Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SKKN: PHƯƠNG PHÁP rèn kỹ NĂNG làm văn MIÊU tả CẢNH CHO học SINH lớp 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.58 KB, 18 trang )

PHƯƠNG PHÁP RÈN KỸ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ CẢNH CHO
HỌC SINH LỚP 6
MỤC LỤC
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ. 1
I. Lý do chọn đề tài nghiên cứu. 1
II. Mục đích nghiên cứu. 1
III. Đối tượng nghiên cứu. 2
IV. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu. 2
V. Nhiệm vụ nghiên cứu: 2
VI. Phương pháp nghiên cứu. 2
VII. Kế hoạch nghiên cứu. 2
PHẦN II. NỘI DUNG.. 3
Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN.. 3
Chương II: CƠ SỞ THỰC TẾ. 3
Chương III: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ. 4
I. Giải pháp thực hiện. 4
II. Kết quả nghiên cứu. 13
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. 14
1. Đề xuất, khuyến nghị: 14
a) Đề xuất 14
b) Khuyến nghị 14
2. Kết luận: 14
PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 15

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Đề tài: Phương pháp rèn kỹ năng làm văn miêu tả cảnh cho
1


học sinh lớp 6.
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐÊ


I. Lý do chọn đề tài nghiên cứu.
Đối tượng học sinh ở bậc Trung học cơ sở rất hồn nhiên trong trắng
như vùng đất phù sa màu mỡ phì nhiêu. Giáo viên cùng toàn xã hội phải có
trách nhiệm gieo trồng những hạt giống tốt để thu hoạch hoa thơm trái ngọt
về cả tri thức và đạo đức. Với môn Ngữ văn thì hạt giống tốt về kiến thức văn
học không chỉ riêng nội dung ý nghĩa sâu sắc từ mỗi bài học hay một khái
niệm Tiếng Việt nào đó mà học sinh cần phải có được những kỹ năng tốt để
làm một bài văn một cách thành thạo. Mặt khác văn học từ lâu đã là một bộ
môn khoa học xã hội khiến nhiều học sinh ngại học, ngại viết. Vậy đối với
giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn lớp 6 ngoài việc cung cấp nội dung bài
dạy theo hướng dẫn của sách giáo khoa, sách giáo viên, chúng tôi còn phải rất
quan tâm đến phương pháp rèn kỹ năng hành văn cho học sinh.
Việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả cảnh này trước hết rất thiết thực cho
phần làm văn miêu tả cảnh và góp phần nâng cao chất lượng bộ môn cho học
sinh. Đặc biệt việc rèn kỹ năng làm văn miêu tả cảnh cho học sinh theo tôi
còn là việc tháo gỡ những vướng mắc, xoá đi mặc cảm ngại học văn của một
số học sinh. Từ đó xây dựng và phát triển tình yêu với môn văn học trong nhà
trường cho học sinh. Giúp các em có được tình yêu với những cảnh vật bình
thường như: dòng sông, cánh đồng, mái trường rộng hơn là tình yêu quê
hương đất nước trong tâm hồn các em học sinh. Muốn làm được điều đó học
sinh nhất thiết phải có một phương pháp, kĩ năng trong việc làm một bài văn
miêu tả cụ thể.
II. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở áp dụng đề tài vào thực tiễn giảng dạy, học sinh sẽ biết cách
làm một bài văn tả cảnh đúng yêu cầu đề ra, trong đó đảm bảo các yếu tố nội
dung và diễn đạt. Cao hơn là học sinh có được niềm say mê môn học được
2


xem là nghệ thuật của ngôn từ này. Một khi các em có được niềm say mê,

hứng khởi với môn học thì hiệu quả, chất lượng giảng dạy bộ môn cũng sẽ
được nâng lên.
III. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu trước hết là áp dụng cho học sinh có học lực
trung bb́ình, khá của khối. Song người giáo viên cũng có thể vận dụng được
kinh nghiệm này ở góc độ hẹp hơn, sơ lược hơn cho đối tượng là học sinh
lớp 6 đại trà vào những buổi phụ đạo. Mặt khác, tôi còn có thể sử dụng kinh
nghiệm này một cách tỉ mỉ, kiên trì cho đối tượng là những học sinh ngại học
văn, chưa có tình cảm với thể loại văn miêu tả cảnh.
IV. Giới hạn phạm vi nội dung nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu ở phạm vi cấp trường về phương pháp rèn kỹ năng
làm văn miêu tả cảnh cho học sinh lớp 6.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Từ những đối tượng đưa ra ở trên, giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn 6 sẽ
phải thật linh hoạt trong việc rèn kỹ năng cho học sinh. Sau đây là những
nhiệm vụ của sáng kiến kinh nghiệm này :
+ Giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu của đề bài để xây dựng
hướng làm bài .
+ Hướng dẫn học sinh cách tìm ý cho bài văn tả cảnh .
+ Rèn kỹ năng diễn đạt trong văn miêu tả cảnh cho học sinh .
+ Rèn kỹ năng dựng đoạn trong văn tả cảnh .
+ Luyện lời văn chuyển cảnh, liên kết đoạn cho bài văn tả cảnh.
+ Luyện viết mở bài và kết bài cho bài văn tả cảnh.
VI. Phương pháp nghiên cứu.
Từ lí luận khoa học gắn liền với thực tiễn, kết hợp với nghiên cứu tài
liệu, điều tra khảo sát để thu thập thông tin cần thiết cho việc hoàn thành đề
tài.
VII. Kế hoạch nghiên cứu.
3



- Tháng 9 /2016 – 4/ 2017: đăng kí đề tài và trang bị lí luận.
- Tháng 10/ 2016 đến tháng 3/2017: nghiên cứu đề tài và viết sáng kiến kinh
nghiệm.
- Tháng 04/2017: hoàn thiện sáng kiến kinh nghiệm.
* Số liệu khảo sát đầu năm:
Lớp

Sĩ số Điểm
Giỏi

(9-Khá

10)
SL
Tỉ lệ
6B,C 68
6
9%
PHẦN II. NỘI DUNG

8)
SL
15

(7-Trung
Tỉ lệ
22 %

bìnhYếu và Kém


(5-6)
(0-4)
SL
Tỉ lệ SL
Tỉ lệ
30
44 % 17
25%

Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN
Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể coi
mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng tạo
nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ. Vậy làm
thế nào cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường
cũng như có thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật “bé con” giá trị ?
Tôi nghĩ đó là một việc làm mà mọi giáo viên đang tìm cách đi nhẹ nhàng
nhất và có hiệu quả nhất.
Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn chúng ta thấy: chương trình
Ngữ văn lớp 6 so với chương trình tiểu học mà các em đã làm quen và có
nhiều những khái niệm trừu tượng. Riêng làm văn, đòi hỏi các em phải có
cách viết già dặn hơn, sinh động hơn và đặc biệt trong văn miêu tả cảnh phải
có hình ảnh sống động, thuyết phục lòng người. điều đó không thể đi từ lý
thuyết sang thực hành ngay được, bởi tư duy của lứa tuổi các em học sinh lớp
6 còn là tư duy cụ thể, chưa tiếp nhận ngay được những kiến thức trừu tượng.
Cảm quan của các em còn thô sơ chưa có nhiều tính hình ảnh, sáng tạo nghệ
thuật.
Chương II: CƠ SỞ THỰC TẾ.
4



Thực sự mà nói thì các em đã quá quen với việc thực hành viết văn
dạng văn bản mẫu và tái tạo văn bản tương tự mẫu ở cấp tiểu học. Cho nên
việc sáng tạo một văn bản nghệ thuật đối với các em học sinh lớp 6 là việc
làm vô cùng khó khăn và không có hứng thú. Hơn nữa sự say mê đọc tư liệu
văn học của các em học sinh ( thời nay) quả là ít ỏi, hầu như là không có bởi
những thông tin hiện đại: hoạt hình, truyện tranh, đặc biệt là những dịch vụ
In-tơ-nét tràn lan cuốn hút lòng trẻ. Điều đó đương nhiên làm nghèo nàn vốn
ngôn từ nghệ thuật quý giá của văn học trong mỗi học sinh.
Từ những cơ sở trên tôi thiết nghĩ : quá trình rèn kỹ năng làm văn miêu
tả cảnh cho học sinh lớp 6 là một việc làm thiết thực nên làm và làm một cách
cặn kẽ để có hiệu qủa tốt nhất.
Chương III: GIẢI QUYẾT VẤN ĐÊ
I. Giải pháp thực hiện.
Sau khi nghiên cứu vấn đề này bằng kinh nghiệm và năng lực của bản thân
tôi xin đưa ra một số giải pháp sau đây:
1. Trước nhất giáo viên cần giúp học sinh biết cách xác định đúng yêu cầu
của đề bài để xây dựng hướng làm bài.
* Ví dụ:
Với đề sau : “Em hãy miêu tả quê hương em vào một buổi chiều nắng
đẹp”.
Giáo viên cho học sinh thấy: Trên đây là một đề bài dạng miêu tả cảnh tổng
hợp. Vậy thế nào là cảnh tổng hợp?
- Giáo viên chỉ rõ cho học sinh thấy ta xác định cảnh tổng hợp nhờ những từ
ngữ nào?
+ Đề yêu cầu tả cảnh tổng hợp thường chứa những từ ngữ như: “một miền
quê, quê hương em, cảnh vùng quê, hoặc cảnh nơi em ở.
- Cảnh tổng hợp là như thế nào?
+ Là cảnh gồm nhiều cảnh nhỏ, cảnh lẻ. Những cảnh nhỏ, của quê hương hay
miền quê thường là cảnh đồng, dòng sông, con đường làng, cây đa giếng

5


nước sân đình, khu vườn nhà...sau đó giúp học sinh hình dung được cụ thể về
cảnh miêu tả ở thời gian nào (mùa nào) ở không gian nào ( cảnh đó như thế
nào) ... Việc xác định được đúng yêu cầu của đề như ở ví dụ trên sẽ giúp các
em rất nhiều trong việc định hình được đối tượng miêu tả.
2. Hướng dẫn cách tìm ý cho bài văn tả cảnh.
Khi học sinh đã xác định đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối
tượng miêu tả nhưng chắc chắn chưa thể định hình được hướng đi cho bài
viết. Để giúp học sinh định hình được hướng đi của bài viết văn miêu tả cảnh
tôi đã hướng dẫn học sinh bước tìm ý cho bài văn tả cảnh :
- Nhất thiết phải theo một trình tự: Tìm ý bao quát không gian của cảnh
chung sẽ tả, sau đó cụ thể sẽ có những cảnh nào? Cảnh như thế nào?
- Bao quát không gian cảnh được coi là một thao tác sơ thảo của bức tranh
cảnh, rất quan trọng trong việc định hình tâm thế cũng như nhãn thế cho
người thưởng thức bức tranh cảnh bằng ngôn từ. Vậy học sinh cần phải nắm
được cách viết phần bao quát không gian cảnh như thế nào ? Thực tế tôi thấy
học sinh thường viết một cách cộc lốc cụt ngủn, có khi chỉ viết được một, hai
câu cho phần tả bao quát. Nên dù không phải lĩnh vực tự nhiên, nhưng tôi đã
đưa ra theo ý như một công thức dễ nhớ cho học sinh :
+ Để tả bao quát cảnh, trước hết phải có câu xác định vị trí miêu tả khái
quát. Thường là một vị trí cao hơn, xa cảnh trung tâm để có thể “chụp’ được
toàn cảnh miêu tả vào nhãn quan của người quan sát một cách tương đối trọn
vẹn.
+ Sau câu văn giúp người đọc biết được vị trí của người quan sát là những
lời văn nhận xét, đánh giá khái quát đầy nghệ thuật về cảnh chung đó.
- Cũng không quên lưu ý với học sinh rằng : Lời văn nhận xét, đánh giá
khái quát đầy nghệ thuật là những lời văn sử dụng linh hoạt các biện pháp tu
từ sao cho cảnh tả nổi lên sống động, tự nhiên, trong sáng,...sát hợp với yêu

cầu của đề mà phần (1) đã xác định và mang tính biểu cảm của người quan
sát cảnh.
6


* Một vài ví dụ cụ thể:
Ví dụ:
Tả bao quát cảnh quê hương em vào một buổi sáng đẹp trời : “Đứng trên đầu
đê, ngắm nhìn toàn cảnh làng quê, tôi như đang đắm mình trong sắc thu vàng
của chốn quê hương thanh bình, trù phú.”
Hay một ví dụ khác về cảnh quê hương vào sáng mùa xuân : “Đứng giữa
cánh đồng giang rộng cánh tay mà cảm nhận về làng quê. Ôi ! quê hương tôi
đẹp như một nàng tiên đang mỉm cười trước nhân gian. Thật ấm áp, thanh
bình đầy sức sống,...”
- Những ý cốt yếu nhất của một dàn bài văn miêu tả cảnh còn là cụ thể những
cảnh nào? ( Nếu là đề tổng hợp thì cảnh sẽ chia thành nhiều cảnh đơn, nếu là
đề tả cảnh đơn thì cảnh đơn sẽ có có những điểm nổi bật gì? Như thế nào?)
Học sinh phần lớn thường sa vào kiểu gặp đâu nói đó và không hề xác
định được rằng mình đang tả cảnh có mục đích làm nổi lên diện mạo như thế
nào, có làm bật lên được tư tưởng chủ đề mà mình đã xác định được ở đầu bài
yêu cầu không. Để khắc phục được tình trạng này tôi cho học sinh luyện kỹ
năng xác định, lựa chọn những đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả.
* Ví dụ:
Cảnh khu vườn vào buổi sáng đẹp trời thì có những đặc điểm gì nổi bật?
- Đầu tiên giáo viên cho học sinh xác định chủ đề của cảnh sẽ dựng là một
cảnh khu vườn tươi tốt, đầy hoa thơm trái ngọt, rất thanh bình, dân giã mà
mang được vẻ trù phú của chốn quê hương yêu dấu, đặc biệt cảnh phải mang
được dáng dấp của thời gian, không gian mà đề quy định ( có đặc trưng theo
mùa). Sau đó giáo viên hướng cho học sinh tái hiện từng hình ảnh của khu
vườn theo trí tưởng tượng nhưng phải sát với hiện thực.

“ Cảnh giàn thiên lý trước sân nhà ngào ngạt dậy hương buổi sớm, hình ảnh
cây cau cạnh bể nước với những tàu lá già dang rộng, đọt lá non cao vút; hình
ảnh vườn hoa đua sắc vàng thu cùng ong bướm; hình ảnh vườn rau tươi tốt
cũng rất mang đặc trưng mùa thu: cải sen làm dưa đang lên ngồng đang trổ
7


hoa vàng rực, những ngọn mồng tơi đang quăn mình leo lên bờ dậu để ra quả
vắt mình trong nắng gió; tiếp đó là hình ảnh hàng cây ăn quả với những
hương vị màu sắc riêng.
Ví dụ: thơm lừng những cḥùm ổi, nhãn sau nhà, những trái na mở mắt nhìn
nắng mới, cây hồng trái chín như những chấm son trên nền trời trong veo...
- Với cách làm như trên tôi đã cho học sinh luyện tập tìm đặc điểm cho nhiều
cảnh khác nhau với những thời gian, không gian đa dạng. Các em được luyện
tập dưới hình thức: thi nhau tìm đặc điểm, giáo viên hệ thống và giúp các em
chọn lựa những đặc điểm tiêu biểu nhất trong mỗi cảnh. Như thế sẽ tạo được
hứng thú của học sinh với cảnh sẽ tả.
3. Rèn kỹ năng diễn đạt cho học sinh trong văn miêu tả cảnh.
- Tìm được đặc điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả đã là một bước quan trọng
song chưa phải là đã tả cảnh. Miêu tả cảnh là dựng lại được cảnh một cách
sống động, chân thực, nghệ thuật. Vậy những đặc điểm vừa tìm được ở trên
sẽ diễn đạt như thế nào là một điều giáo viên chúng tôi rất quan tâm.
- Thực tế là qua nhiều năm chấm bài văn miêu tả của học sinh tôi thấy đáng
buồn một điều là vốn ngôn từ của các em rất nghèo nàn, diễn đạt lủng củng,
thường xảy ra hiện tượng bí từ, dùng sai nghĩa từ, lặp từ, lặp ý ... như vậy để
làm bài văn của học sinh diễn đạt trong sáng có sức hấp dẫn chúng tôi nghĩ
rằng không có cách nào khác ngoài việc trau dồi ngôn từ nghệ thuật cho mỗi
học sinh. Để học sinh tự giác làm điều này là một việc làm rất khó, mà nên để
học sinh tự làm sau khi giáo viên đã tạo được trong lòng học sinh sự yêu thích
ngôn từ nghệ thuật. Dựa vào tâm lý lứa tuổi, chúng tôi đã gieo luồng yêu

thích này qua việc cung cấp và phân tích một số tư liệu được giáo viên chọn
lọc kỹ càng trích trong các tác phẩm của các nhà văn.
* Ví dụ: Đoạn trích miêu tả cảnh trong vườn dưới nắng chiều sau đây:
“... Chiều buông, ánh mặt trời trở nên vàng sậm hơn. Ánh chiều vàng trải lên
cành lá, mái nhà một màu vàng ong mon đẹp lạ vườn cây nhà tôi cũng vậy.
Giàn bầu mậm xanh tươi, lá non màu xanh nhạt, lá già thì xanh thẫm. Ánh
8


nắng chiều chiếu xuống giàn bầu, bí, cái cốt lá xanh ngắt lọc qua một lượt hắt
một màu xanh ngọc bích xuống vườn. Nhãn, bưởi, mít và các loại cây khác
nữa tất cả đều xanh um tùm, nom như chiếc ô khổng lồ. Đó là màu xanh no
nắng, no gió và no thức nuôi cây. Vườn cây lao xao, gió thoảng đâu đây mùi
hương quả chín , hương hoa ngọt lịm...”
- Sau mỗi một vài đoạn văn như thế giáo viên phân tích những hình ảnh
ngôn từ nghệ thuật sáng giá sao cho tạo được hứng khởi ở học sinh, kích thích
các em thích tìm, viết những lời văn hay. Có lẽ rèn kỹ năng diễn đạt là một
phương pháp đòi hỏi kỳ công nhất của người giáo viên, nó cần phải mất một
quá trình có nhiều bước.
- Sau khi tạo hướng thú cho học sinh qua cách tiếp xúc với các tư liệu chọn
lọc, chúng tôi mới cho các em luyện tập diễn đạt bằng hình thức giáo viên
đưa ra một loạt hình ảnh, yêu cầu học sinh dùng lời văn kết hợp biện pháp
nghệ thuật so sánh, nhân hoá, sử dụng những từ láy gợi hình gợi âm để tập
diễn đạt.
* Ví dụ :
- Hình ảnh cánh đồng -> Cánh đồng rộng, dài xa tít, mơn mởn dang tay
ôm lấy xóm làng như người mẹ trìu mến ôm con, chắt chiu những khổ cực
của người nông dân.”
- Hình ảnh không gian đồng cỏ -> Dọc theo cánh đồng là đồi cỏ may cứng
nhọn trải bạt ngàn như một tấm thảm bạc phếch nắng mưa. Những bông cỏ

may rung rinh nhẹ nhàng trong gió chiều thu mát rượi như đang biểu diễn
một điệu múa mềm mại nhịp nhàng. Mấy chú chim sẻ tha thẩn trong vùng cỏ
may rộng tìm kiếm sâu bọ và đâu đây tiếng cuốc vọng vào thưa thớt rồi tắt
hẳn trong không gian đồng quê mùa thu.
- Tiếng chim ngoài bãi -> Ngoài đê, ven ruộng ngô cánh bãi xanh um một
màu lá mướt của ngô xen đỗ, xen cà. Lại có tiếng chim khác nó bay vút lên
cao thả vào không trung nghe mát lành. Nó khoan thai, dìu dặt như ngón tay
thon thả búng vào dây đàn thập lục, nẩy ra tiếng đồng, tiếng thép lúc đầu
9


vang to sau nhỏ dần nhỏ dần rồi tắt lịm.
- Giai đoạn luyện kỹ năng diễn đạt như thế này chúng tôi đặc biệt chú ý
đến phép so sánh trong các câu văn. Có thể coi so sánh hay để tạo những nốt
luyến cho những bản nhạc ngôn từ, những nét đậm của bức tranh ngôn ngữ.
Chúng tôi đã hướng cho học sinh luyện tập cách dùng nhiều từ so sánh khác
nhau sao cho thật đa dạng phong phú gợi cảm, tạo ấn tượng cho người đọc
Ví dụ :
-

Dòng sông quê em dưới đêm trăng mềm mại như một áng tóc trữ tình .
Không gian quê hương Y như một chiếc chuông lớn vô cùng treo suốt

mùa thu .
Những lá sen già khum khum chắng khác gì những chiếc thúng con
đựng đầy ắp nắng chiều thu .
Cây cối rì rào, lao xao gió nồm nam, lá cây lay động, lấp lánh tựa ngàn
triệu con mắt lá răm sáng trưng nắng hè.
Trăng về khuya cứ ngỡ là con thuyền đang trôi trên dòng sông Ngân.
Cách này chúng tôi cũng cho học sinh luyện trong nhiều tiết học để trở

thành thao tác thuần thục, nhuần nhuyễn, đồng thời cho học sinh kết hợp về
tìm đọc tư liệu sao cho có những lời văn miêu tả sống động gợi cảm nhất.
4. Rèn luyện kỹ năng dựng đoạn văn miêu tả cảnh.
- Dựng đoạn văn chính là cách sắp xếp các lời văn diễn đạt sao cho hợp lý,
logic, chặt chẽ, mạch lạc. Học sinh thường rất lúng túng không biết tả cảnh cụ
thể là tả cảnh gì ? Tả như thế nào ? theo trình tự từ đâu ? ... Chúng thường
làm vào kể lể, liệt kê cảnh một cách tràn lan, không trội lên được những đặc
trưng của cảnh và càng không tạo được ấn tượng cho người đọc về cảnh. Vậy
người giáo viên phải làm như thế nào để khắc phục khó khăn này ? Trước hết
tôi hướng cho học sinh hình dung mỗi một cảnh nhỏ sẽ viết thành một đoạn
văn trọn vẹn. Trong đoạn văn đó sẽ đi từ khái quát đến cụ thể. Bao giờ câu
đầu đoạn cũng là câu miêu tả khái quát cảnh đó.
10


Ví dụ khái quát cảnh dòng sông: “Dưới chân em là dòng sông hiền hoà
chảy như một tấm lụa trải dài xa tít.”
- Sau câu tả khái quát là một loạt câu miêu tả cụ thể theo trình tự từ gần
đến xa theo tầm mắt.
Ví dụ: “Mùa này nước sông lưng chừng nước, nước sông trong xanh in
bóng mây trời sâu thẳm. Mái chèo khuấy động, lăn rung rinh cả những cây
tóc tiên dưới đáy. Trên mặt sông điểm xuyến những lá trúc vàng bé tẻo teo
như những chiếc thuyền tí hon dập dềnh trên sóng nước bao la. Cá nước bơi
từng đàn đen trũi, nhô lên hụp xuống như những người bơi ếch. Những con
sóng lăn tăn như những con rắn vẩy vàng, vẩy bạc đang nô đùa. Sóng vỗ nhẹ
hai bên bờ lóc bóc nghe thật vui tai. Trời chiều, trên sông có những con
thuyền hối hả cập bến, chất đầy cau tươi xoài thơm từ các miền đất lạ mang
về. Tiếng người lao xao trong tiếng hạ buồm cót két bên bờ sông quê...”
- Trong quá trình miêu tả tả cụ thể, giáo viên lưu ý cho học sinh trình tự miêu
tả cho phù hợp với vị trí quan sát kết hợp lời văn so sánh, lời văn nhận xét,

đánh giá và sự liên tưởng tưởng tượng phong phú, ý câu trước với câu sau
logic với nhau tạo độ kết về mặt nghĩa, những câu đoạn cuối thường là những
câu có ý nghĩa sâu sắc , làm đậm nét cho bức tranh thiên nhiên nên giáo viên
hướng cho học sinh biết dành những lời văn trội hơn vào cuối đoạn.
Cứ theo cách hướng dẫn như trên giáo viên cho học sinh luyện viết thành
nhiều đoạn cho nhiều cảnh .
5. Luyện lời văn chuyển cảnh, liên kết đoạn trong văn tả cảnh:
Lời văn chuyển cảnh không nhiều nhưng có tác dụng rất lớn trong việc
liên kết, liên hoàn mạch văn, nó đánh giá trình độ khéo léo của cây bút miêu
tả cảnh. Giáo viên có thể “mách nhỏ” cho các em học sinh những thủ thuật
chuyển cảnh sau đây:
- Các cảnh nhỏ được nối tiếp nhau một cách tự nhiên theo mô típ liên
cảnh ( cảnh kề gần nhau theo tầm quan sát )
VD: chỉ một lát con đường đã dẫn ra tới đầu xóm. Xóm nhà... cánh
11


đồng...
- Chuyển cảnh nhờ những hình ảnh trung gian.
VD : “ Bờ đê cao to vạm vỡ. Chân đê cỏ mọc thành thảm xanh tốt. Trâu
bò thung thăng gặm cỏ, vểnh đôi tai nghe tiếng sáo trở về. Âm thanh ấy lúc
trầm lúc bổng, hoà nhịp với tiếng chim hoạ mi lảnh lót rắc đều xuống mặt
sông. Con sông quê tôi nằm uốn khúc giữa làng rồi chạy dài bất tận”
- Hướng chuyển cảnh theo gam màu.
VD : “Sáng nay ra trông thấy màu trời có vàng hơn thường khi. Màu lúa
chín dưới đồng vàng suộm lại. Nắng nhạt ngả màu vàng hoe. Trong vườn lắc
lư những quả xoan vàng lịm. Từng chiếc lá mít vàng ối. Buồng chuối đốm
quả chín vàng. Bụi mía vàng xọng, đốt ngầu phấn trắng ...
- Chuyển cảnh bằng cách nối âm thanh với không gian.
VD : Nối âm thanh của sự vật bên bờ sông với không gian vắng của

bến sông ( lấy động làm nổi tĩnh ): “Sóng vỗ nhẹ hai bên bờ lóc bóc nghe thật
vui tai. Trên sông giờ đây có những con thuyền hối hả cập bến, chất đầy cau
tươi, xoài thơm từ các miền đất lạ mang về. Tiếng người lao xao trong tiếng
hạ buồm cót két bên bờ sông quê. Chiều dần buông, bến sông trở về vắng
lặng. Những con đò nằm im đợi khách qua sông”
- Chuyển cảnh bằng cách liên tưởng theo sự quan sát qua các giác quan
khác nhau : Thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác và bằng cả cảm giác nữa.
VD: “Vườn cây lao xao, gió thoảng đâu đây mùi hương quả chín,
hương hoa thơm ngọt lịm. Tiếng chim líu lo như đem hương thơm ấy bay cao,
cao mãi. Tu hú kêu trong nắng chiều cho rặng vải ven sông chín đỏ, cho cái
chua bay đi, miền ngọt còn lạ. Hẹn một bến sông quê từng thuyền trái ngọt ra
vào. Sông quê tôi”
Phương pháp này giáo viên cho học sinh tập viết kết hợp với học tập tư
liệu để có nhiều cách chuyển cuốn hút người đọc .
6. Giáo viên hướng cho học sinh luyện cách mở bài và kết bài miêu tả.
Giáo viên đưa ra một số cách mở để học sinh luyện theo:
12


- Cách mở bài hay thường là gián tiếp: Có thể giới thiệu cảnh bằng lời
mời gọi du khách để giới thiệu cảnh và bộc lộ cảm xúc của người viết một
cách khái quát. Có thể dẫn dắt từ lời thơ, bài hát về cảnh sẽ tả để giới thiệu
cảnh. Hoặc có thể bộc lộ cảm xúc hồi tưởng về cảnh để mà giới thiệu...
- Dù là cách mở bài nào giáo viên cũng lưu ý cho học sinh đủ ý cần
nêu trong mở bài.
- Kết bài không những đủ ý chốt của bài viết mà nên tạo độ lắng cho
nốt trầm xao xuyến vang vọng trong tâm hồn người đọc điều này phụ thuộc
vào trình độ diễn đạt của học sinh , nên giáo viên hướng các em trau dồi tư
liệu văn học.
* Ví dụ : Một kết bài : “Chiều thu- quê hương ơi! Hồn tôi như hoá thành

tiếng sáo trúc nâng trên môi chú bé mục đồng và hình như thu đang dạo lên
khúc nhạc đồng quê; những tiếng lao xao rất nhẹ, rất êm. Chiều nay quả là
một buổi chiều sâu lắng dìu dịu, nó sẽ in đậm mãi trong ký ức tuổi thơ tôi.”
7. Giáo án minh hoạ:
TIẾT 88:

PHƯƠNG PHÁP TẢ CẢNH

I. Mục tiêu.
1. Kiến thức:
- Nắm được cách tả cảnh và bố cục hình thức của một bài văn, đoạn văn tả
cảnh.
- Yêu cầu của bài văn tả cảnh.
2. Kỹ năng:
- Quan sát cảnh vật
- Trình bày những điều đó quan sát về cảnh vật theo một trình tự hợp lí.
3. Thái độ:
- Có ý thức quan sát.
- Biết viết đoạn văn, bài văn tả cảnh.
II. Chuẩn bị.
13


Sgk, sgv , đề bài viết văn về nhà.
III. Hoạt động dạy và học.
1. Tổ chức lớp: Kiểm tra sĩ số
2. Kiểm tra bài cũ: Kết hợp trong bài
3. Bài mới:
Để làm một bài văn miêu tả phong cảnh tốt chúng ta cần có phương
pháp làm bài phù hợp. Bài học ngày hôm nay chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu

vấn đề này.

Hoạt động của thầy và trò
Nội dung kiến thức
HOẠT ĐỘNG 1: Tìm hiểu kiếnI. Phương pháp viết văn tả cảnh
thức
- Gọi Hs đọc lần lượt 3 văn bản. 1. Ví dụ.
2. Nhận xét.
- G: Tổ chức học sinh làm 3 a. Đoạn văn 1:Tả người- hình ảnh dượng
nhóm thảo luận mỗi nhóm tìmHương Thư trong một chặng vượt thác làm
hiểu một văn bản: Tìm hiểu, nhậngợi lên hình ảnh thác nước hung dữ đầy
xét các đối tượng, hình ảnh đượchiểm trở.
miêu tả, phương pháp miêu tả, - Phương pháp tả: Gián tiếp- dùng hình
trình tự , bố cục ở mỗi văn bản. ảnh con người để người đọc hình dung ra
- Đại diện các nhóm trình bày .cảnh vật.
Hs nhận xét, bổ sung.

- Bố cục: Một đoạn văn.

- Gv nhận xét, đánh giá và kết b. Đoạn văn 2: Tả cảnh dòng sông và
luận.

rừng đước Năm Căn.
- Phương pháp tả: Từ gần đến xa.

- G: ? Muốn tả cảnh ta cần phải - Bố cục: Một đoạn văn.
làm gì ?

c. Đoạn văn 3: Tả cảnh luỹ làng.
- Phương pháp tả: Từ khái quát đến cụ

thể, từ ngoài vào trong.

14


- Bố cục: 3 phần.
? Bố cục bài tả cảnh gồm mấy+.Mở bài: Giới thiệu khái quát về luỹ tre
phần? Nêu nội dung mỗi phần ? làng.
-H: TL

+.Thân bài:Miêu tả ba vòng tre của làng.
+. Kết bài: Phát biểu cảm nghĩ và nêu nhận
xét về loài tre.
*. Ghi nhớ - sgk.

HOẠT ĐỘNG 2: Thực hành

II. Luyện tập phương pháp viết văn tả
cảnh và bố cục bài tả cảnh.
Bài 1: Nếu phải tả quang cảnh lớp học

-HS: Đọc – xác định yêu cầu

trong giờ viết bài TLV thì em sẽ miêu tả
như thế nào

-HS: Hoat động nhóm nhỏ- trìnha. Từ ngoài vào trong (Trình tự không
bày

gian)

b. Từ lúc trống vào lớp đến khi hết giờ.

- GV: Nhận xét - cho điểm

c. Kết hợp cả hai trình tự trên
- Những hình ảnh cụ thể tiêu biểu.
- Cảnh HS nhận đề, một vài gương mặt
tiêu biểu
- Cảnh HS chăm chú làm bài, GV quan sát
HS làm bài.
- Cảnh bên ngoài lớp học: Sân trường, gió,
cây...

- GV cho HS viết phần mở bài và Bài 2: Tả cảnh sân trường lúc ra chơi:
kết bài

a. Cảnh tả theo trình tự thời gian

- HS viết đoạn

- Trống hết tiết 2, báo giờ ra chơi đã đến

- HS đọc

- HS từ các lớp ùa ra sân trường

- GV: Nhận xét - cho điểm

- Cảnh HS chơi đùa
- Các trò chơi quen thuộc


15


- Trống vào lớp, HS về lớp
- cảm xúc của người viết
b. Cách tả theo trình tự không gian:
- Các trò chơi giữa sân trường, các góc sân
- Một trò chơi đặc sắc, mới lạ, sôi động.
- Gọi HS đọc
- Gọi HS đọc đề bài
- HS làm việc theo nhóm trong 3
phút
- 4 nhóm trình bày dàn ý

Bài 3: dàn ý chi tiết bài Biển đẹp
a. Mở bài: Biển thật đẹp
b. Thân bài:
- Cảnh biển đẹp trong mọi thời điểm khác
nhau
- Buổi sớm nắng sáng
- Buổi chiều gió mùa đông bắc
- Ngày mưa rào
- Buổi sớm nắng mờ

Tóm lại: Người viết không tả
theo trình tự thời gian, cũng
không tả theo không gian mà
theo mạch cảm xúc và hướng
theo con mắt của mình.


- Buổi chiều lạnh
- Buổi chiều nắng tàn, mát dịu
- Buổi trưa xế
- Biển, trời đổ màu
c. Kết bài: nhận xét vì sao biển đẹp

- GV hướng dẫn HS viết bài TLV
số 5 ở nhà
4. Củng cố.
? Bố cục bài văn tả cảnh?
? Các kĩ năng cần thiết trong văn tả cảnh ?
Gv nhấn mạnh nội dung bài học để hướng dẫn các em làm bài viết tại nhà.
5. Hướng dẫn học bài.
- Nắm được nội dung bài.
- Viết bài số 5- giờ sau nộp.
16


II. Kết quả nghiên cứu.
Quá trình thực hiện kinh nghiệm của tôi qua nhiều năm giảng dạy, tôi nhận
thấy rằng với “6 kỹ năng cơ bản” như vừa nêu ở trên đã mang lại hiệu quả
đáng kể, chí ít là đã phá bỏ được mặc cảm của học sinh với môn văn trừu
tượng là môn ngại viết, ngại nghĩ. Đã có một số em sáng tạo được những tác
phẩm “bé con” giá trị của mình thể hiện trong các bài viết định ḱì.
Sau đây là một vài con số thống kê cụ thể ở 2 lớp tôi thực dạy năm học
2016-2017:
Lớp

6B,C


Sĩ số Điểm
Giỏi

68

10)
SL
10

(9-Khá
8)
Tỉ lệ SL
14,7 % 20

(7-Trung bình (5-Yếu và Kém
6)
Tỉ lệ SL
29,4 % 25

(0-4)
Tỉ lệ SL
Tỉ lệ
36,7 % 13
19,2 %

PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ.
1. Đề xuất, khuyến nghị:
a) Đề xuất
Từ những kinh nghiệm trên của tôi, tôi xin mạnh dạn đưa ra một vài đề xuất

sau :
- Khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này về phía giáo viên phải thực sự
kiên trì , mẫu mực trong cách dùng từ, kiên trì trong việc kiểm tra, đánh giá,
sửa chỉnh các phần viết luyện kỹ năng của các em. Mặt khác giáo viên cũng
phải kiên trì sưu tầm , chọn lọc tư liệu giá trị để cung cấp cho các em đồng
thời tìm cách hướng các em cách vận dụng sáng tạo những tư liệu để biến
thành cách diễn đạt riêng của bản thân mỗi học sinh.
- Về phía học sinh phải nhiệt tình, tự giác trau dồi vốn từ, ngôn từ nghệ
thuật bằng cả trái tim. Phải quan sát tinh tế những cảnh vật thiên nhiên
thường nhật, phải tưởng tượng phong phú và cần phải nhập tâm vào cảnh vật
để có được những cảm xúc chân thực với cảnh vật thiên nhiên khi miêu tả .
b) Khuyến nghị
17


Để bồi dưỡng tình yêu văn cho học sinh nói chung, làm giàu vốn ngôn
ngữ miêu tả cho các em học sinh khối 6 nói riêng chúng tôi còn có những
mong muốn:
- Trước hết giáo viên Ngữ văn trong cùng khối phải sưu tầm tư liệu
miêu tả thành những cuốn tư liệu quí để lưu giữ trong tủ sách nhà trường.
Nhà trường cũng cung cấp thêm những tài liệu về văn miêu tả cho học sinh
THCS để làm giàu cho tủ sách. Học sinh cũng tự giác sưu tầm những đoạn
văn, bài văn miêu tả có giá trị, phô to 2 bản, giữ 1 bản để học, 1 bản nộp tủ
sách nhà trường.
- Sau đó nhà trường thường xuyên tổ chức các hoạt động cho HS tb́ìm
đọc tư liệu từ tủ sách nhà trường (điều kiện có thể)
2. Kết luận:
Niềm vui của mỗi giáo viên Ngữ văn đứng lớp đâu chỉ là chất lượng
tính bằng con số của mỗi năm, mà chính là những ánh mắt long lanh vì đã
hiểu bài, những bàn tay tự viết ra được những lời văn óng ánh, những nụ cười

thiện cảm với môn văn từ phía học sinh. Để đạt được những điều vô cùng quí
giá đó, người giáo viên đâu chỉ có say mê nhiệt tình với công tác giảng dạy
mà còn phải tìm tòi hướng đi hiệu quả nhất .
Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ bé của riêng tôi. Rất mong sự
đóng góp chỉ bảo của lãnh đạo chuyên môn và các thầy cô đồng nghiệp để
sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn trong
những năm dạy sau.
PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1/ Sách giáo khoa Ngữ văn 6.
2/ Thiết kế bài giảng Ngữ văn 6 của Bộ giáo dục.
3/ Sách giáo viên Ngữ văn 6 của Bộ giáo dục.
4/ Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở Trung học cơ sở.
5/ Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Văn.

18


19



×