Tải bản đầy đủ (.doc) (321 trang)

Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 321 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NGỌC HIẾU

CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ NGỌC HIẾU

CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 9.38.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI - 2019




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các đề
xuất, kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình khoa học nào.
Nghiên cứu sinh

Trần Thị Ngọc Hiếu


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU...............................7
1.1. Tình hình nghiên cứu về chủ thể của tội phạm.....................................7
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu liên quan đến chủ thể của tội phạm.........................................19
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ HÌNH
THÀNH, PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM......................................23
2.1. Khái niệm và các điều kiện của chủ thể của tội phạm........................23
2.2. Phân loại chủ thể của tội phạm...........................................................38
2.3. Mối quan hệ giữa chủ thể của tội phạm với một số phạm trù khác... 43
2.4. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề về chủ thể của tội phạm
................................................................................................................... 48
2.5. Khái quát lịch sử hình thành, phát triển các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm đến trước khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 2015.......................................................................................59
Chương 3 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN

HÀNH VỀ CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG.. 69
3.1. Thực tiễn quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chủ thể của tội
phạm..........................................................................................................69
3.2. Thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội
phạm ở nước ta..........................................................................................98
3.3. Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể
của tội phạm và nguyên nhân..................................................................120
Chương 4 YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ CHỦ THỂ CỦA
TỘI PHẠM...................................................................................................126


4.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự về
chủ thể của tội phạm................................................................................126
4.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự
về chủ thể của tội phạm...........................................................................127
KẾT LUẬN..................................................................................................149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC...............................................151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................152


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BLDS: Bộ luật Dân sự
BLHS: Bộ luật Hình sự
CTTP: Cấu thành tội phạm
NCTN: Người chưa thành niên
NLTNHS: Năng lực trách nhiệm hình sự
Nxb: Nhà xuất bản
TAND: Tòa án nhân dân
TNHS: Trách nhiệm hình sự

XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những vấn đề quan trọng của luật hình sự là chủ thể của tội phạm.
Tầm quan trọng của vấn đề về chủ thể của tội phạm không chỉ thể hiện ở chỗ chủ thể
của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) mà còn thể hiện ở
chỗ chủ thể của tội phạm còn là yếu tố giữ vai trò “chi phối” các yếu tố khác của cấu
thành tội phạm. Vấn đề là ở chỗ, nói đến tội phạm là nói đến hành vi phạm tội mà
hành vi phạm tội đến lượt mình là sự thể hiện ý chí của chủ thể (cá nhân hoặc
pháp nhân thương mại) ra thế giới bên ngoài dưới hình thức hành động hoặc không
hành động phạm tội. Như vậy, nếu không có chủ thể của tội phạm (con người với
tư cách là chủ thể của hành vi phạm tội, pháp nhân thương mại với tư cách là chủ
thể của hoạt động phạm tội) thì không có hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
các quan hệ xã hội mà Bộ luật hình sự ghi nhận và bảo vệ. Điều đó cũng có nghĩa là,
nếu không có chủ thể của tội phạm thì không cần phải xem xét đến các yếu tố khách
thể, mặt khách quan của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Hơn thế, việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân hoặc pháp nhân thương mại không phải là
chủ thể của tội phạm tương ứng không những trái với các nguyên tắc, nhất là
nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự mà còn không đạt được mục đích của luật
hình sự.
Mặc dù vậy, trong một thời gian dài, trong khoa học luật hình sự nước ta, tội
phạm được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể là thể nhân (cá nhân)
thực hiện. Hơn thế, vấn đề chủ thể của tội phạm chủ yếu được đề cập nghiên cứu
trong các giáo trình luật hình sự ở bậc đào tạo đại học; có không nhiều các luận văn
thạc sĩ luật học có đề cập nghiên cứu chủ thể của tội phạm, nhưng chưa toàn diện và
sâu sắc; còn trong các công trình nghiên cứu khác, chủ thể của tội phạm chỉ được
nhắc đến “một cách nhân tiện” khi nghiên cứu các vấn đề khác của luật hình sự,
chẳng hạn như các dấu hiệu pháp lý của tội phạm, năng lực trách nhiệm hình sự

(NLTNHS), miễn trách nhiệm hình sự…Nhiều vấn đề lý luận về chủ thể của tội phạm
chưa được đặt ra hoặc đã được đặt ra nghiên cứu nhưng nhưng chưa phản ánh đầy
đủ các khía cạnh lý luận cần phải có của chủ thể của tội phạm. Thực trạng nghiên
cứu lý luận về chủ thể tội phạm ở nước ta, vì vậy chỉ mới dừng lại ở mức độ cơ
bản (đại học). Nguyên nhân chính của thực trạng này không chỉ xuất phát từ tính đa
dạng, phức tạp của chính bản thân vấn đề chủ thể của tội phạm mà còn xuất phát từ
tiếp cận nghiên cứu đơn cực tức chỉ bằng một hoặc một vài cách tiếp cận được sử
dụng để nghiên cứu chủ thể của tội phạm. Trong khi đó mối liên hệ đa chiều của lý
1


luận về chủ thể của tội phạm chỉ có thể được làm sáng tỏ bằng phương pháp luận
của nó không chỉ là phương pháp luận của triết học Mác-Lênin mà trong phương
pháp luận này có cả các cách tiếp cận nghiên cứu (phương pháp nhận thức) xã hội
học tâm lý học, hệ thống học, tội phạm học…

2


Thực trạng nghiên cứu lý luận như đã phân tích khái quát trên đây tác động
mạnh mẽ đến kết quả lập pháp hình sự của nước ta về chủ thể của tội phạm. Trong
các Bộ luật hình sự năm 1985 và 1999, chủ thể của tội phạm được quy định là thể
nhân (cá nhân). Khá nhiều vấn đề, chẳng hạn như độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự,
chủ thể đặc biệt của tội phạm, trách nhiệm hình sự trong đồng phạm…chưa được
thể chế hóa một cách đầy đủ và tối ưu.
Thực trạng nghiên cứu lý luận cũng như thực trạng lập pháp hình sự nước ta
về chủ thể của tội phạm như đã phân tích khái quát trên đây đã ảnh hưởng không
nhỏ đến thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm. Trong số
những vi phạm, sai lầm trong định tội danh, quyết định hình phạt đối với người
phạm tội, có cả những vi phạm, sai lầm liên quan đến xác định chủ thể của tội

phạm, nhất là trong trường hợp đồng phạm. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
ở nước ta cho thấy, do nhận thức về chủ thể của tội phạm chưa đầy đủ và thống
nhất dẫn đến quá trình xây dựng pháp luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự về
chủ thể của tội phạm còn hạn chế, như việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự, xác định năng lực trách nhiệm hình sự, xác định những dấu hiệu đặc biệt của chủ
thể đặc biệt do đó, ảnh hưởng đến việc quyết định trách nhiệm hình sự, hình phạt
chưa phù hợp dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, làm ảnh
hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. Nghiêm trọng hơn, thực trạng
áp dụng pháp luật hình sự đó phần nào làm cho tình hình tội phạm ở nước ta tuy có
phần được kiềm chế nhưng diễn biến hết sức phức tạp. Theo thống kê chưa đầy đủ,
hàng năm trong cả nước, các Tòa án thụ lý trên dưới 70 đến 80 ngàn vụ án hình sự
với trên 100 ngàn bị cáo, trong đó, nổi bật các vụ án giết người, cướp tài sản, hiếp
dâm, hiếp dâm trẻ em, tham ô, nhận hối lộ, …
Để khắc phục những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của Bộ luật hình
sự năm 1999 về chủ thể của tội phạm, tăng cường khả năng và giá trị của pháp
luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và phát triển mạnh mẽ pháp
luật hình sự nước ta theo hướng ngày càng nhân đạo hóa, phân hóa, quốc tế hóa…
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 lần đầu tiên trong
lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam bổ sung những quy định đối với pháp nhân
thương mại phạm tội. Việc quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân thương mại phạm tội không những đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mang tính
tất yếu khách quan của cuộc sống, của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, của
sự nghiệp cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay,
mà còn góp phần phát triển hơn nữa nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ
nghĩa, thể hiện đầy đủ sự công bằng, văn minh trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên,


việc bổ sung các quy định đối với pháp nhân tương mại phạm tội cũng làm cho vấn
đề chủ thể của tội phạm càng trở nên phức tạp hơn cả về mặt lý luận, cả về mặt thể
chế hóa pháp luật cả về mặt áp dụng pháp luật



hình sự trong pháp luật hình sự trong thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự.
Bởi sự động và phát triển không ngừng của đời sống xã hội, những điểm hạn
chế trong các quy định về chủ thể của tội phạm là thể nhân (cá nhân) chưa được khắc
phục hoàn toàn, những quy định đối với pháp nhân thương mại vừa được bổ sung
vào Bộ luật hình sự, thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về chủ thể của
tội phạm chắc chắn không thể tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc.
Từ những điều phân tích khái quát trên đây, có thể khẳng định rằng, nghiên
cứu một cách sâu sắc và toàn diện các khía cạnh của lý luận cũng như của thực
trạng quy định và áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm để
đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về
chủ thể của tội phạm, rõ ràng là việc làm có tính cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng
về mặt lý luận và thực tiễn. Đó chính là lý do mà nghiên cứu sinh đã chọn đề tài:
“Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam” làm luận án tiến sĩ của
mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề lý luận, thực trạng quy định và áp dụng
pháp luật hình sự Việt nam về chủ thể của tội phạm, Luận án đề xuất các giải pháp
bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể
của tội phạm.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án xác định và thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau đây:
- Thu thập, hệ thống hóa và đánh giá các kết quả nghiên cứu của các công
trình khoa học đã được công bố trong và ngoài nước về chủ thể của tội phạm, từ
đó rút ra những vấn đề cần nghiên cứu trong luận án.
- Phân tích khái niệm, các dấu hiệu, sự phân loại, mối quan hệ của chủ thể của

tội phạm.
- Phân tích sự điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề về chủ thể của tội phạm.
- Khái quát quá trình phát triển quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ
thể của tội phạm đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015.
- Phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ thể
của tội phạm.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về chủ thể của tội phạm.


- Phân tích làm rõ yêu cầu áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
hiện hành về chủ thể của tội phạm.


- Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam hiện hành về chủ thể của tội phạm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án lấy các quan điểm khoa học về chủ thể của tội phạm đã được nêu
ra trong khoa học luật hình sự Việt Nam và khoa học luật hình sự nước ngoài, các
quy định pháp luật hình sự Việt Nam (là chủ yếu) và của một số nước ngoài về chủ
thể của tội phạm, thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về chủ thể của tội
phạm trong thực tiễn xét xử ở nước ta để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung
nghiên cứu của đề tài.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận án được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự.
Bởi BLHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 nên thực tiễn áp dụng quy định
của BLHS chưa nhiều, do đó, trong luận án này, nghiên cứu sinh chủ yếu tập trung
phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân ở
nước ta về chủ thể của tội phạm trong giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu

lực pháp luật (từ năm 2009 đến năm 2018).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách hình sự của
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường lối đổi mới đất nước, về
cải cách tư pháp, chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, về tội phạm
và hình phạt, về phòng, chống tội phạm. Đề tài luận án còn được thực hiện trên
cơ sở tiếp cận nghiên cứu đa ngành, liên ngành khoa học xã hội, trong đó đặc biệt
là các cách tiếp cận triết học, xã hội học, tâm lý học…Đặc biệt, đề tài còn được thực
hiện trên cơ sở tiếp cận đa ngành, liên ngành luật học, trong đó đặc biệt là cách
tiếp cận xã hội học pháp luật, triết học pháp luật, chính sách pháp luật…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận án sử dụng trong một tổng thể các phương
pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp tổng hợp và thống kê. Phương pháp này được tập trung sử
dụng trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu nhằm tổng hợp, thống kê một
cách có hệ thống các công trình khoa học nghiên cứu đã được công bố trong và
ngoài nước nghiên cứu hoặc có đề cập nghiên cứu chủ thể của tội phạm.


- Phương pháp phân tích. Đây là phương pháp nghiên cứu được luận án sử dụng
trong các chương của luận án nhằm phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực
trạng quy định và áp dụng pháp luật từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá mang
tính kết luận.
- Phương pháp lịch sử. Phương pháp này được sử dụng để làm sáng tỏ khía
cạnh lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm, qua đó làm rõ tính
quyết định xã hội và tính kế thừa của quy định pháp luật hình sự về chủ thể của tội
phạm và xu hướng phát triển của quy định này trong suốt chiều dài lịch sử phát triển

của xã hội Việt Nam, trong đó có pháp luật hình sự.
- Phương pháp so sánh. Đây là phương pháp được sử dụng để so sánh quy
định của pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm qua các thời kỳ lịch sử phát
triển của nước ta. Đồng thời phương pháp này cho phép so sánh quy định của pháp
luật hình sự nước ta với quy định của pháp luật hình một số nước về chủ thể của tội
phạm, qua đó phát hiện những điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định đó
và rút ra những kinh nghiệm lập pháp hình sự mà Việt Nam có thể tiếp thu để hoàn
thiện quy định về chủ thể của tội phạm.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn. Đây là phương pháp được sử dụng để
nghiên cứu đánh giá thực tiễn quy định và áp dụng pháp luật hình sự về chủ thể của
tội phạm qua những kết quả, tài liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu đề
tài, qua đó nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của
đề tài, nhất là những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về chủ thể của tội
phạm.
- Phương pháp điều tra án hình sự điển hình. Phương pháp này được sử dụng
để thu thập thông tin từ một số vụ án hình sự điển hình nhằm chứng minh cho
những nhận xét, kết luận rút ra từ việc nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung
nghiên cứu của đề tài luận án.
Trong một tổng thể phương pháp luận, các cách tiếp cận và các phương
pháp nghiên cứu cụ thể cho phép nghiên cứu sinh hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu
và đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra.
5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Có thể khẳng định, luận án là một trong những công trình nghiên cứu chuyên
khảo dưới góc độ Luật hình sự, có sự tiếp thu tri thức của các công trình khoa học
đã được công bố trước đây về vấn đề chủ thể của tội phạm, đi sâu phân tích, luận
giải một cách có hệ thống và khoa học về những khía cạnh khác nhau có liên quan đến
lý luận và thực tiễn đối với chủ thể của tội phạm ở Việt Nam hiện nay. Ở dạng khái


quát, đóng góp mới của luận án thể hiện ở những điểm chính sau đây:

Thứ nhất, với sự bổ sung nội dung về điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề chủ
thể của tội phạm, luận án góp phần xây dựng khung lý luận về chủ thể của tội phạm.


Thứ hai, luận án góp phần khẳng định vị trí, vai trò và giá trị của cách tiếp cận đa
ngành, liên ngành khoa học xã hội nói chung và đa ngành, liên ngành luật học nói riêng
trong nghiên cứu chủ thể của tội phạm.
Thứ ba, luận án góp phần vào việc xây dựng các cơ sở cho việc hoàn thiện quy
định của pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm, xây dựng các giải pháp bảo đảm
áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án cho phép nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ
hơn, thống nhất hơn và chuẩn xác hơn hơn hệ thống tri thức, hiểu biết về chủ thể
của tội phạm; cho phép xác định khung lý luận về chủ thể của tội phạm, thiết lập
định hướng nghiên cứu mới về chủ thể của tội phạm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được vận dụng vào thực tiễn xây dựng và
hoàn thiện chính sách hình sự, pháp luật hình sự, cụ thể là quy định về chủ thể của
tội phạm. Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được vận dụng và thực tiễn
định tội danh nhìn từ góc độ chủ thể của tội phạm và nghiên cứu, giảng dạy, học tập
những nội dung liên quan đến chủ thể của tội phạm.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
án gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2. Những vấn đề lý luận và lịch sử hình thành, phát triển các quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm
Chương 3. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ thể của tội
phạm và thực tiễn áp dụng

Chương 4. Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật
hình sự về chủ thể của tội phạm


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu về chủ thể của tội phạm
Bởi tầm quan trọng của mình, vấn đề chủ thể của tội phạm đã và đang thu
hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà luật học trong và ngoài nước. Chính vì
vậy, cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu hoặc có đề cập nghiên cứu
vấn đề chủ thể của tội phạm trong và ngoài nước được công bố ở các cấp độ khác
nhau. Việc tổng quan tình hình nghiên cứu chẳng những cho phép nhận diện thực
trạng nghiên cứu trong và ngoài nước vấn đề chủ thể của tội phạm mà còn tránh
được sự trùng lặp trong nghiên cứu đề tài, nhất là rút ra được những vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu hay nghiên cứu mới trong luận án này. Thường thì, các công
trình nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học tổng quan theo các công trình
nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài và các công trình nghiên cứu đã công bố ở
trong nước có liên qua đến đề tài, song trong luận án này, nghiên cứu sinh gộp các
công trình nghiên cứu đã công bố ở trong nước và ở nước ngoài để tổng quan theo
các nhóm vấn đề lớn thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài, cụ thể:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận của chủ thể
của tội phạm
Một trong những vấn đề lý luận về chủ thể của tội phạm là khái niệm, dấu hiệu,
ý nghĩa của chủ thể của tội phạm. Trong thời gian qua, những vấn đề này được đề
cập nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu ở những cấp độ, mức độ khác nhau.
Trước hết, phải kể đến một số công trình nghiên cứu phân tích, luận giải những vấn đề
lý luận về hành vi vi phạm pháp luật, về các dấu hiệu của chủ thể của quan hệ pháp
luật, về quyền con người, về chính sách hình sự liên quan đến vấn đề chủ thể của tội
phạm, cụ thể như: Lê Đình Thể (2006), Áp dụng Chính sách hình sự đối với người
chưa thành niên phạm tội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Phạm Văn Lợi (Chủ biên) (2007),

Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Võ Khánh
Vinh (Chủ biên) (2011), Quyền con người, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh
(2012), Xã hội học pháp luật những vấn đề cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội;
Nguyễn Minh Đoan (2014), Giáo trình Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; Nhóm tác giả Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã
Khánh Tùng (Đồng chủ biên) (2015), Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật về
quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trịnh Quốc Toản (2015), Nghiên cứu
hình phạt trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người (Sách
chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội… Để xác định những vấn đề lên quan
đến chủ thể của tội phạm việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sự phát triển


của con người, các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển
nhân cách con người qua


đó, tìm hiểu nguyên nhân của việc hình thành, phát sinh những hành vi “lệch chuẩn”
ở một số người và lý giải được tầm quan trọng của pháp luật hình sự trong việc quy
định về chủ thể của tội phạm trong pháp luật hình sự chính là một trong những
nghiên cứu không thể thiếu trong đó phải kể đến các nghiên cứu như: Lê Văn
Cương (Chủ biên) (1999), Tâm lý tội phạm và vấn đề chống tội phạm (Lứa tuổi vị
thành niên), Nxb. Côn an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Văn Đồng (2012), Tâm lý học
phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong các sách, giáo trình được sử dụng
làm tài liệu giảng dạy môn luật hình sự tại các trường đại học, trung cấp chuyên
ngành luật luôn có một phần trình bày những vấn đề cơ bản về chủ thể của tội phạm
với vai trò là một yếu tố cấu thành tội phạm bắt buộc. Cụ thể như: Lê Cảm (Chủ biên)
(2007), “Chương X – Chủ thể của tội phạm: trong quyển Giáo trình Luật hình sự
(phần chung)”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Hoàng Văn Hùng (Chủ biên)
(2008), “Chương VII – Chủ thể của tội phạm: trong quyển Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; Phạm Văn Beo (2012), “Chương VIII, Chủ

thể của tội phạm - trong quyển Luật hình sự Việt Nam (phần chung)”, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2014), “Chương IX – Chủ thể của tội
phạm: trong quyển Luật hình sự Việt Nam phần chung”, Nxb. Khoa học Xã hội;
Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2016), “Chương VII – Chủ thể của tội phạm: trong
quyển Giáo trình Luật hình sự phần chung”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; Sách
chuyên khảo sau đại học của GS. TSKH. Lê Cảm (2005), “Những vấn đề cơ bản
trong khoa học luật hình sự - Phần chung”, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. Ở cấp độ
luận văn có luận văn thạc sĩ của: Lê Đăng Doanh (1999), Chủ thể của tội phạm theo
luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội; Nguyễn Phú Biền (2015), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ thể chịu
trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia, Hà Nội. Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả luôn dành
một phần trong nghiên cứu để xem xét, luận giải những vấn đề liên quan đến chủ thể
của tội phạm dưới góc độ chủ thể trong cấu thành tội phạm, trong đó các tác giả tập
trung phân tích những nội dung cơ bản như khái niệm, dấu hiệu, nội dung… của chủ
thể của tội phạm. Theo đó, các tác giả định nghĩa khái niệm và phân tích các dấu hiệu
cần và đủ để một người có thể trở thành chủ thể của tội phạm như là độ tuổi, khả
năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (năng lực trách nhiệm hình sự). Đồng
thời, các tác giả cũng luận giải các vấn đề khác liên quan đến chủ thể của tội phạm
như là vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm, nhân thân của người phạm tội…Khái
niệm và dấu hiệu là những vấn đề đầu tiên được nghiên cứu khi đề cập đến vấn đề
chủ thể của tội phạm. Về khái niệm chủ thể của tội phạm, pháp luật hình sự nước ta
hiện nay chưa đưa ra một khái niệm trực tiếp, tuy nhiên, vấn đề này được thể hiện một


cách gián tiếp thông qua các điều luật với cách thể hiện như là “người phạm tội”. Các
công trình nghiên cứu hiện nay cho thấy, các tác giả đều đưa ra định nghĩa về chủ thể
của tội phạm trên cơ sở ý tứ chính trong


Bộ luật hình sự (BLHS). Tuy nhiên, vẫn có những điểm chưa thống nhất trong các định

nghĩa về chủ thể của tội phạm. Về dấu hiệu chủ thể của tội phạm, mặc dù các tác giả có
đưa ra các nhận định về dấu hiệu của chủ thể của tội phạm trong các nghiên cứu có
thể khác nhau nhưng trong chừng mực nhất định đều có những điểm chung giống
nhau, đều có tính hợp lý và có giá trị lý luận riêng.
Các kết quả nghiên cứu đều thừa nhận các dấu hiệu bắt buộc phải có của chủ
thể của tội phạm và các dấu hiệu đó thuộc về cá nhân người thực hiện hành vi
phạm tội bao gồm dấu hiệu độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) và NLTNHS.
Ngoài ra, còn có các dấu hiệu khác như là chủ thể đặc biệt, nhân thân người phạm
tội…Nhân thân người phạm tội là một trong các yếu tố thuộc nội dung của chủ thể
của tội phạm. Nhân thân người phạm tội là một trong những căn cứ của việc quy
định trách nhiệm hình sự và quy định hình phạt. Trong thực tiễn xét xử, để bảo đảm
cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội thì việc xem xét yếu tố
nhân thân của người phạm tội cũng phải được áp dụng một cách chính xác. Do đó,
hiện nay cũng có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. Cụ thể: Luận văn
thạc sĩ luật học “Nhân thân người phạm tội với việc quyết định hình phạt từ thực
tiễn thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Bích Huyền, Khoa Luật - Đại học Quốc
gia, 2015. Tác giả đã định nghĩa nhân thân người phạm tội trên cơ sở phân tích, tổng
hợp các quan điểm khác nhau về nhân thân người phạm tội. Qua đó, luận giải các
đặc điểm về nhân thân người phạm tội. Đặc biệt, tác giả chỉ ra mối quan hệ giữa
nhân thân người phạm tội với hoạt động quyết định hình phạt trong các trường
hợp cụ thể. Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng quy định về nhân thân người
phạm tội trên địa bàn thành phố Hà Nội, tác giả tìm ra những vi phạm, sai lầm trong
việc áp dụng pháp luật, qua đó, đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm áp dụng đúng
nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt. Trong Luận án tiến sĩ
luật học về “Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Thủy, Viện Nhà nước và Pháp luật - Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam, 2005. Tác giả đã giải quyết được những vấn đề lý luận chung về nhân thân
của người phạm tội như khái niệm, đặc điểm, cách phân loại nhân thân của người
phạm tội; Phân tích nhân thân người phạm tội trong việc quy định trách nhiệm hình
sự, nhân thân người phạm tội trong việc quy định hình phạt. Qua đó, tác giả cũng

nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ nhân thân người phạm tội trong thực tiễn
truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt. Đây là một trong những
nghiên cứu mang tính chất chuyên sâu về vấn đề nhân thân của người phạm tội.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, chuyên khảo đề cập đến vấn đề nhân thân
người phạm tội mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái quát nội dung của vấn đề,
xem xét nhân thân người phạm tội ở các cấp độ khác nhau trong tội phạm học,


trong luật hình sự nói chung hoặc về các khía cạnh khác nhau trong một nhóm chủ
thể nhất định như người dưới 18 tuổi phạm tội, người phạm tội là phụ nữ. Đặc biệt,
chưa có công trình


nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về mối quan hệ giữa chủ thể của tội phạm
với nhân thân người phạm tội.
Bàn về chủ thể của tội phạm là pháp nhân, hiện nay, có nhiều công trình nghiên
cứu về các vấn đề lý luận đối với loại chủ thể này, cụ thể: "Pháp nhân có là chủ thể
của tội phạm hay không?" của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học, năm 1999, tr. 14-19;
“Trách nhiệm hình sự của pháp nhân và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự
Việt Nam tương lai” của Trịnh Quốc Toản, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5, năm
2006, tr.52 - 62; "Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình sự nước ta với
pháp luật hình sự một số nước thuộc hệ thống châu Âu lục địa" của Hồ Sỹ Sơn, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 2, năm 2008, tr. 68-72; Trần Văn Độ (2011), Cơ sở thực
tiễn của việc quy định TNHS của tổ chức pháp nhân, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại
học Luật TP HCM, số 1(62), tr.18 -22; Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Huế (2015),“Cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình của pháp nhân đối với các
tội phạm về môi trường”, Khoa Luật - Đại học quốc gia. Đặc biệt, phải kể đến đề tài
khoa học cấp Bộ của TS. Cao Thị Oanh làm chủ nhiệm: “Nghiên cứu so sánh cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức”, Hà Nội,
2011. Trong các nghiên cứu, các tác giả luôn bắt đầu bằng việc phân tích các cơ sở lý

luận, cơ sở xã hội, cơ sở thực tiễn của việc quy định TNHS của pháp nhân trong
pháp luật hình sự Việt Nam. Thông qua việc phân tích các quan điểm khác nhau
TNHS của pháp nhân, sự hợp lý và bất hợp lý của các nhóm quan điểm đó, đồng thời,
qua phân tích các cơ sở, điều kiện, nhu cầu thực tiễn ở Việt Nam, các tác giả luận giải
quan điểm về việc quy định về chủ thể của tội phạm là pháp nhân trong pháp luật
hình sự Việt Nam là hợp lý và cần thiết.
Trong nhóm các bài viết về vấn đề này cũng cần phải kể đến bài viết của nước
ngoài như: Steven D. Levitt, Juvenile Crime and Punishment, The Journal of Political
Economy, Vol 106, Issue 6, 1998 (Steven D. Levitt, Tội phạm vị thành niên và hình
phạt, Tạp chí Kinh tế chính trị, số 106, ấn bản 6, 1998). Tác giả nhận định, trong hơn
hai thập kỷ qua, tình trạng tội phạm bạo lực do người chưa thành niên thực hiện
tăng gấp hai lần so với tội phạm này ở tuổi trưởng thành. Đây chính là mối quan ngại
hàng đầu của Hoa Kỳ và xây dựng một hệ thống hình phạt phù hợp dành cho đối
tượng này đang là ưu tiên hàng đầu cho các nhà lập pháp. Bài viết phân tích mối
quan hệ giữa hình phạt và tỷ lệ tội phạm bạo lực đối với thanh thiếu niên. Thêm vào
đó, nó xem xét tác động của tính trừng phạt tương đối của hệ thống tư pháp dành
cho người trưởng thành so với người chưa thành niên đối với sự thay đổi tỷ lệ tội
phạm bạo lực khi trẻ vị thành niên bước sang tuổi trưởng thành. Tác giả phân tích xu
hướng phát triển loại tội phạm này trong thời gian trước đó và cho thấy rằng, việc
áp dụng các hình phạt theo hướng tăng cường tính trừng phạt, tăng hình phạt, đặc


biệt là hình phạt tù (giam giữ) đối với người chưa thành niên phạm tội hoặc hạ
thấp độ tuổi mà người phạm tội là


người chưa thành niên có thể bị xử… cũng không phải là giải pháp hữu hiệu trong việc
kéo giảm tỉ lệ tội phạm bạo lực do người chưa thành niên thực hiện. Từ đó, tác giả
khẳng định, cần phải xác định liệu những chính sách dựa trên hình phạt này thực sự
có giúp giảm tội phạm bạo lực là người chưa thành niên. Chính vì thế, bắt buộc

chúng ta xây dựng một số hiểu biết về sự trừng phạt hiệu quả như thế nào là nhằm
ngăn chặn tội ác vị thành niên trong tương lai. Kết quả nghiên cứu cũng là một trong
những nguồn tài liệu có giá trị tham khảo trong quá trình xây dựng pháp luật đối với
nhóm đối tượng này. Kelly Richards, What makes juvenile offenders different from
adult offenders?, Trends and Issues in Crime and Crimenal Justice, No. 409,
Australia, 2011 (Kelly Richards, Điều gì tạo nên sự khác biệt giữa tội phạm là người
chưa thành niên với tội phạm là người trưởng thành?, Tạp chí Xu hướng và vấn đề tội
phạm và pháp lý hình sự, số 409, Australia, năm 2011). Bài viết nghiên cứu sự khác
nhau giữa tội phạm là người chưa thành niên với tội phạm là người trưởng thành ở
Úc. Hiện nay, ở Úc và ở các nước trên toàn thế giới đều thừa nhận rộng rãi rằng những
người phạm tội là người chưa thành niên phải chịu một hệ thống tư pháp hình sự
tách biệt với hệ thống tư pháp hình sự của người trưởng thành bởi nhiều lý do, trong
đó có lý do quan trọng là sự thiếu kinh nghiệm và không trưởng thành của người chưa
thành niên. Như vậy, trẻ vị thành niên thường được xử lý riêng biệt với người lớn và đối
xử khác biệt hơn so với người lớn. Bài viết cũng phân tích độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự ở Úc và phân tích trách nhiệm hình sự đối với từng độ tuổi khác nhau. Bài viết chỉ ra
rằng, do sự chưa trưởng thành về thể chất và trí tuệ mà người phạm tội là người chưa
thành niên lâm vào tình trạng có nguy cơ cao về các vấn đề tâm lý như sức khỏe tâm
thần và các chứng có liên quan đến rượu và ma túy vốn có thể dẫn đến tình trạng
phạm tội ở lứa tuổi này. Do đó, đây chính là một trong những vấn đề quan trọng
mà các nhà làm luật cũng như áp dụng pháp luật cần chú ý.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực tiễn áp dụng quy định của Bộ
luật hình sự về chủ thể của tội phạm
Khoa học huật hình sự Việt Nam và khoa học luật hình sự của các nước đều đề
cập nghiên cứu các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm là cá nhân và của chủ thể
của tội phạm là pháp nhân. Đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân, dấu hiệu được
quan tâm nghiên cứu là độ tuổi chịu TNHS. Độ tuổi chịu TNHS được nghiên cứu dựa
trên các tiêu chí khảo sát về tâm, sinh lý của con người, đồng thời dựa trên chính
sách hình sự của từng quốc gia. Bên cạnh những sách, giáo trình kể trên, các công
trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật cũng đề cập phân tích những vấn

đề liên quan đến độ tuổi chịu TNHS được quy định trong pháp luật hình sự Việt
Nam, trong số đó có thể kể đến: Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thị Hoàng
Lan (2012),“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo


×