Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh nam định hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (685.36 KB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THẾ VIỆT

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
Ở TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
======

NGUYỄN THẾ VIỆT

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
Ở TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Người hướng dẫn khoa học

ThS. HOÀNG THANH SƠN
HÀ NỘI - 2018



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình học và khóa luận này, tôi đã nhận được sự
giảng dạy và giúp đỡ nhiệt tình của quý thầy cô khoa Giáo dục Chính trị,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2
Trước hết, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến ThS. Hoàng Thanh Sơn đã
dành rất nhiều tâm huyết, thời gian, công sức hướng dẫn giúp tôi hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Mặc dù đã cố gắng hết năng lực của mình để hoàn thiện khóa luận nhưng
không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nên tôi rất mong nhận được
những góp ý quý báu của quý thầy cô và các bạn.
Hà Nội, tháng 05 năm 2018
Sinh viên

NGUYỄN THẾ VIỆT


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân tôi, chưa được công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào.
Các số liệu, nội dung được trình bày trong khóa luận này là hoàn toàn hợp lệ
và đảm bảo tuân thủ các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về đề tài nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 05 năm 2018
Sinh viên

NGUYỄN THẾ VIỆT


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI
VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO ........................................................................ 6
1.1. Khái niệm về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo................................. 6
1.2. Những yếu tố tác động đến nghèo đói và xóa đói giảm nghèo............. 15
Chương 2. MỤC TIÊU, THỰC TRẠNG VÀ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH .... 20
2.1. Bối cảnh và mục tiêu xóa đói giảm nghèo của tỉnh Nam định ............. 20
2.2. Việc thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo. ................................... 22
Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CHỦ YẾU
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH
TRONG THỜI GIAN TỚI.............................................................................. 40
3.1. Phương hướng chủ yếu xóa đói giảm nghèo trên địa bản tỉnh Nam
định trong thời gian tới ................................................................................ 40
3.2. Giải pháp chủ yếu xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Nam định
trong thời gian tới......................................................................................... 43
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 54
TÀI LIỆU DANH MỤC THAM KHẢO ........................................................ 55


DANH MỤC VIẾT TẮT
BHYT

Bảo hiểm y tế

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

CSXH


Chính sách xã hội

CT-XH

Chính trị xã hội

GQVL

Giải quyết việc làm

GRDP

Tốc độ tăng trưởng

HSSV

Học sinh sinh viên

KT-XH

Kinh tế xã hội

NHCSXH

Ngân hàng Chính sách xã hội

NHTM

Ngân hàng thương mại


NTM

Nông thôn mới

PGD

Phòng giao dịch

TBXH

Thương binh xã hội

THCN

Trung học công nghiệp

THCS

Trung học cơ sở

TK&VV

Tiết kiệm và vay vốn

UBND

Ủy ban nhân dân

VSMTNT


Vệ sinh môi trường nông thôn

XĐGN

Xóa đói giảm nghèo

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1


Do xuất phát điểm của nền kinh tế, cùng trình độ tổ chức, quản lý xã hội
của đất nước khi bước vào giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn thấp, nên
vấn đề bảo đảm an sinh xã hội trong đó có xóa đói, giảm nghèo, giảm nghèo
bền vững đã được Đảng, Nhà nước xác định là mục tiêu, biện pháp cần tiến
hành kiên trì, bền bỉ trong một thời gian dài. Xóa đói, giảm nghèo vừa nâng
cao chất lượng nguồn lực cho sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc;
vừa góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội; giảm bớt chênh lệch thu
nhập giữa các nhóm dân cư; vừa thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta đang hướng tới, dù mới chỉ ở thời kỳ quá độ.
Thực hiện mục tiêu giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, nhà
nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người nghèo, góp
phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa nông thôn và thành

thị, giữa các vùng, các dân tộc các nhóm dân cư; đồng thời thể hiện quyết tâm
trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỉ của Liên Hợp Quốc mà Việt Nam
đã cam kết.
Ngày nay, nhân loại đã bước sang thế kỷ 21 và đạt được nhiều thành tựu
vượt bậc trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là khoa học kỹ thuật. Cho nên nạn đói
nghèo vẫn tồn tại như một thách thức lớn đối với sự phát triển của mỗi quốc
gia nói riêng và đối với nền văn minh nhân loại nói chung. Chính vì vậy nạn
đói nghèo và chống đói nghèo luôn là trọng tâm hàng đầu của mỗi quốc gia.
Ở Việt Nam, sau hơn 80 năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm chiến tranh đã
làm cho cơ sở vật chất hiện tại của nước ta bị tàn phá nặng nề, nền kinh tế trở
nên kiệt quệ , sản xuất nông nghiệp lạc hậu đình đốn, sản xuất công nghiệp
nhỏ bé manh mún chưa phát triển. Sau năm 2000, cùng với sự tăng
trưởng kinh tế, quá hình xóa đói giảm nghèo (XĐGN) ở Việt Nam đã có

2


những thành tựu đáng kể. Nếu như năm 1998 tỷ lệ đói nghèo bình quân là
37,4% (thành thị là 9%, nông thôn là 44,9%) thì năm 2012, tỷ lệ đói nghèo đã
giảm xuống còn 11,1% (thành phố còn 4,3% và nông thôn là 14,1%), năm
2014 tỷ lệ này còn 8,4%.
Thành phố Nam Định nằm ở nam đồng bằng sông Hồng, có nhiều điều
kiện thuận lợi cho sự an cư của người dân và phát triển kinh tế. Cùng với sự
phát triển của xã hội, tỉ lệ hộ nghèo của Nam Định giảm, tốc độ giảm nghèo
khá nhanh. Tuy nhiên, sự phân hoá giàu - nghèo giữa các khu vực và tầng lớp
dân cư ngày càng rõ và tình trạng bất bình đẳng vẫn còn tồn tại. Người nghèo
thường có mức thu nhập, chi tiêu thấp, tài sản ít, trình độ dân trí không cao,
tay nghề kém và thiệt thòi trong việc hưởng thụ các dịch vụ xã hội. Thực tế
đó đặt cho thành phố nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng thực
hiện chương trình xoá đói, giảm nghèo trong thời gian tới. Từ những lí do

trên, tôi đã chọn đề tài: “Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Nam Định hiện nay” Làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá hoạt động thực hiện chính sách và các yếu tố tác động trong
xóa đói giảm nghèo tại thành phố Nam Định. Trên cơ sở đó đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện chính sách trong xóa đói giảm
nghèo tại thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Tìm hiểu cơ sở lý luận về xóa đói giảm nghèo và hoạt động thực hiện
chính sách trong xóa đói giảm nghèo
+ Đánh giá thực trạng giảm nghèo tại địa phương
+ Đánh giá thực trạng các hoạt động Công tác xã hội trong hỗ trợ giảm
nghèo bền vững tại địa phương

3


+ Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động Công tác xã
hội trong giảm nghèo bền vững tại thành phố.
3. Tình hình nghiên cứu
Giảm nghèo ở Việt Nam không chỉ là vấn đề chính sách mà còn là một
vấn đề xã hội nổi bật, là chủ đề của rất nhiều các nghiên cứu, đánh giá được
thực hiện bởi các tổ chức trong và ngoài nước. Các nghiên cứu về giảm nghèo
đã được thực hiện từ rất sớm, từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước, gắn liền
với việc thực hiện các chính sách giảm nghèo.
Trong cuốn sách, tác giả Nguyễn Thu Hằng đã nêu lên quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề đói, nghèo; kinh nghiệm xóa đói, giảm
nghèo của các nước trong khu vực; thực trạng và nguyên nhân đói nghèo ở
Việt Nam trong quá trình chuyển sang kinh tế tri thức; phương hướng và biện

pháp chủ yếu xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta. Tài liệu này tiếp cận
ở địa bàn rất rộng trên phạm vi cả nước và tiếp cận ở góc độ xã hội nên chủ
yếu phân tích, đánh giá những ảnh hưởng xã hội của tình trạng nghèo đói ở
nông thôn[11, tr.231].
Công trình nghiên cứu của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã đánh giá
những thành tựu trong công cuộc giảm nghèo của Việt Nam trong hai thập kỷ
qua (cụ thể là từ năm 1993 đến nay); phân tích công tác giảm nghèo đặt trong
bối cảnh sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO),
trong đó đặc biệt chú ý đến cách ứng phó với các rủi ro mang tính hệ thống ở
cấp độ nền kinh tế, cũng như với các rủi ro ở cấp độ hộ gia đình hoặc cấp cá
nhân và cách tạo ra nhiều cơ hội hơn cho người nghèo và người thu nhập thấp
trong bối cảnh kinh tế mới. Cụ thể các vấn đề liên quan đến duy trì ổn định
kinh tế vĩ mô, tăng cường hệ thống an sinh xã hội, mở rộng cơ hội và nâng
cao năng lực cho người nghèo và người thu nhập thấp; và nhận định những
thách thức ở phía trước[3].

4


Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đó đề cập đến nhiều khía cạnh
của vấn đề nghèo đói và XĐGN. Song hiện chưa có công trình nào nghiên
cứu đầy đủ về đề tài: “Thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo ở tỉnh
Nam định hiện nay”. Kết quả nghiên cứu của các công trình trên, đặc biệt là
những vấn đề lý luận là những tư liệu khoa học quý sẽ được tiếp thu có chọn
lọc trong quá trình viết khóa luận này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động Thực hiện chính sách xóa đói giảm
nghèo tại tỉnh Nam Định.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung: Đề tài tập trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về giảm nghèo

bền vững thông qua hệ thống các quan niệm, chỉ tiêu phân tích đói nghèo của Việt
Nam và thế giới; đánh giá các hoạt động công tác xã hội trong giảm nghèo ở Nam
Định. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giảm nghèo
ở tỉnh Nam Định.

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Tiến hành đọc, phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá trong nghiên
cứu các nguồn tài liệu lý luận có liên quan đến đề tài nhằm xây dựng cơ sở lý luận
chung cho vấn đề nghiên cứu.

5.2.Phương pháp quan sát
Quan sát là phương pháp thu thập thông tin thông qua tri giác như nghe,
nhìn,… để thu thập các thông tin từ thực tế nhằm đáp ứng mục tiêu nghiên cứu của
đề tài.
Phương pháp này được sử dụng để kiểm tra kết quả thông tin thu thập được từ
nhóm hộ được khảo sát.

6. Kết cấu khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo phần Nội
dung của khóa luận bao gồm 3 chương và 6 tiết:

5


Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về nghèo đói và xoá đói giảm
nghèo, gồm 2 tiết.
Chương 2: Mục tiêu, thực trạng và việc thực hiện chính sách xóa đói
giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Nam Định,gồm 2 tiết.
Chương 3: Những giải pháp và phương hướng chủ yếu xóa đói giảm

nghèo trên địa bàn tỉnh Nam Định trong thời gian tới, gồm 2 tiết.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHÈO ĐÓI
VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Khái niệm về nghèo đói và xoá đói giảm nghèo
1.1.1. Khái niệm về nghèo đói và tiêu chí xác định nghèo đói
1.1.1.1. Khái niệm nghèo đói
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thỏa mãn một
phần những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống ngang
bằng với mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Trong hoàn cảnh nghèo thì người nghèo cũng chỉ vật lộn với những mưu sinh
hàng ngày và kinh tế vật chất, biểu hiện trực tiếp ở bữa ăn. Họ không thể
vươn tới các nhu cầu về văn hóa, tinh thần hoặc những nhu cầu này phải cắt
giảm ở mức tối đa, gần như không có. Nghèo là khái niệm chỉ tình trạng mà
thu nhập thực tế của người dân chỉ dành hầu như toàn bộ cho nhu cầu ăn,
thậm chí không đủ chi cho ăn, phần tích lũy hầu như không có.
Tại Hội nghị thiên niên kỷ đầu tháng 9 năm 2000, Liên Hợp Quốc,
một lần nữa khẳng định: Chống nghèo đói là một trong những mục tiêu ưu
tiên hàng đầu của cộng đồng quốc tế trong thế kỷ XXI [6, tr.3]
Tại hội nghị về chống nghèo đói do Uỷ ban kinh tế xã hội khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương (ESCAP) tổ chức tại Thái Lan năm 1993, các
quốc gia trong khu vực đã thống nhất cao cho rằng: “Nghèo đói là tình trạng
một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản của
con người mà những nhu cầu ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội, phong tục tập quán của từng vùng và những phong tục ấy được xã
hội thừa nhận”.
Xem xét quan niệm nghèo và đói cho thấy: đói là khái niệm dùng để

phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư. Giữa đói và nghèo

7


cũng có quan hệ mật thiết với nhau, nó phản ánh cấp độ và mức độ khác
nhau, "nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là một tình trạng hiển nhiên
của nghèo”.
Nhìn chung, nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có những
điều kiện về cuộc sống như ăn, mặc, ở, giáo dục, quyền tham gia vào các
quyết định của cộng đồng… Nghèo thường được phản ánh dưới ba khía cạnh:
(1) Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu của con người
(2) Mức sống thấp dưới mức trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú
(3) Không được hưởng cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển
cộng đồng.
Mặc dù có rất nhiều quan niệm khác nhau về nghèo đói nhưng tôi đồng ý
với quan niệm về đói nghèo do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đưa ra
và đây cũng là quan niệm tôi chọn làm công cụ cho bài khóa luận.
Ở Việt Nam thì nghèo được chia thành các mức khác nhau: Nghèo tuyệt
đối, nghèo tương đối, nghèo đa chiều.
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo
không có khả năng thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở,
đi lại…
- Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo có
mức sống dưới mức sống trung bình của cộng dồng và địa phương đang xét.
- Nghèo đa chiều: Có thể được hiểu là tình trạng con người không được
đáp ứng một hoặc một số nhu cầu cơ bản trong cuộc sống.
Nghèo ở Việt Nam được chia làm 3 cấp độ: người nghèo, hộ nghèo và
vùng nghèo. Chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN giai đoạn 1998-2000
của Việt Nam đó căn cứ vào các cấp độ trên để đưa ra các khỏi niệm:

Nghèo, đói, hộ nghèo, vùng nghèo v.v... và có các tiêu chí xác định cho từng
loại cụ thể.

8


- Hộ nghèo: Là hộ đói ăn nhưng không đứt bữa, mặc không đủ lành,

không đủ ấm, không có khả năng phát triển sản xuất.
- Xã nghèo: Là xã có tỷ lệ nghèo cao, không có hoặc rất thiếu những cơ

sở hạ tầng thiết yếu như: điện, đường, trường, trạm, nước sạch v.v... trình độ
dân trí thấp, tỷ lệ mù chữ cao.
- Vùng nghèo: Là địa bàn nằm ở những khu vực khó khăn hiểm trở, giao

thông không thuận tiện, có tỷ lệ xã nghèo, hộ nghèo cao.
1.1.1.2. Tiêu chí về chuẩn nghèo đói.
Tiêu chí có nghĩa là: tính chất, dấu hiệu làm căn cứ để nhận biết, xếp
loại một sự vật, một khái niệm [23, tr.990]. Như vậy, tiêu chí mang tính
định tính.
Chuẩn có nghĩa là: Cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng
theo đó mà làm cho đúng, vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị
đo lường; cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc đúng theo thói
quen trong xã hội [23, tr.181]. Chuẩn mang tính định lượng. Vậy, nếu lấy
thu nhập làm tiêu chí xác định nghèo thì có thể hiểu chuẩn nghĩa là mốc
giới hạn do nhà nước hay tổ chức quốc tế quy định về mức thu nhập mà nếu
ai có thu nhập thấp hơn mức này gọi là nghèo, còn ai vượt qua giới hạn đó
thì họ không phải là người nghèo. Giữa chuẩn nghèo và tỷ lệ hộ nghèo có
quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, nếu chuẩn nghèo cao thì tỷ lệ hộ nghèo cao và
ngược lại

Ở Việt Nam, qua nhiều thập niên, cách đo lường và đánh giá nghèo chủ
yếu thông qua thu nhập. Chuẩn nghèo được xác định dựa trên mức chi tiêu
đáp ứng những nhu cầu tối thiểu và được quy thành tiền. Nếu người có thu
nhập thấp dưới mức chuẩn nghèo thì được đánh giá thuộc diện hộ nghèo. Đây
chính là chuẩn nghèo đơn chiều do Chính phủ quy định. Tuy nhiên, chuẩn
nghèo hiện nay của Việt Nam được đánh giá là thấp so với thế giới. Trên thực

9


tế, nhiều hộ dân thoát nghèo nhưng mức thu nhập vẫn nằm cận chuẩn nghèo,
do đó số lượng hộ cận nghèo vẫn rất lớn, tỷ lệ tái nghèo còn cao, hàng năm cứ
03 hộ thoát nghèo thì lại có 01 hộ trong số đó tái nghèo (Trung tâm Thông tin
và Dự báo Kinh tế - Xã hội Quốc gia, 2014).
Thực tế cho thấy sử dụng tiêu chí thu nhập để đo lường nghèo đói là
không đầy đủ. Về bản chất, đói nghèo đồng nghĩa với việc bị khước từ các
quyền cơ bản của con người, bị đẩy sang lề xã hội chứ không chỉ là thu nhập
thấp. Có nhiều nhu cầu tối thiểu không thể đáp ứng bằng tiền. Nhiều trường
hợp không nghèo về thu nhập nhưng lại khó tiếp cận được các dịch vụ cơ bản
về y tế, giáo dục, thông tin. Mặc dù một số hộ không có tên trong danh sách
hộ nghèo nhưng lại thiếu thốn các dịch vụ y tế, nước sạch, ở vùng sâu vùng
xa học sinh phải học trong những căn nhà lá đơn sơ, bốn bề gió lùa… Do đó,
nếu chỉ dùng thước đo duy nhất dựa trên thu nhập hay chi tiêu sẽ dẫn đến tình
trạng bỏ sót đối tượng nghèo, dẫn đến sự thiếu công bằng, hiệu quả và bền
vững trong thực thi các chính sách giảm nghèo.
Giống như quá trình phát triển, nghèo đói là một khái niệm đa chiều.
Trong cùng một thời điểm, người nghèo có thể phải đối mặt với nhiều bất lợi
khác nhau, có thể là những khó khăn trong khám chữa bệnh, học hành, nhà ở,
đất đai, nước sạch hoặc điện thắp sáng. Sử dụng một tiêu chí thu nhập (hay
chi tiêu) không đủ để nắm bắt được tình trạng nghèo thực tế của người dân.

Đánh giá nghèo cần được tiếp cận rộng hơn từ chiều cạnh phát triển toàn diện
con người. Sau 30 năm đổi mới, phát triển và hội nhập, Việt Nam đã chuyển
từ một quốc gia thu nhập thấp sang nhóm nước có thu nhập trung bình nên
cách tiếp cận đánh giá nghèo đơn chiều theo thu nhập đã bộc lộ những hạn
chế. Đã đến lúc xem xét, đánh giá nghèo từ góc độ đa chiều từ góc độ nghèo
vật chất, nghèo về con người và nghèo về xã hội [10]
Các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều gồm tiêu chí về thu nhập,
và mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản[14], cụ thể:

10


 Chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ có mức sống trung bình áp
dụng cho giai đoạn 2016 - 2020
a, Đối với hộ nghèo
- Khu vực nông thôn: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 700.000 đồng trở xuống;
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 700.000 đồng đến
1.000.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
- Khu vực thành thị: là hộ đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng từ đủ 900.000 đồng trở xuống;
+ Có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên 900.000 đồng đến
1.300.000 đồng và thiếu hụt từ 03 chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt tiếp
cận các dịch vụ xã hội cơ bản trở lên.
b, Đối với hộ cận nghèo
- Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
700.000 đồng đến 1.000.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức
độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
- Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên

900.000 đồng đến 1.300.000 đồng và thiếu hụt dưới 03 chỉ số đo lường mức
độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
c, Đối với hộ có mức sống trung bình
- Khu vực nông thôn: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng.
- Khu vực thành thị: là hộ có thu nhập bình quân đầu người/tháng trên
1.300.000 đồng đến 1.950.000 đồng.
Theo tiêu chí mới, một gia đình được coi là hộ nghèo nghiêm trọng nếu
hộ đó thiếu từ 1/2 tổng số nhu cầu cơ bản trở lên; thiếu từ 1/3 - 1/2 tổng số
nhu cầu sống cơ bản; thiếu từ 1/5 - 1/3 tổng số nhu cầu cơ bản.

11


Hiện nay, ở Nam Định, chuẩn nghèo được áp dụng theo Quyết định
59/2015/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về Chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều
áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020. Cụ thể, việc xác định chuẩn nghèo dựa
vào các tiêu chí tiếp cận đo lường nghèo đa chiều gồm tiêu chí về thu nhập,
và mức độ thiếu hụt tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản.
1.1.2. Khái niệm và nội dung về xóa đói giảm nghèo.
1.1.2.1. Khái niệm về giảm nghèo
Giảm nghèo là cách thức vận dụng các nguồn lực, vật lực của Nhà
nước, của xã hội để triển khai thực hiện các chương trình, dự án nhằm tác
động tới các đối tượng cụ thể như người nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo với
mục đích giúp họ nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện khó khăn, tạo cơ
hội cho họ về thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội, đảm bảo các nhu cầu cơ
bản của con người.
Nói giảm nghèo trong đó luôn bao hàm xóa đói và cũng giống như khái
niệm nghèo, khái niệm giảm nghèo chỉ là tương đối. Bởi nghèo có thể tái sinh
mỗi khi quan niệm nghèo và chuẩn nghèo thay đổi. Hoặc có những biến động

khác tác động đến như: khủng hoảng, lạm phát, thiên tai vv...Vì vậy, việc
đánh giá mức độ giảm nghèo cần được xem xét trong một không gian và thời
gian nhất định.
Ở Việt Nam hiện nay không còn chế độ bóc lột như trước đây mà do nền
kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế lạc hậu, kém phát
triển sang nền kinh tế hiện đại. Trong nền kinh tế này tồn tại và đan xen nhiều
trình độ sản xuất khác nhau. Trình độ sản xuất cũ, lạc hậu vẫn còn, trong khi
đó trình độ sản xuất mới, tiên tiến lại chưa đóng vai trò chủ đạo, thay thế trình
độ sản xuất cũ. Do đó, dẫn đến có sự giàu-nghèo khác nhau trong các tầng lớp
dân cư.
Như vậy, ở góc độ quốc gia XĐGN ở nước ta chính là từng bước thực
hiện quá trình chuyển đổi các trình độ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong

12


xã hội sang trình độ sản xuất mới cao hơn.Ở góc độ người nghèo, giảm nghèo
là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người nghèo có khả năng tiếp cận các
nguồn lực của sự phát triển một công nhanh nhất, trên cơ sở đó họ có nhiều
khả năng lựa chọn hơn để từng bước thoát ra khỏi tình trạng nghèo.
1.1.2.2. Nội dung cơ bản của xoá đói giảm nghèo
- Thứ nhất là tăng thu nhập cho người nghèo, vùng nghèo: Khi đánh giá
vấn đề nghèo đói, các tổ chức quốc tế cũng như các nước khác nhau lựa chọn
phương pháp và chỉ tiêu đánh giá cơ bản giống nhau. Nhìn chung các quốc
gia đều căn cứ vào chỉ tiêu chính là thu nhập để đánh giá. Như vậy, tăng thu
nhập cho đối tượng nghèo là nội dung cần được quan tâm nhất đối với công
tác XĐGN.
Phần lớn người nghèo ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào thu
nhập từ sức lao động, từ công việc trên mảnh đất của họ, từ tiền lương hay từ
những hình thức lao động khác. Sức lao động của người nghèo chỉ có thể

được sử dụng để đem lại thu nhập khi họ kiếm được việc làm.Việc làm ổn
định và việc làm tốt là cơ sở để người nghèo có thu nhập ổn định và nâng cao
thu nhập đảm bảo cuộc sống của mình. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay, XĐGN là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng
xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững; ngược lại chỉ có tăng trưởng kinh tế
cao và bền vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người
nghèo vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Mặt khác nếu lao động có sức khoẻ,
được đào tạo, bồi dưỡng tốt cùng tinh thần làm việc hăng say, môi trường
kinh tế của vùng nghèo được cải thiện thì năng suất lao động sẽ tăng lên, từ
đó thu nhập của người nghèo sẽ khá hơn, dễ có cơ hội để vươn lên thoát
nghèo.Tuy nhiên, trong thực tế tình trạng thiếu việc làm và năng suất lao
động thấp dẫn đến thu nhập của người lao động thấp là khá phổ biến đối với
người nghèo. Vì vậy, tăng năng suất lao động, tạo việc làm và tăng thu nhập

13


cho người nghèo, đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng nghèo phải là nội dung
quan trọng trong các giải pháp XĐGN ở nước ta hiện nay.
- Thứ hai là tăng khả năng tiếp cận các nguồn lực phát triển và dịch vụ
công đối với người nghèo, vùng nghèo.
+ Phần lớn người nghèo tập trung chủ yếu ở vùng nông thôn, nhất là
vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa. Những nơi này thường là xa các trung
tâm kinh tế và dịch vụ xã hội. Hệ thống cơ sở hạ tầng thiếu và yếu hơn so
với những vùng khác. Phổ biến là tình trạng thiếu điện, thiếu nước tưới,
nước sinh hoạt, thiếu thông tin, thiếu chợ đầu mối, thiếu vốn, đất sản xuất và
thị trường, giao thông đi lại khó khăn v.v.. Do đó, năng suất lao động thấp,
giá cả của sản phẩm do người sản xuất bán lại rẻ vì vận chuyển khó khăn.
Chính vì vậy cơ hội tự vươn lên của người nghèo ở những vùng này là rất
khó khăn. Điều này cho thấy việc giải quyết bài tóan XĐGN không hề dễ,

đòi hỏi phải có thời gian.
+ Nghèo thường gắn liền với dân trí thấp. Do nghèo mà không có điều
kiện đầu tư cho con cái học hành để nâng cao trình độ hiểu biết. Dân trí thấp
thì không có khả năng tiếp thu tiến bộ của khoa học kỹ thuật để áp dụng vào
sản xuất và không có khả năng tiếp cận với những tiến bộ, văn minh của nhân
loại nên dẫn đến nghèo về mọi mặt (kinh tế và tinh thần, chính trị). Vì vậy, để
giảm nghèo phải nâng cao trình độ dân trí, nâng cao sự hiểu biết cho người
nghèo là giải pháp có tính chiến lược lâu dài.
+ Một nội dung quan trọng nữa của công tác XĐGN là phải tạo điều kiện
để giúp người nghèo tiếp cận có hiệu quả với các dịch vụ y tế, dịch vụ
tài chính, tín dụng và tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.vv...
+ Hỗ trợ người nghèo về y tế để họ có điều kiện chăm sóc sức khỏe tốt
hơn, hạn chế được bệnh tật, từ đó có điều kiện tái sản xuất sức lao động, đây
là yếu tố quan trọng để tăng trưởng và phát triển.

14


Người nghèo là những người có thu nhập thấp nên những lao động
nghèo thường thiếu vốn để kinh doanh, thiếu kinh nghiệm, đất sản xuất, thiếu
thông tin thị trường và thiếu kiến thức về khoa học công nghệ. Do vậy, hoạt
động XĐGN phải hỗ trợ cho người nghèo có được sự tiếp cận tốt hơn những
yếu tố trên.
- Thứ ba là giảm thiểu sự tổn thương cho người nghèo để XĐGN mang

tính bền vững: Trong thực tiễn người nghèo rất dễ bị tổn thương XĐGN có
tình trạng khá phổ biến là có rất nhiều hộ gia đình sau khi thoát nghèo một
thời gian do nhiều nguyên nhân khác nhau như: gặp thiên tai, tai nạn, rủi ro
trong kinh doanh, ốm đau, do tác động của phân hóa giàu - nghèo của quá
trình phát triển v.v.. lại trở thành những hộ nghèo. Ở nước ta, quá trình xây

dựng và phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa cùng với đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH trong
những năm vừa qua đó đạt được những thành quả quan trọng, khẳng định sự
đúng đắn của đường lối đổi mới của Đảng, nhưng cũng cho thấy tình trạng
phân hoá giàu - nghèo gia tăng như một hệ quả tất yếu của quá trình phát
triển. Điều đó đặt ra cho chúng ta những thách thức lớn. Một mặt, nếu không
tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước và không thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH thì không thể tồn
tại, phát triển và hội nhập quốc tế. Mặt khác, nếu đẩy mạnh CNH, HĐH, phát
triển kinh tế thị trường nhiều thành phần, tất yếu sự phân hoá giàu nghèo sẽ
gia tăng; trong khi có nhiều người giàu lên, đất nước giàu lên, thì cũng có một
bộ phận dân cư nghèo đói, thậm chí mất tư liệu sản xuất.
Vì vậy, nhiệm vụ của công tác XĐGN không chỉ hỗ trợ để người nghèo
vượt qua ngưỡng cửa nghèo một công thụ động mà phải có giải pháp tích cực
để bản thân người nghèo chủ động tự vươn lên thoát nghèo vững chắc tiến tới
trở thành hộ khá, hộ giàu. Đồng thời Nhà nước phải có chính sách, giải pháp

15


giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng và XĐGN. Trong những
trường hợp cần thiết phải có sự trợ giúp kịp thời để họ vượt qua sự biến động
của cuộc sống. Phải xây dựng chiến lược XĐGN dài hạn và chiến lược này
phải được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển KT-XH chung của quốc
gia, địa phương.
- Thứ tư là XĐGN trước hết phải ưu tiên các đối tượng chính sách, vùng

công mạng, gắn giải quyết vấn đề kinh tế với chính trị-xã hội.
Ở nước ta, trong những năm đổi mới nền kinh tế đó có bước phát triển
vượt bậc, đời sống của đa số dân cư được cải thiện; công tác XĐGN đó thu

được những thành tựu đáng kể. Tuy vậy, mức sống của người dân vẫn còn
thấp, phân hóa thu nhập có xu hướng tăng lên, một bộ phận khá lớn dân cư
vẫn còn sống nghèo đói. Trong đó có một số vùng công mạng, vùng dân tộc ít
người và nhiều hộ gia đình có nhiều đóng góp cho công mạng vẫn chịu nhiều
thiệt thòi trong hòa nhập cộng đồng và không đủ sức tiếp nhận những thành
quả do công cuộc đổi mới mang lại. Những giải pháp XĐGN tập trung cho
đối tượng này vừa là yêu cầu cấp thiết đối với mục tiêu phát triển bền vững,
vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
1.2. Những yếu tố tác động đến nghèo đói và xóa đói giảm nghèo
1.2.1. Các yếu tố khách quan
- Điều kiện tự nhiên: Sự khắc nghiệt của khí hậu đã gây ra những khó

khăn đối với ngành sản xuất nông nghiệp, chẳng hạn như ở các nước châu
Phi, nó làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế đồng thời cũng khiến dịch bệnh
xảy ra thường xuyên, dẫn đến tỷ lệ nghèo đối ở khu vực này cao nhất thế giới.
- Trình độ nhận thức của các cơ quan, cũng như của các địa phương

trong việc đề xuất, xây dựng và thực hiện chính sách, chương trình: Giảm
nghèo bền vững là vấn đề phức tạp, chỉ có những nhận thức đúng đắn, thống
nhất của các chủ thể hoạch định và thực thi chính sách mới tạo cơ sở cho việc

16


thực hiện có hiệu chính sách trong thực tiễn. Nhận thức không thống nhất về
giảm nghèo bền vững khác nhau dẫn đến cơ chế thực hiện khác nhau, mức độ
quan tâm, ưu tiên khác nhau. Có những bộ, ngành, cơ quan quản lý nhà nước
cho rằng, tập trung ưu tiên phát triển hạ tầng cơ sở các vùng nghèo là điều
kiện để giảm nghèo bền vững mà không hiểu rằng, đó là trách nhiệm đầu tư
của nhà nước. Nên đã biến cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng theo kiểu ban phát, xin

cho dẫn đến thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả. Có những địa phương với
những kinh nghiệm chủ quan của mình đã sử dụng các nguồn lực một cách
bất hợp lý gây thiệt hại và thậm chí làm giảm đi khả năng của người nghèo tại
địa phương mình. Quan niệm giảm nghèo bền vững cần phải được chỉ ra rõ
ràng, mặc dù ở mỗi địa phương, vùng miền, có thể có những cách làm cụ thể
khác nhau, song vẫn cần phải bám sát những nội dung, tư tưởng của giảm
nghèo bền vững đã được chỉ ra.
- Trình độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương: Không có giao

thông thuận lợi nên dẫn đến chi phí vận chuyển cao, hàng hóa vận chuyển khó
khăn, hàng nông sản chỉ tiêu thụ tại địa phương nên giá thành thấp, khó cung
cấp hoặc tận dụng các dịch vụ như khuyến nông, giáo dục, chăm sóc sức
khỏe, khó tiếp cận với tri thức mới… và cuối cùng họ cũng vẫn bế tắc không
tìm ra con đường thoát nghèo.
- Các chính sách của địa phương: Một số chính sách trợ giúp (như lãi

suất tín dụng, trợ giá, trợ cước…) không đúng đối tượng đã làm ảnh hưởng
xấu đến sự hình thành thị trường nông thôn, thị trường ở vùng sâu, vùng xa đã
làm cho công cuộc xóa đói giảm nghèo trở nên khó khăn và nan giải hơn.
- Nguồn lực đảm bảo thực hiện chính sách, chương trình, dự án giảm

nghèo: Kinh phí để thực hiện giảm nghèo hiện nay được cân đối chủ yếu từ
nguồn ngân sách Nhà nước. Đồng thời có sự huy động các nguồn khác từ các
tổ chức quốc tế, tổ chức của Chính phủ, phi chính phủ và sự đóng góp của các

17


tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước
thường giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, nguồn này phụ thuộc vào trình độ phát

triển kinh tế của mỗi quốc gia.
1.2.2. Yếu tố thuộc đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước
Cùng với tiến trình đổi mới, Đại hội VII (6/1991), Đảng ta đó đề ra chủ
trương: trong quá trình đổi mới cùng với tăng trưởng kinh tế, phải tiến hành
XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thiết yếu và
ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; đảm bảo vững chắc nhu cầu
lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và nạn đói giáp hạt ở
một số vùng [2, tr.73]. Đến Đại hội VIII (1996), Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh:
Vấn đề nghèo khổ không được giải quyết thì không một mục tiêu nào mà
cộng đồng quốc tế cũng như quốc gia đặt ra như: tăng trưởng kinh tế, cải
thiện đời sống, hoà bình ổn định, bảo đảm các quyền con người được thực
hiện [2]. Cho đến nay, quan điểm tăng trưởng kinh tế đi đôi với XĐGN vẫn
luôn được Đảng ta quan tâm chỉ đạo. Đó là cơ sở, tiền đề để định hướng cho
các chính sách, giải pháp tập trung XĐGN hiệu quả. Cụ thể hoá đường lối,
chủ trương của Đảng, Chính phủ đó ban hành và thực hiện nhiều chương
trình, chính sách liên quan đến XĐGN.
Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN giai đoạn 1998-2000 theo Quyết
định 133/1998/QĐ-TTg ngày 22/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Chương
trình được tiếp tục thực hiện trong các giai đoạn 2001-2005 và 2006-2010.
Đây là một chương trình có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và
quốc phòng an ninh, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN. XĐGN đó
được các cấp ủy Đảng, chính quyền xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong
hoạt động lãnh đạo, điều hành phát triển KT-XH.
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016
- 2020 [17] Mục tiêu tổng quát: Xây dựng nông thôn mới để nâng cao đời

18


sống vật chất và tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội

phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát
triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô
thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân
tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật tự được
giữ vững. Mục tiêu cụ thể: Đến năm 2020 số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới
khoảng 50% (trong đó, mục tiêu phấn đấu của từng vùng, miền là: Miền núi
phía Bắc: 28,0%; Đồng bằng sông Hồng: 80%; Bắc Trung Bộ: 59%; Duyên
hải Nam Trung Bộ: 60%; Tây Nguyên 43%; Đông Nam Bộ: 80%; Đồng bằng
sông Cửu Long: 51%); khuyến khích mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương phấn đấu có ít nhất 01 huyện đạt chuẩn nông thôn mới; bình quân cả
nước đạt 15 tiêu chí/xã (trong đó, mục tiêu phấn đấu của từng vùng, miền là:
Miền núi phía Bắc: 13,8; Đồng bằng sông Hồng: 18,0; Bắc Trung Bộ: 16,5;
Duyên hải Nam Trung Bộ: 16,5; Tây Nguyên: 15,2; Đông Nam Bộ: 17,5;
Đồng bằng sông Cửu Long: 16,6); cả nước không còn xã dưới 5 tiêu chí; cơ
bản hoàn thành các công trình thiết yếu đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất
và đời sống của cư dân nông thôn: giao thông, điện, nước sinh hoạt, trường
học, trạm y tế xã; nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; tạo
nhiều mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân, thu nhập tăng
ít nhất 1,8 lần so với năm 2015.
- Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện: Chương trình mục tiêu quốc gia về

giải quyết việc làm (gọi tắt là chương trình 120) cựng nhiều chính sách khác
như: Chính sách về đất đai và việc làm cho người nghèo; Chính sách phát
triển nông thôn và kinh tế nông nghiệp; Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc
đặc biệt khú khăn; Chính sách trợ giá, trợ cước các mặt hàng lên miền núi;
Chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, làm giàu hợp pháp; Chính sách
miễn giảm học phí, hỗ trợ y tế, chăm sóc sức khoẻ cho người nghèo.v.v. đó có
tác dụng tích cực đến phát triển KT-XH và XĐGN.

19



×