác nhau tuỳ theo đối tượng mà nó phản ánh và yêu
cầu của người sử dụng thông tin hạch toán. Các loại thước đo thường được sử dụng trong hạch
toán là thước đo hiện vật, thước đo lao động và thước đo giá trị.

Thước đo hiện vật là sử dụng đơn vị đo lường vật lý phù hợp với lý tính của từng đối
tượng (như đo chiều dài của sự vật thì hạch toán có thể sử dụng đơn vị là mét, đo trọng lượng
của sự vật thì dùng đơn vị kg, tạ, tấn...) Thước đo hiện vật cho phép hạch toán có thể đo lường
chính xác từng đối tượng riêng biệt, nhưng không thể sử dụng nó để xử lý các thông tin ban
đầu thành thông tin tổng hợp cho nhiều đối tượng (do mỗi đối tượng có đơn vị đo khác nhau).
Thước đo lao động là sử dụng các đơn vị về thời gian như ngày công, giờ để đo lường
các đối tượng. Trong thực tế hiện nay, thước đo lao động chỉ được sử dụng để đo lường hao phí
lao động để tính toán các chỉ tiêu về năng suất lao động ở các doanh nghiệp.
Thước đo giá trị là sử dụng đơn vị tiền tệ để đo lường đối tượng. Thước đo giá trị có ưu
điểm lớn là giúp cho hạch toán có thể tổng hợp được thông tin từ các thông tin ban đầu về các
đối tượng riêng biệt. Tuy nhiên, khó khăn lớn của hạch toán khi sử dụng thước đo giá trị là lựa
chọn đơn vị tiền tệ theo đơn vị tiền phù hiệu nên độ lớn của nó bị chi phối bởi tình hình lạm
phát, vì vậy, trong nhiều trường hợp, việc sử dụng thước do giá trị đã làm giảm tính chính xác
của thông tin do hạch toán cung cấp. (Chẳng hạn, tổng số vốn đầu năm của một doanh nghiệp
là 100.000.000 đ và cuối năm là 105.000.000 đ, điều đó chưa thể khẳng định được là quy mô
vốn cuối năm lớn hơn đầu năm, vì nếu như tỷ lệ lạm phát là 10% năm, thì số vốn cuối năm lại
nhỏ hơn số vốn đầu năm.)
Như vậy, mỗi loại thước đo đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, để cung cấp thông tin
phản hồi cho chủ thể quản lý một cách kịp thời, chính xác thì hạch toán phải kết hợp nhiều loại
thước đo, tuỳ theo đối tượng phản ánh.
1.2.2. Các loại hạch toán
Cùng với sự phát triển của sản xuất, các hoạt động kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật xảy
ra trong quá trình tái sản xuất xã hội ngày càng phức tạp, đa dạng và phong phú đã tác động
trực tiếp đến đến quá trình tái sản xuất xã hội. Vì vậy để tổ chức và quản lý sản xuất có hiệu
quả, con người cần nhận biết đầy đủ các loại thông tin về hoạt động kinh tế, hiện tượng xã hội,
quá trình kỹ thuật, hoạt động tài chính để từ đó đề ra các quyết định đúng đắn, thúc đẩy sản
xuất xã hội phát triển. Để đáp ứng nhu cầu các loại thông tin đó, hạch toán đã được phát triển
và phân chia thành ba loại khác nhau: hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê, hạch toán kế
toán. Mỗi loại có đối tượng và phương pháp riêng.
a). Hạch toán nghiệp vụ - kỹ thuật

Là loại hạch toán phản ánh từng nghiệp vụ kinh tế- kỹ thuật riêng biệt của một loại hoạt
động nào đó diễn ra trong một tổ chức.
Đặc trưng lớn nhất của loại hạch toán này là tính kịp thời và cụ thể. Nó “sao chụp”,
nghiệp vụ đã xảy ra một cách chân thực, không chỉnh lý, với mục đích cao nhất là cung cấp kịp
thời những thông tin thu nhận được cho chủ thể quản lý, phục vụ cho việc ra các quyết định
quản lý có tính chất giải quyết sự vụ hàng ngày.

7


Hạch toán nghiệp vụ - kỹ thuật sử dụng thước đo rất linh hoạt, tuỳ theo đối tượng mà nó
phản ánh (không bắt buộc phải sử dụng loại thước đo nào)
Thông tin do hạch toán nghiệp vụ - kỹ thuật cung cấp không có tính pháp lý về độ chính
xác của nó. Cách thức cung cấp thông tin cũng rất linh hoạt, như: báo cáo miệng, qua điện
thoại...
b). Hạch toán thống kê (còn gọi là thống kê)
Là một môn khoa học nghiên cứu mặt lượng trong mối liên hệ mật thiết với mặt chất của
các hiện tượng và quá trình kinh tế, xã hội số lớn, nhằm tìm ra xu hướng vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng.
Đặc trưng của thống kê là có thể cung cấp một hệ thống thông tin có tính tổng hợp cao.
Với một hệ thống các phương pháp phân tổ, chỉ số, hồi quy... thống kê, giúp cho chủ thể quản
lý có thể nắm được mặt bản chất của khách thể quản lý, từ đó đề ra được những quyết định để
điều khiển hệ thống theo những mục tiêu lâu dài.
Để thu thập và xử lý thông tin ban đầu, thống kê có thể sử dụng thước đo một cách linh
hoạt, không bắt buộc phải sử dụng một loại thước đo nào và thống kê không nhất thiết phải
phản ánh các đối tượng một cách thường xuyên, liên tục. Việc xác định đối tượng và phương
pháp thống kê tuỳ thuộc vào yêu cầu của chủ thể quản lý. Thông tin của thống kê cung cấp
không có tính pháp lý về độ chính xác của nó.
c). Hạch toán kế toán
Là loại hạch toán có đối tượng phản ánh là tài sản và tình hình vận động của tài sản (sử

dụng tài sản) trong các tổ chức kinh tế.
Đặc trưng lớn nhất của hạch toán kế toán là tính toàn diện và tính liên tục. Tính toàn diện
của hạch toán kế toán được thể hiện ở chỗ nó thu thập và xử lý tất cả thông tin có liên quan đến
đối tượng mà nó phản ánh, tính liên tục được thể hiện ở chỗ nó theo dõi đầy đủ quá trình phát
sinh và hoàn thành của từng nghiệp vụ kinh tế.
Để nghiên cứu đối tượng của mình, hạch toán kế toán đã sử dụng một hệ thống phương
pháp khoa học như chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá, tổng hợp - cân đối kế toán nên thông
tin do hạch toán kế toán cung cấp vừa có tính tổng hợp vừa có tính pháp lý về độ chính xác của
nó.
Hạch toán kế toán bắt buộc phải sử dụng thước đo giá trị, vì đối tượng phản ánh của nó
là tài sản của một tổ chức thường có nhiều loại với đặc tính vật chất khác nhau và mặt khác,
hạch toán kế toán phải cung cấp được những thông tin tổng hợp về tài sản trong tổ chức kinh
tế, như: tổng tài sản của tổ chức kình tế ở một thời điểm nào đó.
Ba loại hạch toán trên tuy có nội dung, nhiệm vụ và phương pháp riêng, nhưng có mối
quan hệ mật thiết với nhau trong việc thực hiện chức năng thông tin phản hồi của hệ thống
quản lý. Giữa các loại hạch toán có quan hệ cung cấp số liệu cho nhau và quan hệ thống nhất
về mặt số liệu trên cơ sở tổ chức thu thập các thông tin ban đầu.
1.2.3. Các loại hạch toán kế toán
Hạch toán kế toán là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về tài sản và
sự vận động của tài sản trong các đơn vị nhằm kiểm tra, giám sát toàn bộ tài sản và các hoạt
động kinh tế tài chính của đơn vị đó. Tuy nhiên do cách ghi chép, thu nhận thông tin có khác
nhau, mức độ tính chất thông tin được xử lý, cung cấp có khác nhau, phạm vi thông tin kế toán
cung cấp, đối tượng nhận thông tin có khác nhau và đặc điểm, mục đích hoạt động của đơn vị
tiến hành hạch toán kế toán có khác nhau nên hạch toán kế toán được phân chia thành những
loại hạch toán kế toán khác nhau.
- Căn cứ vào cách ghi chép, thu nhận thông tin, hạch toán kế toán được chia thành kế
toán đơn và kế toán kép.
* Kế toán đơn là loại hạch toán kế toán mà cách ghi chép thu nhận thông tin về các hoạt
động kinh tế tài chính được tiến hành một cách riêng biệt, độc lập. Kế toán đơn được thực hiện
ngay từ thời kỳ đầu hình thành hạch toán kế toán để ghi chép các hoạt động sản xuất, trao đổi,


8


buôn bán và ngày nay kế toán đơn vẫn còn được thực hiện để ghi chép,thu nhận thông tin về
các hoạt động kinh tế tài chính có liên quan đến tài sản của đơn vị một cách chi tiết, cụ thể (ghi
vào tài khoản kế toán chi tiết) đáp ứng yêu cầu quản lý tài sản đó và về các hoạt động kinh tế
tài chính có liên quan đến tài sản của các đơn vị, tổ chức, cá nhân khác mà hiện tại tài sản đó
đơn vị đang có trách nhiệm quản lý và sử dụng nó (ghi vào tài khoản ngoài bảng).
* Kế toán kép là loại hạch toán kế toán mà cách ghi chép, thu nhận thông tin về các hoạt
động kinh tế tài chính được tiến hành trong mối quan hệ mật thiết với nhau. Kế toán kép được
thực hiện vào thời kỳ hạch toán kế toán đã có những bước phát triển cùng với sự phát triển của
nền sản xuất hàng hoá và ngày nay kế toán kép được thực hiện phổ biến để ghi chép, thu nhận
thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính có liên quan đến tài sản của đơn vị ở mức độ tổng
quát nhất định, đáp ứng yêu cầu quản lý tài sản đó (ghi vào tài khoản kế toán tổng hợp).
- Căn cứ vào mức độ., tính chất thông tin được xử lý, hạch toán kế toán được chia
thành kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
* Kế toán tổng hợp là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế tài
chính được thu nhận, xử lý, ghi chép ở dạng tổng quát. Kế toán tổng hợp sử dụng đơn vị tiền
tệ để phản ánh tình hình tài sản, nguồn hình thành tài sản, tình hình và kết quả hoạt động kinh
tế , tài chính của đơn vị kế toán.
* Kế toán chi tiết (kế toán phân tích) là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt
động kinh tế tài chính được thu nhận, xử lý ở dạng chi tiết, cụ thể và được biểu hiện không chỉ
dưới hình thái tiền tệ mà còn được biểu hiện dưới hình thái hiện vật , lao động theo đối tượng
kế toán cụ thể trong đơn vị kế toán.
Kế toán chi tiết minh họa cho kế toán tổng hợp. Số liệu kế toán chi tiết phải khớp đúng
với số liệu kế toán tổng hợp trong một kỳ kế toán
(thí dụ: Kế toán tiền mặt là kế toán tổng hợp, kế toán tiền mặt tiền Việt Nam là kế toán
chi tiết)
- Căn cứ vào phạm vi thông tin kế toán cung cấp và đối tượng nhận thông tin, hạch

toán kế toán được chia thành kế toán tài chính và kế toán quản trị.
* Kế toán tài chính là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế tài
chính được thu nhận, xử lý với mục đích cung cấp thông tin đó chủ yếu cho các đối tượng bên
ngoài đơn vị (như các cơ quan quản lý nhà nước, các đơn vị, cá nhân tài trợ có quan tâm đến
hoạt động của đơn vị ) với những mục đích khác nhau.
* Kế toán quản trị là loại hạch toán kế toán mà thông tin về các hoạt động kinh tế tài
chính được thu nhận, xử lý với mục đích chủ yếu thoả mãn nhu cầu thông tin của các nhà quản
trị đơn vị. Những thông tin này là cơ sở để đề ra các giải pháp, các quyết định hữu hiệu, đảm
bảo cho quá trình hoạt động của đơn vị có hiệu quả cao trong hiện tại và tương lai.
- Căn cứ vào đặc điểm và mục đích hoạt động của đơn vị tiến hành hạch toán kế toán,
hạch toán kế toán được chia thành kế toán công và kế toán doanh nghiệp.
* Kế toán công là loại hạch toán kế toán được tiến hành ở những đơn vị hoạt động
không có tính chất kinh doanh, không lấy doanh lời làm mục đích hoạt động. Mục tiêu chính
của các đơn vị này là hoạt động phục vụ cộng đồng, vì sự an ninh và phát triển chung của xã
hội (các tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức nhà nước...).
* Kế toán doanh nghiệp là loại hạch toán kế toán thường được tiến hành ở các doanh
nghiệp hoạt động với mục tiêu chính là kinh doanh sinh lời. Tuy nhiên loại hạch toán kế toán
này cũng được tiến hành ở một số doanh nghiệp hoạt động không vì mục đích sinh lời mà chủ
yếu là hoạt động phục vụ cộng đồng.
Các loại hạch toán kế toán được tiến hành trong các đơn vị với mục đích thu nhận, kiểm
tra, xử lý và cung cấp toàn bộ thông tin về tài sản và sự vận động của tài sản, toàn bộ thông tin
về các hoạt động kinh tế tài chính, đảm bảo cho các đơn vị hoạt động hiệu quả hơn, góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội của đất nước.

9


1.3. Hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý
1.3.1. Vai trò, vị trí của thông tin kế toán trong hoạt động quản lý
a) Hạch toán trong hệ thống quản lý

Quản lý là sự tác động có hướng đích của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý để đạt
được những mục tiêu đã định trước. Ta có thể biểu diễn vị trí của hạch toán trong hệ thống
quản lý theo sơ đồ sau:.

Cấu thành nên hệ thống quản lý gồm có 3 bộ phận cơ bản, đó là chủ thể quản lý, khách
thể quản lý và hệ thống thông tin giữa hai bộ phận đó. Chủ thể quản lý tác động lên khách thể
quản lý bằng các quyết định quản lý (còn gọi là thông tin xuôi). Tuy nhiên, để có các quyết
định quản lý chính xác, kịp thời và có hiệu quả thì chủ thể quản lý phải nắm bắt được thực
trạng của khách thể quản lý, tức là phải có hệ thống thông tin phản hồi từ khách thể quản lý tới
chủ thể quản lý. Hệ thống thông tin phản hồi được chủ thể quản lý thu nhận từ nhiều nguồn
khác nhau, nhưng thông tin của hạch toán đóng một vai trò hết sức quan trọng và không thể
thiếu được
b)Vai trò hạch toán kế toán
HTKT có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý xuất phát từ đòi hỏi khách quan của
bản thân hoạt động quản lý và từ bản chất, chức năng của hạch toán kế toán.
Hoạt động tổ chức và quản lý muốn đạt được hiệu quả cao, có được những quyết định
đúng đắn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế thì cần thiết phải có những thông tin về các hoạt động
kinh tế tài chính một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác và có hệ thống. Những thông tin như vậy
chỉ có thể có được thông qua hạch toán kế toán.
Hạch toán kế toán có bản chất, chức năng là thu nhận, xử lý và cung cấp toàn bộ thông
tin về các hoạt động kinh tế tài chính trong các đơn vị. Nhờ hệ thống các phương pháp khoa
học, thông tin được thu thập một cách kịp thời, đầy đủ, chính xác, toàn diện và có hệ thống.
Thông tin của hạch toán kế toán có độ tin cậy cao, mô tả được thực trạng hoạt động kinh
tế tài chính trong đơn vị, là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống thông tin kinh
tế, là cơ sở giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước, những nhà kinh tế, quản lý ở các đơn vị
hoạch định các chính sách, đường lối phát triển, phương hướng hoạt động của đơn vị phù hợp
trong phạm vi toàn xã hội và trong từng đơn vị.
c) Đối tượng sử dụng thông tin kê toán
Đối tượng sử dụng thông tin kế toán thường được phân loại theo quan hệ với đơn vị kế
toán (về lợi ích, về khả năng ảnh hưởng tới các hoạt động của đơn vị...), theo đó, đối tượng kế

toán bao gồm:
- Các nhà quản lí: là những người trực tiếp tham gia quản trị kinh doanh, quản lí doanh
nghiệp, ra các quyết định kinh doanh, chỉ đạo tác nghiệp trực tiếp tại đơn vị, gồm có: Hội đồng
quản trị, Chủ doanh nghiệp, Ban giám đốc.
- Những người có lợi ích liên quan:
+ Lợi ích trực tiếp: gồm có các nhà đầu tư, chủ nợ. . . của đơn vị
+ Lợi ích gián tiếp: cơ quan thuế, cơ quan thống kê, các cơ quan quản lí nhà nước, cơ
quan tài chính, công nhân viên, các nhà phân tích tài chính . . .
Do có sự khác biệt về mục đích sử dụng, cách thức sử dụng, trình độ kế toán, quan hệ lợi
ích. . . nên mỗi đối tượng trên có yêu cầu khác nhau đối với thông tin kế toán và tiếp cận hệ
thống kế toán dưới những góc độ khác nhau.

10


1.3.2. Yêu cầu thông tin và nhiệm vụ của công tác kế toán
a). Yêu cầu của thông tin kế toán
Để phát huy vai trò của hạch toán kế toán, thực hiện được những nhiệm vụ quy định,
hạch toán kế toán cần đảm bảo đầy đủ những yêu cầu sau:
 Tài liệu kế toán cung cấp phải đảm bảo tính so sánh và nhất quán.
Thông tin kế toán cung cấp phải đảm bảo
- Khả năng so sánh với tài liệu kế hoạch giúp cho kế toán thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch đơn vị đã đề ra.
- Khả năng so sánh giữa tài liệu kế toán kỳ này với tài liệu kế toán kỳ trước để có thể
xác định được xu hướng biến động và phát triển của đơn vị.
- Khả năng so sánh tài liệu kế toán giữa các đơn vị trong cùng ngành, lĩnh vực hoạt
động để đánh giá mối tương quan giữa các đơn vị, giúp các đơn vị học hỏi kinh nghiệm lẫn
nhau để hoạt động hiệu quả hơn,đồng thời cũng để tổng hợp tài liệu theo ngành, theo lĩnh vực
phục vụ công tác điều hành và quản lý trong phạm vi toàn ngành, toàn lĩnh vực và trong phạm
vi toàn xã hội.

- Phải đảm bảo tính so sánh và sự nhất quán giữa các kỳ hạch toán trong 1 đơn vị và giữa
các đơn vị. Do đó kế toán trong các đơn vị phải thông báo và trình bày những nội dung,
phương pháp kỹ thuật hạch toán mà đơn vị áp dụng. Ngoài ra phải thông báo và trình bầy
những thay đổi trong quá trình tiến hành thu nhận, xử lý thông tin có ảnh hưởng đến tính so
sánh và sự nhất quán của thông tin kế toán nhằm đảm bảo cho việc sử dụng thông tin kế toán
trong quá trình ra quyết định kinh tế được đúng đắn.
 Chính xác, trung thực và khách quan.
Thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính phải được kế toán ghi chép, tính toán, phản
ánh một cách chính xác, trung thực và khách quan đúng với bản chất kinh tế, phạm vi, qui mô
của hoạt động đó, đảm bảo thông tin kế toán có độ tin cậy và có thể kiểm tra,xác minh được,
giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước, những nhà kinh tế, quản lý trong các đơn vị nhận thức
đúng thực tế hoạt động cũng như thực trạng tình hình kinh tế tài chính của đơn vị, từ đó có giải
pháp, qyết định đúng đắn, phù hợp, đảm bảo cho đơn vị hoạt động hiệu quả hơn.
 Kịp thời.
Thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính phải được kế toán thu nhận: xử lý và cung
cấp kịp thời đảm bảo sự phù hợp của thông tin kế toán cung cấp với tình hình thực tế của đơn
vị, giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước, những nhà kinh tế, quản lý sử dụng thông tin kế
toán có thể ra những quyết định kinh tế kịp thời thích hợp, sát đúng với thực tế và tương lai
phát triển của đơn vị. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phần triển nhanh thì việc cung cấp
thông tin kịp thời có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc ra các quyết định đúng đắn, kịp
thời, bởi vậy để cung cấp thông tin kịp thời, kế toán cần được trang bị và ứng dụng các phương
tiện kỹ thuật ghi chép, tính toán, thông tin hiện đại.
 Đầy đủ.
Hoạt động kinh tế tài chính trong các đơn vị ngày càng đa dạng và phong phú, các hoạt
động kinh tế tài chính lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, tác động hỗ trợ bổ sung cho nhau,
bởi vậy thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính phải được kế toán cung cấp một cách đầy
đủ, toàn diện giúp cho việc ra quyết định thích hợp với từng loại hoạt động cũng như tổng thể
toàn bộ hoạt động của đơn vị. Nếu thông tin cung cấp không đầy đủ có thể dẫn đến sự nhận
thức sai lệch, phân tích đánh giá không đúng đắn hoạt động của đơn vị, do đó ra những quyết
định sẽ không thích hợp không đem lại hiệu quả cho đơn vì và xã hội.

 Rõ ràng, dễ hiểu.
Thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính không những cần thiết cho các cơ quan quản
lý nhà nước, những nhà kinh tế, quản lý trong các đơn vị mà còn cần thiết cho cả những người
lao động trong đơn vị, bởi vậy thông tin kế toán cung cấp phải rõ ràng, dễ hiểu giúp cho cơ

11


quan quản lý, những nhà kinh tế, quản lý cũng như người lao động trong đơn vị dễ dàng nhận
thức đúng đắn hoạt động và kết quả hoạt động trong đơn vị, phát huy quyền làm chủ tập thể,
thực hiện kiểm tra hoạt động của đơn vị, góp phần thúc đẩy hoạt động của đơn vị ngày càng
hiệu quả hơn.
 Tổ chức công tác kế toán trong đơn vị phải quán triệt nguyên tắc tiết kiệm, hiệu
quả.
Công tác kế toán cũng như mọi công việc khác trong đơn vị khi tiến hành đều phải thực
hiện tiết kiệm chi phí và đạt hiệu quả cao góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động toàn đơn vị.
Những yêu cầu trên đối với kế toán đều phải thực hiện đầy đủ, tuy nhiên trong từng giai
đoạn phát triển và mục đích sử dụng thông tin kế toán, mà yêu cầu này hay yêu cầu khác có
được chú trọng hơn. Các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà kinh tế, quản lý trong các đơn vị
với mục đích sử dụng thông tin kế toán có khác nhau nên cần có sự cân đối hài hoà giữa các
yêu cầu chính xác, trung thực, khách quan, kịp thời, đầy đủ đối với thông tin kế toán.
b)Nhiệm vụ
Nhà nước ta đã ban hành pháp lệnh kế toán thống kê, Điều lệ tổ chức kế toán nhà nước
cũng như các chế độ, thể lệ về kế toán đảm bảo sự quản lý tập trung, thống nhất của nhà nước
về kế toán và đảm bảo cơ sở pháp lý cho kế toán ở các đơn vị Trong các văn bản nhà nước đã
ban hành có quy định: Tất cả các đơn vi có sử dụng tài sản và hoạt động thực hiện chức năng,
nhiệm vụ đã được qui định đều phải tiến hành hạch toán kế toán. Các đơn vị đó được gọi
chung là đơn vị kế toán, trong đó phân biệt: Đơn vị kế toán cấp chủ quản, đơn vị kế toán cấp
cơ sở và đơn vị kế toán phụ thuộc. Các đơn vị kế toán sử dụng hạch toán kế toán thực hiện
việc thu nhận, xử lý thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính một cách thường xuyên, liên

tục, toàn diện và có hệ thống, và định kỳ trong những khoảng thời gian nhất định (tuần kỳ,
tháng, quý, năm) cung cấp những thông tin đã thu nhận và xử lý cho các cơ quan quản lý nhà
nước, các nhà kinh tế, quản lý ở các đơn vị có nhu cầu sử dụng thông tin kế toán.
Các đơn vị kế toán khi tiến hành công tác kế toán đều phải sử dụng thước đo tiền tệ là
đồng ngân hàng Việt Nam. Trong trường hợp đơn vị có sử dụng ngoại tệ phải ghi nguyên tệ và
quy đổi ra đồng ngân hàng Việt Nam theo tỷ giá quy định. Nếu ngoài thước đo tiền tệ sử dụng
thêm thước đo hiện vật, thước đo lao động thì phải sử dụng đơn vị đo lường chính thức của
nhà nước quy định (thí dụ: xăng dầu- đơn vị là lít, …).
Nhiệm vụ cụ thể
Với chức năng và đối tượng của mình, hạch toán kế toán có các nhiệm vụ sau:
- Ghi chép, tính toán, phản ánhcác nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong đơn vị hạch toán
theo chuẩn mực và chế độ kế toán (số hiện có, tình hình luân chuyển và sử dụng tài sản; quá
trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; hoạt động sử dụng kinh phí của đơn vị).
Nhiệm vụ này thể hiện rõ chức năng thu nhận, xử lý thông tin và là nền tảng, là cơ sở cho
các nhiệm vụ sau của hạch toán kế toán. Các đơn vị khi hình thành và bước vào hoạt động thực
hiện chức năng, nhiệm vụ đã được xác định đều phải có một số tài sản hoặc kinh phí nhất định.
Số tài sản và kinh phí này trong quá trình hoạt động của đơn vị thường xuyên bị biến động,
thay đổi phạm vi, qui mô và hình thái để đạt được kết quả và mục đích hoạt động của đơn vị.
Cơ quan quản lý nhà nước, những nhà kinh tế, quản lý ở các đơn vị cần có thông tin về số tài
sản, kinh phí hiện có của đơn vị, về sự biến động, thay đổi phạm vi, qui mô, hình thái của tài
sản, về quá trình và kết quả sử dụng tài sản, sử dụng kinh phí. Bởi vậy với vị trí quan trọng của
hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý, hạch toán kế toán trước hết có nhiệm vụ thu nhận và
xử lý những thông tin về số hiện có của tài sản và kinh phí, về tình hình và kết quả hoạt động
của đơn vị để có thể đáp ứng nhu cầu thông tin của các cơ quan quản lý nhà nước, những nhà
kinh tế, quản lý ở các đơn vị.
- Kiểm tra giám sát các khoản thu, chi tài chính, các nghĩa vụ thu nộp, thanh toán nợ;
kiểm tra việc quản lý, sử dụng tài sản và nguồn hình thành tài sản Phát hiện và ngăn ngừa kịp

12



thời những hành vi vi phạm pháp luật về tài chính, kế toán (hành động lãng phí, tham ô, xâm
phạm tài sản…)
Nhiệm vụ này thể hiện chức năng kiểm tra của hạch toán kế toán đảm bảo cho hạch toán
kế toán phát huy vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế.
Trong điều kiện quản lý kinh tế theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước, mọi
hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị phải được tiến hành theo nhiệm vụ kế hoạch đã được
xây dựng (trên cơ sở khoa học và hiệu quả, và trong phạm vi, khuôn khổ các chính sách, chế
độ, thể lệ về kinh tế tài chính của nhà nước, đơn vị).
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả số tài sản và kinh phí của đơn vị, cũng như quản lý có
hiệu quả các hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị, hạch toán kế toán thông qua việc thu
nhận xử lý thông tin về: số tài sản, kinh phí hiện có, về tình hình và kết quả hoạt động của đơn
vị, kiểm tra các hoạt động sử dụng tài sản, sử dụng kinh phí. Kiểm tra và đối chiếu với nhiệm
vụ kế hoạch đã đề ra, đối chiếu với chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế tài chính của nhà nước,
của đơn vị. Đảm bảo cho đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ đã đề ra, chấp hành đúng các chínhsách chế độ tài chính, để hoạt động có hiệu quả, tránh được những tổn thất cho đơn vị và xã
hội.
- Cung cấp các số liệu, tài liệu phục vụ cho việc điều hành và quản lý các hoạt động
trong các đơn vị. Kiểm tra và phân tích hoạt động kinh tế tài chính, phục vụ công tác lập kế
hoạch và theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch, phục vụ công tác thống kê và thông tin kinh tế.
Nhiệm vụ này thể hiện rõ chức năng cung cấp thông tin của hạch toán kinh tế cho các đối
tượng sử dụng thông tin kế toán; cơ quan nhà nước, những nhà kinh tế, quản lý trong các đơn
vị có liên quan đảm bảo cho hạch toán kế toán phát huy vai trò quan trọng trong quản lý kinh
tế.
Vai trò quan trọng của hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý kinh tế không những thể
hiện ở việc thu nhận, xử lý thông tin mà còn được thể hiện ở việc cung cấp số liệu, tài liệu đã
thu nhận, xử lý đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin. Những thông tin kinh tế chứa đựng trong
các tài liệu, số liệu do kế toán cung cấp phản ánh một cách đầy đủ, kịp thời, chính xác, có hệ
thống tình hình hoạt động của đơn vị. Những thông tin này có độ tin cậy cao, giúp cho cơ
quan quản lý nhà nước, những nhà kinh tế, quản lý nghiên cứu phân tích và đánh giá đúng đắn
thực trạng hoạt động của đơn vị, từ đó đềra các giải pháp, các quyết định chính xác, phù hợp

với thực tế của đơn vị, thúc đẩy đơn vị hoạt động đúng hướng, có hiệu quả, đem lại lợi ích cho
đơn vị và cho xã hội.
Để phát huy đầy đủ vai trò quan trọng của hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý kinh
tế cần thực hiện đầy đủ những nhiệm vụ đã nêu, không coi nhẹ hay xem trọng nhiệm vụ nào.
Thực hiện tốt nhiệm vụ ghi chép, tính toán, phản ánh mới có nền tảng, có cơ sở để thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra và cung cấp số liệu, tài liệu... Thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, nhiệm vụ
cung cấp số liệu, tài liệu... mới phát huy đầy đủ vai trò của hạch toán kế toán.
Xuất phát từ góc độ thực hiện nhiệm vụ của hạch toán kế toán, trong điều lệ tổ chức kế
toán nhà nước có ghi: "Kế toán là công việc ghi chép tính toán bằng con số dưới hình thức giá
trị, hiện vật và thời gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá trị để phản ánh, kiểm tra tình
hình vận động của các loại tài sản, quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng
vốn và kinh phí của nhà nước cũng như từng tổ chức, xí nghiệp".
1.4.Các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận
Các nguyên tắc kế toán được thừa nhận rộng rãi là một hệ thống bao gồm các giả định về
môi trường kế toán, các khái niệm cơ bản của kế toán và các nguyên tắc kế toán chủ yếu được
những người hành nghề kế toán chấp nhận rộng rãi nhằm tạo sự thống nhất trong việc sử dụng
và trình bày các thông tin kế toán.
1.4.1.Khái niệm và giả định kế toán
a) Khái niệm đơn vị kế toán

13


Đơn vị kế toán là tổ chức có tài sản riêng và chịu trách nhiệm quản lý, sử dụng tài sản
cho các hoạt động diễn ra trong tổ chức.
Cần có sự độc lập về mặt kế toán, tài chính giữa một đơn vị kế toán với chủ sở hữu của
nó và với các đơn vị kế toán khác. Đơn vị kế toán phải lập báo cáo kế toán theo quy định.
Các doanh nghiệp đòi hỏi phải phân định rõ ràng tài sản của doanh nghiệp với tài sản của
chủ sở hữu doanh nghiệp và của công nhân viên trong doanh nghiệp đó. Hạch toán kế toán
trong doanh nghiệp chỉ phản ánh tài sản do doanh nghiệp kiểm soát, không phản ánh tài sản

riêng của chủ sở hữu và công nhân viên doanh nghiệp.
b) Giả định hoạt động liên tục
Giả thiết doanh nghiệp hoạt động liên tục, vô thời hạn hoặc không bị giải thể trong tương
lai gần là điều kiện cơ bản để có thể áp dụng các nguyên tắc, chính sách kế toán.
Giả thiết này được hình thành dựa trên cơ sở thực tế là hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được tiến hành một cách liên tục không có điểm dừng, tài sản của doanh nghiệp sẽ
thường xuyên vận động qua các giai đoạn cơ bản của quá trình kinh doanh, như: thu mua, dự
trữ, sản xuất, bán hàng...vì vậy, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp phải tính toán trên cơ sở
so sánh tổng thu nhập đầu ra với tổng nguồn lực đã hao phí trong một khoảng thời gian nào đó.
Với giả thiết này, các nguồn lực sử dụng cho hoạt động kinh doanh không được điều chỉnh
theo giá thị trường trong quá trình doanh nghiệp nắm giữ nguồn lực đó. Hay nói cách khác, với
giả thiết doanh nghiệp hoạt động liên tục thì nguyên tắc cơ bản của tài chính doanh nghiệp là
lấy tổng thu bù tổng chi khi xác định lợi nhuận. Khi sự liên tục trong quá trình sản xuất - kinh
doanh của doanh nghiệp không còn tính liên tục, như, doanh nghiệp chuẩn bị được bán,
chuyển đổi hình thức sở hữu, sáp nhập, chia tách, giải thể, phá sản... thì giả thiết này sẽ không
được vận dụng vào công tác hạch toán kế toán nữa, khi đó, các nguyên tắc chung được hình
thành từ giả thiết doanh nghiệp hoạt động liên tục sẽ không còn hiệu lực.
c) Đơn vị thước đo tiền tệ
Sử dụng thước đo giá trị (thước đo tiền tệ) làm đơn vị thống nhất trong ghi chép và tính
toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, nói cách khác, kế toán chỉ phản ánh những biến động có
thể biểu hiện bằng tiền. Theo nguyên tắc này, tiền tệ được sử dụng như một thước đo cơ bản và
thống nhất trong tất cả các báo cáo tài chính.
Các nghiệp vụ kinh tế cần được ghi chép phản ánh bằng một đơn vị tiền tệ thống nhất
(đồng tiền kế toán), trường hợp nghiệp vụ phát sinh liên quan đến các đồng tiền khác, cần quy
đổi về đơn vị tiền tệ thống nhất để ghi sổ theo phương pháp thích hợp.
d) Kỳ kế toán
Doanh nghiệp hoạt động liên tục nhưng những người quan tâm đến tình hình tài chính
của doanh nghiệp lại cần thông tin hạch toán kế toán trong từng khoảng thời gian nhất định để
phân tích, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, để từ đó đưa ra được những quyết
định hợp lý. Vì vậy, hạch toán kế toán phải được tiến hành trên cơ sở giả thiết kỳ kế toán.

Kỳ kế toán là khoảng thời gian kể từ thời điểm kế toán mở sổ để ghi chép các nghiệp vụ
kinh tế - tài chính phát sinh trong doanh nghiệp đến thời điểm kế toán khoá sổ để lập báo cáo
kế toán.
Để bảo đảm tính so sánh được của các chỉ tiêu trên báo cáo kế toán, kỳ kế toán đòi hỏi
phải được xác định theo những khoảng thời gian tương đương nhau, như: tháng, quý, năm... Kì
kế toán năm được gọi là niên độ kế toán. Ngày bắt đầu và kết thúc niên độ kế toán do chế độ
kế toán từng quốc gia quy định cụ thể. (theo Luật Kế toán VN niên độ kế toán bắt đầu từ ngày
01/01 đến hết ngày 31/12, với đơn vị kế toán mới: ngày bắt đầu là ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh hoặc ngày có hiệu lực ghi trên quyết định thành lập đến hết ngày
31/12).
1.4.2. Các nguyên tắc kế toán
- Nguyên tắc khách quan

14


Số liệu do kế toán cung cấp phải mang tính khách quan và có thể kiểm tra được, thông
tin kế toán cần không bị ảnh hưởng bởi bất kì các định kiến chủ quan nào.
Sự vận dụng nguyên tắc này thể hiện: cơ sở.ghi chép các nghiệp vụ, cũng như phản ánh
thông tin của kế toán là phải dựa vào các bằng chứng khách quan. Nghĩa của từ khách quan ở
đây là thông tin kế toán được phản ánh không thiên lệch dựa .trên các bằng chứng có thể xác
định được. hóa đơn, thỏa thuận hợp đồng v.v... là những bằng chứng khách quan của kế toán.
Trong hoạt động ghi chép phản ánh thông tin tài chính kế toàn viên có thể có nhiều bằng
chứng khác nhau để hỗ trợ cho hoạt động ghì chép của mình nhưng bao giờ họ cũng dựa vào
những bằng chứng khách quan nhất Khi ghi nhậngiá trị của một tài sản kế toán có thể dựa vào
nhiều nguồn thông tin khác nhau như giá trên thị trường cửa tài sản tương tự giá theo chuyên
gia đánh giá... tất cả các thông tin đó đều là bằng chứng khách quan, nhưng chúng có thể khác
nhau về giá trị. Chẳng hạn công ty mua một chiếc xe tải với giá rẻ 1 00 triệu đồng, trong khi xe
cùng loại trên thị trường đang được rao bán là 115 triệu đồng. Trọng trường hợp có nhiều hơn
một bằng chứng khách quan về giá trị cửa tài sản như vậy , kế .toán sẽ phải đánh giá bằng

chứng nào khách quan nhất. Đối với chiếc xe tải ở trên, giá 100 triệu đồng là khách quan hơn
vì nó phản ánh số tiền mà công ty thực sự chi ra và hoàn toàn có thể xác định được. Giá 1 là
triệu đồng không dáng tin cậy vì có thể có các cửa hàng khác bán chiếc xe cùng loại với giá
110 hay 120 triệu đồng. trong trường hợp này giá đã thực hiện (giá gốc) là thông tin khách
quan nhất vì nó vừa đo lường dược lại có bằng chứng tin cậy có thể xác định được dễ đàng.
Thực tế này trở thành thông lệ nên kế toán thường dựa vào giá gốc để ghi chép các nghiệp vụ
khi nó phát sinh từ đó mà hình thành nên nguyên tắc giá phí trong ghi chép kế toán.
- Nguyên tắc giá phí
Việc tính toán giá trị tài sản, công nợ, vốn, doanh thu, chi phí phải dựa trên giá trị thực tế
mà không quan tâm đến giá thị trường. Nguyên tắc này được đảm bảo với giả định về sự hoạt
động liên tục của đơn vị kế toán và thước đo tiền tệ.
Theo nguyên tắc này, thì các loại tài sản được hình thành trong doanh nghiệp đều phải
tính theo giá phí ở thời điểm doanh nghiệp nhận được tài sản đó. Giá phí tài sản là biểu hiện
bằng tiền sự hao phí các nguồn lực của doanh nghiệp để nhận được tài sản. Giá phí tài sản
không thay đổi trong khoảng thời gian doanh nghiệp đang kiểm soát tài sản ở một trạng thái
nhất định, khi tài sản được sử dụng, thì giá phí của tài sản sẽ chuyển hoá vào giá phí của các tài
sản mới được hình thành và cho đến khi sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp đã bán
được thì giá phí của các nguồn lực đã hao phí sẽ kết tinh vào tổng chi phí để xác định kết quả
kinh doanh.
- Nguyên tắc doanh thu thực hiện
Doanh thu phải được xác định bằng số tiền thực tế thu được và được ghi nhận khi quyền
sở hữu hàng hoá bán ra được chuyển giao và khi các dịch vụ được thực hiện.
Nguyên tắc này được hình thành trên cơ sở giả thiết đơn vị kế toán và thước đo tiền tệ,
tài sản của đơn vị kế toán có thể được hình thành từ nhiều mối quan hệ kinh tế - tài chính khác
nhau, nhưng, hạch toán kế toán cần phải phân biệt được khoản thu từ kết quả sản xuất – kinh
doanh của doanh nghiệp và khoản thu từ các hoạt động khác. Doanh thu là tổng giá trị các lợi
ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sán xuất, kinh
doanh thông thường của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu. Nguyên tắc doanh
thu thực hiện đòi hỏi hạch toán kế toán ghi nhận doanh thu của doanh nghiệp khi sản phẩm,
hàng hoá, dịch vụ đã thực hiện được giá trị (được khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền)

và phải ghi doanh thu theo từng nghiệp vụ bán hàng. Các trường hợp doanh nghiệp thu được
tài sản từ bên ngoài nhưng không liên quan đến việc cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ,
như: vay, chủ sở hữu góp vốn, thu hồi nợ... thì không được ghi nhận là doanh thu của doanh
nghiệp.
- Nguyên tắc phù hợp

15


Nguyên tắc phù hợp đòi hỏi hạch toán kế toán tính toán và ghi nhận chi phí phải phù hợp
với doanh thu.
Nguyên tắc này được hình thành trên cơ sở hai giả thiết cơ bản đó là doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh liên tục và kỳ kế toán. Doanh thu thực hiện được ghi nhận theo từng nghiệp
vụ bán hàng và cung cấp dịch vụ, nhưng chi phí lại là sự hao phí của các nguồn lực đã sử dụng
trong kỳ nào đó Vì quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp là một quá trình liên tục
nên có nhiều trường hợp nguồn lực sử dụng trong kỳ này lại kết tinh vào sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ của kỳ sau, sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ hình thành trong kỳ này nhưng lại tạo ra
doanh thu của kỳ sau... Khi quán triệt nguyên tắc này, công tác hạch toán kế toán phải thực
hiện các yêu cầu chủ yếu như sau:
+ Chi phí sản xuất - kinh doanh phải được ghi nhận trên cơ sở hao phí của các nguồn lực
đã sử dụng cho sản xuất - kinh doanh, tức là phải căn cứ vào thời gian đem lại lợi ích kinh tế
của nguồn lực sử dụng để phân bổ giá phí của nguồn lực vào chi phí. Chẳng hạn, một chiếc Ô
tô được đưa vào sử dụng trong doanh nghiệp và dự kiến sử dụng được trong 10 năm thì giá phí
của chiếc Ô tô đó phải phân bổ vào chi phí sản xuất - kinh doanh của 10 năm.
+ Nguồn lực được sử dụng cho hoạt động nào thì phải phân bổ giá phí của nguồn lực vào
đúng kết quả của hoạt động đó.
+ Khi sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đã đủ điều kiện để ghi doanh thu thì giá phí của sản
phẩm, hàng hoá, dịch vụ đó mới được tính vào giá vốn để xác định kết quả kinh doanh.
Việc tuân thủ nguyên tắc phù hợp là điều kiện để nâng cao tính chính xác của thông tin
do hạch toán kế toán trình bày trên các báo cáo kế toán. Tuy nhiên, để quán triệt nguyên tắc

này một cách toàn diện trong công tác hạch toán kế toán là không đơn giản, bởi vì, giá phí của
các loại nguồn lực có quy mô khác nhau và thời gian sử dụng hữu ích của từng loại cũng khác
nhau. Để hạn chế sự phức tạp cho công tác hạch toán kế toán khi tuân thủ nguyên tắc phù hợp,
hạch toán kế toán thiết lập nguyên tắc trọng yếu để bổ sung cho nguyên tắc này.
- Nguyên tắc trọng yếu
- Thông tin kế toán mang tính trọng yếu là những thông tin có ảnh hưởng đáng kể tới bản
chất của nghiệp vụ hoặc ảnh hưởng tới những đánh giá của đối tượng sử dụng về tình hình tài
chính của đơn vị, hoặc ảnh hưởng tới đối tượng sử đụng trong việc ra quyết định.
- Chỉ chú trọng những vấn đề mang tính trọng yếu, quyết định bản chất và nội dung của
sự vật, không quan tâm tới những yếu tố ít tác dụng trong báo cáo tài chính.
Nguyên tắc này chú trọng đến những vấn đề mang tính trọng yếu, quyết định bản chất và
nội đung của các thông tin trình bày trên báo cáo kế toán. Điều đó có nghĩa là: không phải tất
cả các nguồn lực sử dụng trong doanh nghiệp đều tuân thủ nguyên tắc phù hợp khi tính toán
chi phí. Tuân thủ nguyên tắc trọng yếu trong công tác hạch toán kế toán đòi hỏi hạch toán kế
toán phải đáp ứng được các yêu cầu:
+ Đối với những nguồn lực có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu dài thì phải tuân thủ
nguyên tắc phù hợp khi phân bổ giá phí của các nguồn lực này vào chi phí sản xuất - kinh
doanh. Chẳng hạn, một chiếc ô tô mua vào để sử dụng trong doanh nghiệp mà kế toán phân bổ
toàn bộ giá phí của nó vào chi phí sản xuất - kinh doanh của một niên độ kế toán là vi phạm
nguyên tắc phù hợp và nguyên tắc trọng yếu, bởi vì, thời gian sử dụng ôtô rất dài và giá phí
của ô tô chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất – kinh doanh của bất kỳ một doanh
nghiệp nào, tức là, cách làm này sẽ làm sai lệch rất lớn đến thông tin kết quả sản xuất- kinh
doanh của doanh nghiệp trong từng kỳ kế toán.
+ Đối với những nguồn lực có giá trị nhỏ thì nguyên tắc trọng yếu cho phép phân bổ một
lần giá phí của nó vào chi phí sản xuất - kinh doanh trong kỳ kế toán mà nó được sử dụng.
Chẳng hạn, với một chiếc quạt để bàn có giá 100 000 đ và có thể sử dụng được 5 năm thì kế
toán không cần phân bổ giá phí của chiếc quạt đó trong 5 năm (theo nguyên tắc phù hợp) mà
chỉ cần phân bổ một lần toàn bộ giá phí của chiếc quạt đó vào chi phí sản xuất – kinh doanh
khi nó được đưa vào sử dụng.


16


Như vậy, việc tuân thủ nguyên tắc trọng yếu và nguyên tắc phù hợp trong công tác hạch
toán kế toán làm cho thông tin do hạch toán kế toán cung cấp là thông tin đáng tin cậy, chứ
không phải là thông tin tuyệt đối chính xác. Một vấn đề quan trọng đặt ra cho công tác hạch
toán kế toán là chỉ ra giới hạn để áp dụng nguyên tắc trọng yếu, tức là phải qui định hợp lý giá
trị chuẩn của tài sản để áp dụng nguyên tắc trọng yếu.
- Nguyên tắc nhất quán
Trong quá trình thực hiện công tác hạch toán tất cả các khái niệm, nguyên tắc, chuẩn
mực và sự tính toán phải được thực hiện trên cơ sở nhất quán từ kỳ này sang kỳ khác (ít nhất là
trong 1 niên độ kế toán).
Quán triệt nguyên tắc nhất quán trong hạch toán kế toán ở các doanh nghiệp nhằm hạn
chế sự tuỳ tiện trong việc quán triệt nguyên tắc phù hợp và nguyên tắc trọng yếu, từ đó bảo
đảm tính khách quan khi xác định chỉ tiêu thu nhập doanh nghiệp.
- Nguyên tắc công khai
Tất cả tư liệu liên quan đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động của đơn vị kế toán
phải được thông báo đầy đủ cho người sử dụng.
- Nguyên tắc thận trọng
Thông tin kế toán được cung cấp cho người sử dụng cần đảm bảo sự thận trọng thích
đáng để người sử dụng không hiểu sai hoặc không đánh giá quá lạc quan về tình hình tài chính
của đơn vị. Do đó, kế toán:
- Chỉ ghi tăng nguồn vốn sở hữu khi có chứng cứ chắc chắn.
- Ghi giảm nguồn vốn sở hữu khi có chứng cứ có thể.
- Cần lập dự phòng cho một số trường hợp nhất định nhưng không được quá cao.
Kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp liên quan đến lợi ích của
nhiều chủ thể khác nhau, như: Nhà nước, chủ sở hữu... vì vậy, thông tin trình bày trên báo cáo
kế toán có độ tin cậy càng cao càng tốt. Tuy nhiên, do việc quán triệt nguyên tắc doanh thu
thực hiện, nguyên tắc giá phí dẫn đến kết quả kinh doanh mà hạch toán kế toán cung cấp còn
ẩn chứa nhiều yếu tố có thể gây ra thiệt hại trong tương lai của doanh nghiệp. Chẳng hạn như:

kết quả kinh doanh của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở giả định hàng tồn kho của
doanh nghiệp không bị giảm giá, các khoản phải thu khách hàng đều thu được... trên thực tế,
các yếu tố này không phải lúc nào cũng “thuận buồm, xuôi gió” như vậy. Cho nên, để chỉ tiêu
kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán nào đó là hiện thực nhất, ít ẩn chứa
yếu tố gây thiệt hại nhất thì hạch toán kế toán phải tuân thủ nguyên tắc thận trọng.
Khi quán triệt nguyên tắc thận trọng thì các doanh nghiệp phải tính toán các khoản dự
phòng giảm giá hàng tồn kho, phải thu khó đòi và giảm giá các khoản đầu tư tài chính. Chi phí
dự phòng thực chất là khoản chi phí được tính trước, tạo nguồn bù đắp các khoản thiệt hại có
thể phát sinh trong tương lai. Như vậy, khi các đối tượng cần phải dự phòng xuất hiện thì
nguyên tắc thận trọng là sự bổ sung cho nguyên tắc giá phí, lúc đó, giá gốc của tài sản được
đối chiếu với giá thị trường để tính toán mức dự phòng.

17


CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN KẾ TOÁN
2.1. Đối tượng của hạch toán kế toán
2.1.1. Khái quát chung
Là một môn khoa học độc lập, như các bộ môn khoa học khác, hạch toán kế toán cũng
có đối tượng nghiên cứu riêng, đó là tài sản và tình hình vận động của tài sản trong các tổ chức
kinh tế như doanh nghiệp, các đơn vị hành chính sự nghiệp... Nói chung, bất cứ một tổ chức
nào có quản lý và sử dụng một lực lượng tài sản nhất định đều phải thực hiện công tác ghi
chép một cách có hệ thống về sự hình thành và tình hình sử dụng tài sản trong tổ chức. Tuy
nhiên, hạch toán kế toán được thể hiện đầy đủ nhất, rõ ràng nhất cả về đối tượng, phương
pháp, vai trò của nó là khi nó phản ánh tài sản và tình hình vận động của tài sản trong các
doanh nghiệp.
Đối tượng của HTKT là tài sản (vốn kinh doanh), nguồn hình thành tài sản (nguồn vốn
kinh doanh), sự tuần hoàn của tài sản qua các quá trình hoạt động và qua các mối quan hệ kinh
tế -pháp lý phát sinh trong quá trình tồn tại và hoạt động của một đơn vị kế toán.
Trong các doanh nghiệp tài sản được sử dụng cho quá trình sản xuất -kinh doanh để thu

lợi nhuận, để tính toán được lợi nhuận, hạch toán kế toán phải quy đổi tất cả tài sản mà doanh
nghiệp sử dụng thành tiền để tính toán chi phí sản xuất - kinh doanh, vì vậy, chỉ có những tài
sản của doanh nghiệp quy đổi được thành tiền thì mới thuộc đối tượng của hạch toán kế toán.
Theo điều 9 Luật Kế toán hiện hành, phụ thuộc vào đặc điểm riêng của từng loại hình
kinh tế (doanh nghiệp nhà nước, tư nhân, doanh nghiệp kinh doanh, doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán…) mà tài sản và tình hình vận động của tài
sản của các tổ chức kinh tế được hạch toán kế toán theo dõi theo những chỉ tiêu khác nhau :
1.Đối tượng kế toán thuộc hoạt động thu, chi ngân sách nhà nước, hành chính, sự nghiệp;
hoạt động của đơn vị, tổ chức có sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước gồm:
a) Tiền, vật tư và tài sản cố định;
b) Nguồn kinh phí, quỹ;
c) Các khoản thanh toán trong và ngoài đơn vị kế toán;
d)Thu, chi và xử lý chênh lệch thu, chi hoạt động;
đ) Thu, chi và kết dư ngân sách nhà nước;
e) Đầu tư tài chính, tín dụng nhà nước;
g) Nợ và xử lý nợ của Nhà nước;
h) Tài sản quốc gia;
i) Các tài sản khác có liên quan đến đơn vị kế toán.
2. Đối tượng kế toán thuộc hoạt động của đơn vị, tổ chức không sử dụng kinh phí ngân
sách nhà nước gồm các tài sản, nguồn hình thành tài sản theo quy định tại các điểm a, b, c, d
và i khoản 1
3. Đối tượng kế toán thuộc hoạt động kinh doanh gồm:
a) Tài sản cố định, tài sản lưu động;
b) Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu;
c) Các khoản doanh thu, chi phí kinh doanh, chi phí khác và thu nhập;
d) Thuế và các khoản nộp ngân sách nhà nước;
đ) Kết quả và phân chia kết quả hoạt động kinh doanh;
e) Các tài sản khác có liên quan đến đơn vị kế toán.
4. Đối tượng kế toán thuộc hoạt động ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, chứng khoán, đầu
tư tài chính, ngoài quy định tại khoản 3 còn có:

a) Các khoản đầu tư tài chính, tín dụng;
b) Các khoản thanh toán trong và ngoài đơn vị kế toán;

18


c) Các khoản cam kết, bảo lãnh, các giấy tờ có giá.
Khi phản ánh tài sản của một doanh nghiệp, một mặt, kế toán phải phản ánh quá trình
chu chuyển giá trị của tài sản, mặt khác kế toán còn theo dõi cả về nguồn gốc hình thành tài
sản của doanh nghiệp. Chính vì vậy, để hiểu rõ đối tượng của hạch toán kế toán trong một
doanh nghiệp, cần phải tìm hiểu cách thức phân loại tài sản của doanh nghiệp theo quan điểm
của hạch toán kế toán.
2.1.2.Phân loại vốn kinh doanh theo kết cấu và nguồn hình thành
2.1.2.1. Tài sản và phân loại tài sản trong doanh nghiệp
a) Khái niệm tài sản:
Tài sản là tất cả những nguồn lực kinh tế mà đơn vị đang nắm giữ, sử dụng cho hoạt
động của đơn vị, thoả mãn đồng thời các điều kiện sau:
+ Đơn vị có quyền sở hữu hoặc quyền kiểm soát và sử đụng trong thời gian dài.
+ Có giá phí xác định
+ Chắc chắn thu được lợi ích trong tương lai từ việc sử dụng các nguồn lực này.
b) Phân loại tài sản trong doanh nghiệp:
Quá trình sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp thực chất là quá trình chi tiêu một
lượng tài sản ban đầu để tạo ra một lượng tài sản mới, xét về mặt giá trị, quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình chu chuyển giá trị tài sản. Mục tiêu chung của các doanh nghiệp sản
xuất - kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận, nhưng để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi các doanh
nghiệp phải thu hồi được vốn đầu tư hình thành nên các loại tài sản phục vụ cho quá trình sản
xuất - kinh doanh, tức là các doanh nghiệp phải quan tâm đến thời gian chu chuyển giá trị của
từng loại tài sản. Thời gian chu chuyển của một loại tài sản nào đó được tính từ thời điểm hình
thành tài sản đó cho đến thời điểm tài sản đó chuyển hoá thành vốn bằng tiền, bởi vì, trong nền
kinh tế thị trường, tiền tệ mới là tài sản được toàn bộ xã hội thừa nhận giá trị của nó. Với tiêu
thức này, tài sản của doanh nghiệp được phân chia thành hai loại là tài sản ngắn hạn với tài sản

dài hạn.
Căn cứ vào thời gian đầu tư, sử dụng và thu hồi toàn bộ tài sản trong một doanh nghiệp
được chia thành hai loại là tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn.
*)Tài sản ngắn hạn: Là những tài sản thuộc quyền sở hữu của đơn vị, có thời gian đầu tư,
sử dụng và thu hồi trong vòng 1 năm. Thuộc tài sản ngắn hạn bao gồm:
+ Tiền: Bao gồm tiền mặt (tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng, bạc, đá quý), tiền gửi ngân
hàng, kho bạc và tiền đang chuyển (tiền đang chuyển là các loại tiền của doanh nghiệp đang
trên đường vận chuyển để thanh toán cho chủ nợ. Đây là số tiền mà doanh nghiệp đã xuất quỹ
nhưng chưa nhận được chứng từ xác nhận đã thanh toán hoặc đã nộp vào ngân hàng nhưng
chưa có giấy báo có).
Loại tài sản này thể hiện khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp, bởi vì, vốn bằng
tiền có thể sử dụng để thanh toán bất cứ khoản nợ nào của doanh nghiệp.
+ Đầu tư tài chính ngắn hạn: Là những khoản đầu tư về vốn nhằm mục đích sinh lời có
thời gian thu hồi gốc và lãi trong vòng 1 năm như: góp vốn liên doanh ngắn hạn, cho vay ngắn
hạn, đầu tư chứng khoán ngắn hạn . . .
Loại tài sản này thường có thể chuyển đổi thành tiền bất cứ lúc nào mà không gây ra
thiệt hại lớn cho doanh nghiệp. Vì vậy, vốn dầu tư tài chính ngắn hạn có thời gian chu chuyển
rất nhanh, chỉ xếp sau vốn bằng tiền và nó cũng được coi là khả năng thanh toán tức thời của
doanh nghiệp.
+ Các khoản phải thu ngắn hạn: Là lợi ích của đơn vị hiện đang bị các đối tượng khác
tạm thời chiếm dụng như: phải thu khách hàng ngắn hạn, phải thu nội bộ, trả trước ngắn hạn
cho người bán, phải thu về thuế GTGT đầu vào được khấu trừ...
Thời gian chuyển đổi thành tiền của các khoản phải thu phụ thuộc thời gian cam kết của
con nợ và việc chuyển đổi khoản phải thu thành vốn bằng tiền có thể gặp rủi ro khi con nợ mất
khả năng thanh toán.

19


+ Hàng tồn kho: Là các loại tài sản được dự trữ cho sản xuất hoặc cho kinh doanh

thương mại, bao gồm: hàng mua đang đi đường, nguyên vật liệu, công cụ đụng cụ, sản phẩm
dở dang, thành phẩm, hàng hoá và hàng gửi đi bán.
Là tài sản được hình thành thông qua quá trình cung cấp hoặc sản xuất, chúng được
chuyển hoá thành vốn bằng tiền hoặc khoản phải thu khi trải qua quá trình tiêu thụ. Thời gian
chu chuyển của từng loại hàng tồn kho tuỳ thuộc vào chu kỳ sản xuất - kinh doanh của doanh
nghiệp. Quá trình chu chuyển giá trị của hàng tồn kho tuỳ theo loại hình kinh doanh của từng
doanh nghiệp.
+ Tài sản ngắn hạn khác: là các tại sản ngắn hạn không thuộc các nhóm trên bao gồm:
tạm ứng chi phí trả trước ngắn hạn và thế chấp, ký cược, ký quỹ ngắn hạn.
*) Tài sản dài hạn: Là những tài sản được đầu tư, có thời gian sử dụng và thu hồi trên 1
năm. Tài sản dài hạn bao gồm:
+ Tài sản cố định: Là những tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài.
Theo quy định hiện hành, tài sản cố định phải thoả mãn đồng thời ít nhất hai điều kiện là có
thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên và có giá trị từ 10 triệu VND trở lên.
Đối với loại tài sản này, thời gian chu chuyển giá trị của nó tương ứng với thời gian sử
dụng hữu ích của tài sản. Khi tài sản không sử dụng được nữa thì giá trị tài sản mới được coi là
chuyển hoá toàn bộ thành tiền. Chẳng hạn, một chiếc ôtô vận tải doanh nghiệp sử dụng được
10 năm thì chúng ta có thể quan niệm thời gian chu chuyển giá trị của chiếc ôtô đó là 10 năm.
Theo hình thái biểu hiện, tài sản cố định được chia thành tài sản cố định hữu hình và tài
sản cố định vô hình.
Tài sản cố định hữu hình là những tài sản cố định có hình thái vật chất cụ thể, bao gồm:
nhà cửa, vật kiến trúc; máy móc thiết bị; thiết bị, phương tiện vận tải, truyền dẫn; thiết bị
chuyên dùng cho quản lý; cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm.
Tài sản cố định vô hình là những tài sản cố định không có hình thái vật chất cụ thể, thể
hiện một số tiền mà đơn vị đã đầu tư, chi phí nhằm thu được các lợi ích kinh tế trong tương lai
như: quyền sử dụng đất, bản quyền, bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, phần mềm
máy tính, giấy phép khai thác và nhượng quyền.
+ Đầu tư tài chính dài hạn: là những khoản đầu tư về vốn nhằm mục đích sinh lời có thời
gian thu hồi gốc và lãi trên 1 năm như: đầu tư vào công ty con, đầu tư vào công ty liên kết, góp
vốn liên doanh dài hạn, cho vay dài hạn.

+ Các khoản phải thu dài hạn: là lợi ích của đơn vị hiện đang bị đối tượng khác tạm thời
chiếm dụng, có thời hạn thu hồi trên 1 năm như: phải thu khách hàng dài hạn, trả trước dài hạn
cho người bán . . .
+Bất động sản đầu tư: Là bất động sản bao gồm: quyền sử dụng đất, nhà hoặc một phần
của nhà hoặc cả nhà và đất, cơ sở hạ tầng do người chủ sở hữu hoặc người đi thuê tài sản theo
hợp đồng thuê tài chính nắm giữ nhằm mục đích thu lợi từ việc cho thuê hoặc chờ tăng giá mà
không phải để sử dụng trong sản xuất, cung cấp hàng hoá, dịch vụ hoặc sử dụng cho mục đích
quản lý hoặc đem bán trong kỳ hoạt động kinh doanh thông thường. Bất động sản đầu tư khác
với bất động sản chủ sở hữu sử dụng.
+ Tài sản dài hạn khác là tài sản dài hạn không thuộc các nhóm trên, như thuế thu nhập
được hoãn lại cho các niên độ sau, khoản ký quỹ, ký cược dài hạn, chi phí trả trước dài hạn...
Việc phân chia tài sản của doanh nghiệp theo thời gian chu chuyển giá trị để thực hiện
công việc ghi chép kế toán có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính hữu ích của thông tin kế
toán, bởi vì, nó cung cấp được tình hình phân bổ vốn và năng lực thanh toán tức thời, năng lực
thanh toán nhanh,năng lực thanh toán tiềm tàng của doanh nghiệp.
2.1.2.2. Nguồn vốn và phân loại nguồn vốn
a) Khái niệm nguồn vốn

20


Nguồn vốn là những quan hệ tài chính mà thông qua đó đơn vị có thể khai thác hay huy
động một số tiền nhất định để đầu tư tài sản. Nguồn vốn cho biết tài sản của đơn vị do đâu mà
có và đơn vị phải có những trách nhiệm kinh tế, pháp lý gì đối với tài sản của mình.
b) Phân loại nguồn vốn trong doanh nghiệp:
Doanh nghiệp chỉ là nơi tổ chức hoạt động sản xuất - kinh doanh, bản thân doanh nghiệp
không có tài sản, vì vậy, hạch toán kế toán phải xem xét tài sản của doanh nghiệp theo nguồn
hình thành để thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp trước các nhà tài trợ và các chủ
nợ. Dựa vào tính chất của các nguồn tài trợ (ổn định hay tạm thời, dài hạn hay ngắn hạn...)
hạch toán kế toán phân chia nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp thành 2 loại: Nguồn

vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.
Toàn bộ tài sản của doanh nghiệp có thể được hình thành từ hai nguồn là nguồn vốn chủ
sở hữu và nợ phải trả.
*) Nợ phải trả: là giá trị tài sản mà doanh nghiệp chiếm dụng được trong quan hệ thanh
toán (phải trả người bán, phải trả công nhân viên, phải nộp Nhà nước...) hoặc hình thành thông
qua quan hệ tín dụng (vay ngân hàng, vay đối tượng khác...)
Đặc trưng của nguồn vốn này là tính tạm thời, do vậy, nợ phải trả chiếm tỷ trọng càng
cao trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp thì tình hình tài chính của doanh nghiệp càng
không ổn định.
Nợ phải trả được phân loại theo thời hạn thanh toán, gồm có:
- Nợ ngắn hạn: là các khoản nợ có thời hạn thanh toán dưới 1 năm hoặc 1 chu kì kinh
doanh. Ví dụ: vay ngắn hạn, phải trả người bán, phải trả phải nộp ngân sách Nhà nước, các
khoản phải trả công nhân viên, các khoản nhận kí quỹ, kí cược ngắn hạn. . .
- Nợ dài hạn: là các khoản nợ có thời hạn thanh toán trên 1 năm hoặc trên 1 chu kì kinh
doanh như: vay dài hạn, nợ dài hạn về thuê tài chính TSCĐ, các khoản nhận kí quỹ dài hạn, nợ
do mua tài sản trả góp dài hạn...
*) Nguồn vốn chủ sở hữu: Là số tiền do các nhà đầu tư, các sáng lập viên đóng góp cũng
như được hình thành từ kết quả hoạt động.
Mỗi doanh nghiệp đều thuộc về một người chủ nhất định mà pháp luật thừa nhận, chẳng
hạn như doanh nghiệp nhà nước thì chủ sở hữu là Nhà nước, doanh nghiệp tư nhân thì chủ sở
hữu là người thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp cổ phần thì chủ sở hữu là cổ đông mà
người đại diện là hội đồng quản trị... Để khai sinh một doanh nghiệp, thí chủ sở hữu phải đầu
tư vào doanh nghiệp một lượng tài sản nhất định. Trong quá trình sản xuất - kinh doanh, chủ sở
hữu có thể mở rộng quy mô của doanh nghiệp mình bằng cách đầu tư thêm tài sản vào doanh
nghiệp, hoặc để lại phần lợi nhuận từ doanh nghiệp mà chủ sở hữu được hưởng.
Đặc trưng của nguồn vốn chủ sở hữu là nguồn tài trợ ổn định, dài hạn cho doanh nghiệp,
sử dụng tài sản từ nguồn vốn chủ sở hữu thì các doanh nghiệp không phải trả lãi, lợi ích của
chủ sở hữu thu được từ doanh nghiệp là số lãi mà họ được hưởng khi phân phối thu nhập của
doanh nghiệp.
Theo mục đích đầu tư tài sản của chủ sở hữu vào doanh nghiệp, nguồn vốn chủ sở hữu

được chia thành hai loại:
- Nguồn vốn kinh doanh là giá trị tài sản mà chủ sở hữu tài trợ cho hoạt động cơ bản
của doanh nghiệp (hoạt động sản xuất - kinh doanh); đây là bộ phận tài sản đã và đang tham
gia vào quá trình tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp, nguồn vốn KD bao
gồm: nguồn vốn kinh doanh, chênh lệch do đánh giá lại tài sản và tỳ giá hối đoái chưa xử lý,
lợi nhuận chưa phân phối.
- Nguồn vốn chuyên dùng là giá trị tài sản mà chủ sở hữu tài trợ cho các hoạt động khác
ngoài hoạt động sản xuất kính doanh, như; nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản, quỹ đầu tư phát
triển, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi...
Việc phân chia tài sản của doanh nghiệp theo nguồn hình thành để thực hiện công việc
ghi chép kế toán cũng có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao tính hữu ích của thông tin kế toán,

21


bởi vì, nó cung cấp được thông tin về nhu cầu thanh toán và tình hình các khoản tài trợ cho
doanh nghiệp hoạt động.
2.1.3. Tuần hoàn của vốn kinh doanh
Tài sản trong đơn vị sản xuất được thể hiện cụ thể là các loại vốn kinh doanh, các nguồn
vốn kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, tài sản và nguồn vốn của đơn vị kế toán thường
xuyên vận động qua các giai đoạn khác nhau. Qua mỗi một giai đoạn vận động vốn thay đổi cả
về hình thái hiện vật lẫn giá trị. Sự vân động của vốn được thể hiện qua các mô hình sau :
Đối với doanh nghiệp sản xuất: T - H – SX – H’ – T’
Đối Với kinh doanh thương mại: T - H – T’
Đối với kinh doanh tiền tệ, tín dụng: T – T’
Các giai đoạn vận động của vốn sẽ khác nhau với lĩnh vực kinh doanh khác nhau. Số
lượng các giai đoạn cũng như thời gian vận động của mỗi giai đoạn có thể khác nhau nhưng
các lĩnh vực kinh doanh đều giống nhau ở điểm vốn hoạt động ban đầu biểu hiện ở hình thái
giá trị và kết thúc thu được vốn cũng dưới hình thái giá trị. Mỗi một giai đoạn vận động đều
có 3 chỉ tiêu cần được kế toán phản ánh, đó là: chi phí, thu nhập và kết quả hoạt động.

Tóm lại, đối tượng chung của hạch toán kế toán là tài sản và sự vận động của tài sản trong
quá trình hoạt động của các đơn vị. Trong đơn vị sản xuất đối tượng cụ thể của hạch toán kế
toán là các loại vốn kinh doanh, các nguồn vốn kinh doanh (2 mặt biểu hiện của tài sản) và các
giai đoạn (quá trình) kinh doanh (biểu hiện của sự vận động của tài sản-các khoản chi phí, các
khoản thu nhập và kết quả kinh doanh).
2.1.4.Quan hệ kinh tế pháp lý thuộc đối tượng hạch toán kế toán
Bất kỳ một chủ thể kinh tế nào muốn tiến hành hoạt động đều phải có một lượng vốn
nhất định. Một mặt, lượng vốn đó được biểu hiện dưới dạng vật chất hoặc phi vật chất, được
đo lường bằng thước đo tiền tệ gọi là tài sản. Mặt khác, lượng vốn đó lại được hình thành từ
một hoặc nhiều nguồn khác nhau gọi là nguồn vốn. Mội tài sản có thể do một hay nhiều nguồn
vốn hình thành và ngược lại một nguồn vốn có thể tham gia hình thành nên một hay nhiều tài
sản khác nhau. Do đó về mặt lượng, tại bất kể thời điểm nào, tổng giá trị tài sán và tổng giá trị
nguồn vốn của một đơn vị kế toán cũng luôn bằng nhau. Sự cân bằng giữa tài sản và nguồn
vốn được thể hiện qua các phương trình kế toán sau:
Tổng giá trị tài sản = Tổng nguồn vốn
Tài sản và nguồn vốn là hai mặt của cùng một lượng tài sản trong một doanh nghiệp.
Xem xét giá trị tài sản để biết được doanh nghiệp đang quản lí, sử dụng những tài sản nào, giá
trị từng loại tài sản là bao nhiêu. Xem xét nguồn vốn để biết các lài sản của doanh nghiệp do
đâu mà có hoặc được dùng vào việc gì. Thông qua 2 cách xem xét này người ta có thể đánh giá
tình hình tài chính, khả năng thanh toán, . . . của doanh nghiệp. Mỗi phần tài sản và nguồn vốn
của một doanh nghiệp được trình bày vào một bên của bảng Cân đối kế toán
2.1.5. Kết luận chung về đối tượng hạch toán kế toán
Chúng ta có thể khái quát đối tượng của hạch toán kế toán như sau:

22


Hạch toán kế toán theo dõi tài sản và tình hình sử dụng tài sản cho quá trình sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp theo hai góc độ là tài sản phân loại theo thời gian chu chuyển
giá trị (gọi tắt là tài sản) và tài sản theo nguồn hình thành (gọi tắt là nguồn vốn). Như vậy, đối
tượng của hạch toán kế toán có tính hai mặt, nhưng cân bằng với nhau về mặt lượng.

Tài sản của doanh nghiệp thuộc đối tượng của hạch toán là tài sản được doanh nghiệp sử
dụng cho quá trình sản xuất - kinh doanh nên nó luôn luôn ở trạng thái vận động, tuy nhiên sự
vận động của tài sản trong doanh nghiệp có tính lắp đi, lắp lại và được gọi là sự tuần hoàn của
vốn kinh doanh.
Mỗi loại tài sản hoặc nguồn vốn của doanh nghiệp đều gắn liền trực tiếp với lợi ích kinh
tế, quyền lợi và trách nhiệm của nhiều phía khác nhau.
Mỗi đối tượng cụ thể của hạch toán kế toán, thường biến động theo nhiều nguyên nhân
khác nhau, hay nói cách khác, đối tượng của hạch toán kế toán có tính đa dạng trong từng nội
dung cụ thể.
Những đặc điểm trên đây của đối tượng hạch toán kế toán chi phối việc hình thành hệ
thống phương pháp của hạch toán kế toán.
2.2. Chu trình kế toán
Chu trình kế toán là việc tập hợp các bước kế toán thực hiện các công việc đo lường, thu
thập, xử lý và cung cấp cácthông tin kế toán. Một chu trình kế toán bắt đầu từ việc ghi chép
ban đầu các nghiệp vụ và kết thúc bằng việc lập và cung cấp các báo cáo kế toán để tổng hợp
các ảnh hưởng cửa các nghiệp vụ tới tài sản. nợ và vôn chủ sở hữu. Chu trình kế toán có tính
chất lặp lại theo chu kỳ. Một chu trình kế toán có thể được thực hiện bởi nhiều bước khác
nhau. Số lượng và trình tự các bước trong một chu trình có thể khác nhau tùy theo hình thức kế
toán thủ công hay trên máy tính và phụ thuộc vào đặc điểm, yêu cầu quản lý của từng đơn vị.
Nhìn chung một chu trình kế toán thường gồm các bước sau:
Bước 1. Lập hoặc tiếp nhận chứng từ: tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh đều được
kế toán lập chứng từ theo các yếu tố quy định phụ thuộc vào từng loại nghiệp vụ, liên quan đến
từng đối tượng kế toán cụ thể. Đối với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh ở đơn vị khác nhưng có
liên quan đến đơn vị kế toán (mua hàng hóa, dịch vụ, v.v...) thì được tiếp nhận để làm căn cứ
ghi sổ kế toán.
Bước 2. Ghi sổ nhật ký: số liệu về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phản ánh trên chứng
từ được phân loại theo thứ tự thời gian trên sổ nhật ký.
Bước 3. Ghi sổ cái: căn cứ vào sổ nhật ký các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo thứ tự
thời gian trên sổ nhật ký được phân loại theo từng đổi tượng kể toán và được ghi vào tài khoản
kế toán tương ứng của mỗi đối tượng trên sô cái.

Bước 4. Ghi các bút toán điều chỉnh, khóa sổ và tính số dư cuối kỳ: cuối kỳ, sau khi
toàn bộ số liệu trên các chứng từ gốc vào sổ nhật ký và sổ cái, kế toán ghi các bút toán phân
bổ, kết chuyển và các bài toán điều chỉnh (nếu có) trước khi khóa sổ để tính tổng số phát sinh
và số dư cuối kỳ của các tài khoản.
Bước 5. Lập báo cáo kế toán: căn cứ vào số liệu tổng hợp của các tài khoản kế toán đê
lập các báo cáo kế toán. Các chỉ tiêu trên các báo cáo kế toán được tính toán căn cứ vào số liệu
trên các tài khoản tương ứng trên các sổ kế toán tổng hợp và chi tiết.
Nếu sử dụng phần mềm kế toán trên máy vi tính thì chu trình kế toán chỉ gồm các bước:
lập hoặc tiếp nhận chứng từ nhập dữ liệu từ chứng từ vào máy; thực hiện các thao tác khóa sổ
và lập báo cáo cuối kỳ. Nhìn chung các bước trong chu trình kế toán trên máy vi tính đều
giống như kế toán thủ công riêng bước nhập dữ liệu từ chứng từ vào máy, kế toán viên phải
nhập các thông tin cần thiết theo yêu cầu để máy tính có thể tự động phân loại và xử lý thông
tin theo chương trình đã được lập.
2.3.Hệ thống phương pháp kế toán
2.3.1. Các phương pháp hạch toán kế toán

23


Phương pháp kế toán là cách thức và thủ tục cụ thể để thực hiện từng nội dung công việc
kế toán. Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và đặc điểm đối tượng của mình,
hạch toán kế toán đã hình thành một hệ thống phương pháp bao gồm bốn phương pháp cụ thể
là: chứng từ, đối ứng tài khoản (phương pháp tài khoản), tính giá, tổng hợp - cân đối kế toán.
* Phương pháp chứng từ kế toán là phương pháp kế toán được sử dụng để phản ánh các
hoạt động (nghiệp vụ) kinh tế tài chính phát sinh và thực sự hoàn thành theo thời gian và địa
điểm phát sinh hoạt động đó vào các bản chứng từ kế toán, phục vụ cho công tác kế toán, công
tác quản lý.
* Phương pháp đối ứng tài khoản là phương pháp phản ánh sự biến động của tài sản,
nguồn vốn và các quá trình hoạt động được thể hiện trong mỗi nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
Phương pháp này được cấu thành bởi 2 yếu tố: tài khoản kế toán và các quan hệ đối ứng tài

khoản.
* Phương pháp tính giá là phương pháp kế toán sử dụng thước đo tiền tệ để xác định trị
giá thực tế của tài sản theo những nguyên tắc nhất định.
* Phương pháp tổng hợp-cân đối kế toán là phương pháp kế toán được sử dụng để tổng
hợp số liệu từ các sổ kế toán theo các mối quan hệ cân đối vốn có của đối tượng kế toán nhằm
cung cấp các chỉ tiêu kinh tế tài chính cho các đối tượng sử dụng thông tin kế toán phục vụ
công tác quản lý các hoạt động kinh tế tài chính trong đơn vị.
2.3.2.Mối quan hệ giữa các phương pháp hạch toán kế toán
Để thực hiện được chức năng, nhiệm vụ của mình và xuất phát từ đặc điểm của đối tượng
phản ánh, hạch toán kế toán đã sử dụng một hệ thống phương pháp bao gồm 4 phương pháp
chứng từ, đối ứng tài khoản (phương pháp tài khoản), tính giá, tổng hợp - cân đối kế toán. Mỗi
phương pháp có vị trí, chức năng nhất định song giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
tạo thành một hệ thống phương pháp hạch toán kế toán.
Các chủ thể quản lý muốn có các thông tin tổng hợp về tình hình tài chính trong một kỳ
sản xuất - kinh doanh nào đó của doanh nghiệp để phân tích, đánh giá hoạt động kinh doanh
trong kỳ đã qua và đặt ra các mục tiêu trong tương lai thì kế toán phải sử dụng phương pháp
tổng hợp và cân đối kế toán để thoả mãn được nhu cầu đó của chủ thể quản lý. Nhưng kế toán
chỉ có thể tổng hợp - cân đối được trên cơ sở vận dụng mối quan hệ đối ứng để ghi chép các
nghiệp vụ kinh tế vào tài khoản kế toán. Việc ghi chép vào tài khoản kế toán không thể tiến
hành bằng thước đo hiện vật được mà phải dùng thước đo giá trị, do đó phải tính giá các yếu tố
sản xuất cũng như kết quả sản xuất, tính giá các yếu tố dự trữ cho lưu thông. Song muốn tính
giá và ghi chép vào tài khoản kế toán chính xác thì phải dựa trên một hệ thống chứng từ hợp lệ
sao chép từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh.

24


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP CHỨNG TỪ
3.1. Khái quát chung về phương pháp chứng từ
3.1.1. Khái niệm và các yếu tố cấu thành phương pháp chứng từ

a) Khái niệm
Trong quá trình hoạt động của đơn vị diễn ra thường xuyên các hoạt động kinh tế tài
chính khác nhau ở những địa điểm và thời gian khác nhau. Những hoạt động kinh tế tài chính
này đã gây nên sự biến động, thay đổi về phạm vi, qui mô và hình thái của tài sản trong đơn vị.
Để phục vụ điều hành và quản lý có hiệu quả các hoạt động trong đơn vị, thực hiện tính toán
kinh tế, kiểm tra việc bảo vệ, sử dụng tài sản, kiểm tra các hoạt động kinh tế tài chính, hạch
toán kế toán đã xây dựng những phương pháp khoa học để có thể thu nhận được thông tin về
các hoạt động kinh tế tài chính một cách đầy đủ, kịp thời, trung thực và chính xác, kiểm tra, xử
lý những thông tin đã thu nhận và cung cấp thông tin đã thu nhận, đã kiểm tra, xử lý cho các
bộ phận chức năng có liên quan cùng tham gia quản lý tài sản, quản lý các hoạt động kinh tế
tài chính của đơn vị. Một trong các phương pháp đó là phương pháp chứng từ kế toán.
Mọi số liệu ghi chép vào sổ sách kế toán đều phải đảm bảo tính pháp lý được mọi người
thừa nhận. Tức là những số liệu đó phải được chứng minh một cách hợp lý hợp pháp theo
những qui định của nhà nước về chế độ kế toán ở các doanh nghiệp.
Chứng từ là phương tiện chứng minh về sự phát sinh và hoàn thành của nghiệp vụ kinh
tế - tài chính tại một hoàn cảnh (không gian, thời gian) nhất định. Phương tiện chứng minh có
thể dưới dạng giấy tờ hoặc là các băng từ, đĩa từ, các thẻ từ, đĩa quang…..khi có đủ điều kiện
nhất định (đảm bảo tính bảo mật, bảo toàn dữ liệu, thông tin trong qua trình sử dụng và lưu trữ.
Theo Luật kế toán “Các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh liên quan đến hoạt động của đơn
vị kế toán đều phải lập chứng từ kế toán”.
Chứng từ kế toán là phương pháp thông tin và kiểm tra sự phát sinh và hoàn thành của
các nghiệp vụ kinh tê, qua đó thông tin và kiểm tra về hình thái và sự biên động của từng đối
tượng kế toán cụ thể.
Nghiệp vụ kinh tế là sự biến đổi của một loại tài sản cụ thể (về hiện vật, về giá trị, về
nguồn hình thành) gắn liền với hành vi kinh tế cần phải phân định, tính toán và kiểm tra.
b) Các yếu tố cấu thành phương pháp chứng từ
Phương pháp chứng từ được cấu thành bởi hai yếu tố:
+ Hệ thống bản chứng từ.
Theo qui định, hệ thống chứng từ kế toán bao gồm: hệ thống chứng từ thống nhất bắt
buộc, hệ thống chứng từ hướng dẫn (chủ yếu là những chứng từ sử dụng trong nội bộ đơn vị).

* Hệ thống chứng từ kế toán thống nhất bắt buộc là hệ thống chứng từ phản ảnh các
quan hệ kinh tế giữa các pháp nhân hoặc có yêu cầu quản lý chặt chẽ mang tính chất phổ biến
rộng rãi. Đối với loại chứng từ này nhà nước tiêu chuẩn hóa về quy cách, biểu mẫu, chỉ tiêu
phản ảnh, phương pháp lập và áp dụng thống nhất cho tất cả các doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế.
* Hệ thống chứng từ kế toán hướng dẫn chủ yếu là những chứng từ sử dụng trong nội
bộ đơn vị. Nhà nước hướng dẫn các chỉ tiêu đặc trưng để các ngành, các thành phần kinh tế
trên cơ sở đó vận dụng vào từng trường hợp cụ thể, thích hợp. Các ngành, các lĩnh vực có thể
thêm bớt một số chỉ tiêu đặc thù hoặc thay đổi thiết kế biểu mẫu cho thích hợp với yêu cầu và
nội dung phản ảnh nhưng phải bảo đảm bảo những yếu tố cơ bản của chứng từ và phải có sự
thỏa thuận bằng văn bản của Bộ Tài chính.
+ Kế hoạch luân chuyển chứng từ.

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×