Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tiểu luận triết học mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.66 KB, 13 trang )

MỤC LỤC

Đề tài: Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong quá
trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam.

A) ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới (được tính từ mốc năm 1986) đến nay, Đảng ta luôn chủ trương:
''Đổi mới mạnh mẽ về kinh tế và giữ vững sự ổn định về chính trị''. Nhìn lại công cuộc đổi mới, chúng
ta đã giành được rất nhiều thành tựu về kinh tế - xã hội đưa đất nước tiến những bước vững chắc và
hết sức ngoạn mục. Trong suốt hơn 30 năm đó, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
ngày càng được xác định như là mối quan hệ cơ bản và quan trọng hàng đầu trong quá trình đổi mới
đất nước, là nội dung quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước. Hơn thế nữa, nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ này còn là khâu đột phá trong lý
luận của Đảng về công cuộc đổi mới tiến lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.


Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, người viết đề tài với tham vọng làm rõ và cụ thể hóa các
nhiệm vụ cần làm trong quá trình giải quyết mối quan hệ chính trị và mối quan hệ kinh tế. Từ đó, kiến
nghị một số giải pháp để đẩy nhanh quá trình đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta.
Xác định được nhiệm vụ trên, nhiệm vụ của đề tài là tổng kết và nhìn nhận lại quá trình giải quyết mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị từ 1986 đến nay trên cơ sở đó kế thừa các thành tựu
đã đạt được về mặt lý luận để tiếp tục vận dụng Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để
tiếp tục giải quyết mối quan hệ nói trên và kiến nghị những giải pháp cụ thể.
Trong khuôn khổ của đề tài tiểu luận, đề tài sẽ trình bày các khái niệm về đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị từ đó hướng tới việc giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương
pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử kết hợp với các phương pháp khác như phân tích,
tổng hợp, thống kê….

B) GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ


1. Khái niệm đổi mới Kinh tế và đổi mới chính trị:
1.1 Đổi mới kinh tế:

qua các văn kiện của Đảng được hiểu là quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ
chế tập trung, bao cấp chủ yếu dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể sang
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam theo định
hướng XHCN. Đó là bước chuyển từ nền kinh tế cơ bản là “khép kín” sang nền
kinh tế “mở” đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát
triển văn hóa, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái và từng
bước đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1.2 Đổi mới chính trị

” qua các văn kiện của Đảng được hiểu là đổi mới tư duy chính trị về CNXH;
đổi mới cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi mới, nâng cao hiệu quả quản lý
của Nhà nước XHCN nhằm giữ vững ổn đinh chính trị để xây dựng chế độ


XHCN ngày càng vững mạnh; thực hiện tốt nền dân chủ XHCN nhằm phát huy
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN và phát triển kinh tế-xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam.

2 . Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam
2.1 Nhìn nhận việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị từ Đổi mới đến Đại hội XII của Đảng:

Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một nội

dung cốt lõi quan trọng trong các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta
từ khi đổi mới đến nay. Sự nhận thức và giải quyết đúng đắn vấn đề này của
Đảng cũng là khâu đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới
của Đảng.
Thời kỳ trước đổi mới, về nhận thức, chúng ta đã nhấn mạnh quá mức vai trò
kiến trúc thượng tầng, coi chính trị là thống soái, quyết định kinh tế và tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội; chưa đánh giá đúng vai trò của kinh tế trong quan
hệ với chính trị. Về cơ chế, chúng ta cũng nhận thức một cách đơn giản về tác
động của kiến trúc thượng tầng chính trị đối với cơ sở kinh tế. Chính trị can
thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế - xã hội bằng hệ thống những mệnh lệnh
chủ quan của các cơ quan quản lý các cấp. Và thiết chế, bộ máy hành chính còn
quan liêu, cửa quyền, cồng kềnh, kém hiệu quả.
Từ khi đổi mới đến nay, về quan điểm Đảng ta chủ trương “Kết hợp ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng
thời từng bước đổi mới chính trị” 1. Đây là nhận thức đúng cả về mặt lý luận cả
về mặt thực tiễn.
Đứng trước những khó khăn của thời kỳ mới nhưng Đảng ta vẫn thể hiện bản
lĩnh chính trị vững vàng, sáng tạo để thay đổi tư duy, vận dụng linh hoạt chủ
nghĩa Mác – Lênin được thể hiện trong Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung


ương khoá VI (3-1989) quyết định các nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo toàn bộ quá
trình đổi mới theo đúng định hướng XHCN: “Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục
những quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời
đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo vào phát triển chứ không phải xa rời
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Từ việc xác định được tư duy đó, Đảng ta tiếp tục khẳng định và giải quyết mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị tại Hội nghị lần 6 Ban Chấp
hành Trung ương khoá VI như sau: “Chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh
tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ

chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã
khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ
thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây
thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới” 2
Tiếp tục xây dựng và phát triển học thuyết và lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê
nin, Đảng ta thể hiện sự kiên định và trung thành với chủ nghĩa Mác – Lê nin
trong thời kỳ mới tại hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (8l989) trong bối cảnh quốc tế vô cùng phức tạp khi đó: "Chế độ chính trị của
chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng...
Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ
chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không coi việc thực hiện
chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh
tế”
Bên cạnh đó, trong tiến trình đổi mới Đảng ta cũng đồng thời khẳng định rằng
ổn định chính trị không có nghĩa là bảo thủ, trì trệ, ngược lại nó có vai trò quan
trọng đảm bảo điều kiện cho các lĩnh vực khác mà đặc biệt là lĩnh vực kinh tế
phát triển, làm cho quá trình đổi mới trở nên toàn diện và bền vững hơn. Nhờ
vậy, ổn định chính trị cũng đồng thời góp phần tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong quá trình đổi mới đất nước.


Chủ trương giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
được tiếp tục nhấn mạnh trong văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ
VII: “Phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách
của nhân dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến
hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế,
phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị, phát huy ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân
trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” 4. Kinh nghiệm thành công

của sự kết hợp đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của Đảng đúc rút và khẳng định: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ
đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới chính trị”5.
Đại hội XI của Đảng giải quyết sâu sắc và triệt để hơn mối quan hệ về đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh
tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hộ-i chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn
với tăng cường kỷ luật, kỷ cương..” 7. Như vậy,về đổi mới kinh tế, Đại hội XI
của Đảng tập trung vào đổi mới để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường XHCN.
Về đổi mới chính trị, Đại hội XI của Đảng tập trung 3 yếu tố cơ bản, trọng yếu là
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ
luật, kỷ cương. Đây là ba lĩnh vực cơ bản, trọng yếu mang tính đột phá trong đổi
mới chính trị. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và
hàng đầu.
Điều quan trọng là Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh phải lấy mục tiêu xây dựng
nước Việt Nam XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
“làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát


triển”8 nói chung, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta nói riêng. Tiêu
chí này chỉ rõ mục đích của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị của Đảng ta.
Đến Đại hội XII của Đảng, bên cạnh việc nhìn nhận công cuộc đổi mới đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử thì Đảng ta cũng thẳng thắn thừa
nhận còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, yếu kém cần phải tập trung
giải quyết, khắc phục để tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn.
Mà trọng tâm là đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu
kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong

mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đạt được. Nhiều
hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y tế chậm được khắc phục.
Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng
xa còn nhiều khó khăn. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính
trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Một
số mặt công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị
chuyển biến chậm.
Đại hội XII cũng xác định các nhiệm vụ trọng tâm mà trong đó
đổi mới chính trị sau thời gian dài Đảng ta tập trung đổi mới
kinh tế nay đã trởn nên không còn phù hợp với tốc độ đổi mới
kinh tế, thậm chí trong một vài khía cạnh đã xuất hiện lực cản
đối với đổi mới kinh tế. Tại Đại hội Đảng ta xác định việc tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và tinh gọn bộ máy, hệ thống
chính trị là vấn đề tiên quyết ưu tiên hàng đầu của đổi mới
chính trị. Bên cạnh đó vấn đề đổi mới kinh tế vẫn phải được tiến
hành đồng bộ theo phương hướng chuyển từ đổi mới kinh tế
chiều rộng sang đổi mới kinh tế theo hướng phát triển chiều
sau.


2.2 Giải quyết mối quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị trong giai đoạn hiện nay và các giải pháp cụ thể
hướng tới Đại hội Đảng lần thứ XIII:

Nhìn lại quá trình giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị trong tiến trình đổi mới có thể đúc rút ra một
số vấn đề về lý luận như sau:

Việc giải quyết cặp phạm trù này trước hết xuất phát từ vấn đề đổi mới tư duy để
đáp ứng với những tình hình mới trong thực tiễn. Nhìn chung, cần phải kết hợp
ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị và tùy từng giai đoạn cụ thể
mà cụ thể hóa nhiệm vụ cần làm của từng phạm trù trên cơ sở thực tiễn. Đổi mới
kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị tuy nhiên tùy vào
tình hình, bối cảnh cụ thể mà có thể ưu tiên nguồn lực cho đổi mới chính trị hay
đổi mới tư duy với mục tiêu xây dựng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh là đích đến, thước đo và là tiêu chuẩn cuối cùng của công cuộc đổi
mới.
Để tiếp tục tiến nhanh và tiến mạnh hơn nữa trên con đường đi lên xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta cần tiếp tục giải quyết tốt mối quan hệ đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị. Trong bối cảnh hiện nay, trước hết vấn đề này
cần đòi hỏi những đột phá mới về tư duy và lý luận tầm cỡ.
Trong lịch sử chúng ta cũng đã có những lần đột phát tư duy
như “Khoán kinh tế”, “Đảng viên làm kinh tế”... để từ đó dẫn tới
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có những bước phát triển
ngoạn mục. Chính vì vậy, theo quan điểm của người viết, để giải
quyết tiếp tục cặp phạm trù đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị,
vấn đề trước nhất phải xuất phát từ đổi mới về lý luận. Cần
phải hoàn thiện hệ thống lý luận về đổi mới kinh tế thông qua
con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi
mới chính trị cần tiếp tục được đặt lên hàng đầu mà cụ thể là
đẩy nhanh và mạnh quá trình đổi mới cả về lý luận và thực tiễn.
Trọng tâm chính của quá trình đổi mới chính trị hiện nay xoay


quanh ba nhiệm vụ lớn: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa; Tăng cường dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn
với kỷ cương, kỷ luật ;Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng. Trong đó vấn đề Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa là trọng tâm trong hoạt động đổi mới hiện nay. Hệ
thống lý luận hiện nay về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đã được xây dựng tương đối cơ bản góp phần
tác động đến sự phát triển tích cực mọi mặt của đời sống kinh
tế xã hội nước ta, phục vụ kịp thời yêu cầu về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển vững chắc nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phục vụ có hiệu
quả công cuộc đổi mới của đất nước. Tuy nhiên, cùng với tốc độ
đổi mới kinh tế ngày càng diễn ra nhanh chóng là sự phát triển
của nền kinh tế thị trường và những khuyết tật cố hữu của nó
đã tác động tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Hệ thống lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội đã
thể hiện nhiều thiếu sót, chưa theo kịp với tốc độ đổi mới kinh
tế và đòi hỏi đổi mới chính trị, làm nhân dân mất niềm tin vào
sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của công cuộc đổi mới.
Chính vì vậy, theo quan điểm của người viết, hiện nay hệ thống
lý luận cần phải tập trung giải quyết những vấn đề sau:
Một là, cần xác định rõ đặc điểm“xã hội chủ nghĩa” của nhà
nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng một cách đầy đủ.
Đến nay đã có những ý kiến cho rằng, nếu chỉ dựa trên cơ sở
tính pháp chế và dân chủ thì bất cứ nhà nước pháp quyền nào
trên thế giới cũng như vậy. Còn như lập luận nhà nước pháp
quyền của chúng ta mang đặc trưng xã hội chủ nghĩa là ở cơ sở
kinh tế có tính định hướng xã hội chủ nghĩa thì vẫn chưa rõ và
có phần vội vàng, thiếu sức thuyết phục. Bởi vì, khi nền kinh tế -


tức là cơ sở hạ tầng mới chỉ mang tính định hướng xã hội chủ
nghĩa, thì nhà nước – tức kiến trúc thượng tầng (là cái bị quyết
định trong mối quan hệ với cơ sở hạ tầng – nền kinh tế) có thể

đã gọi là xã hội chủ nghĩa được chưa hay cũng chỉ dừng lại ở
mức định hướng xã hội chủ nghĩa? Bên cạnh đó, trong khi chính
tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh thị trường cũng
chưa được được làm rõ về mặt lý luận, thì có nên chăng lấy một
điều chưa rõ để lý giải cho một vấn đề chưa rõ khác? Đó là vấn
đề lý luận mà cần được đặt ra để lý giải một cách khoa học. Hơn
thế nữa, vì trong lịch sử chưa từng có một nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đích thực, cho nên trong lý luận về nhà nước
pháp quyền vẫn còn nhiều khoảng trống mà chúng ta sẽ cần
phải tìm tòi bổ sung để từ đó dần hoàn thiện và phát triển.
Hai là, chúng ta cần cụ thể hóa và chỉ rõ, minh định cơ chế phân
công, phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chúng ta
kiên định hệ thống chính trị Việt Nam do duy nhất Đảng Cộng
Sản Việt Nam lãnh đạo, nhưng cũng cần tiếp thu tinh hoa của
nhân loại để vận dụng nhuần nhuyễn phù hợp hoàn hoàn cảnh
các học thuyết chính trị để làm sáng tỏ “tính độc lập tương đối”
của mỗi quyền, sự chế ước lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực,
bảo đảm quyền lực không bị tha hóa và bị lạm dụng. Làm rõ
phạm vi và giới hạn của “tính độc lập tương đối. Vấn đề cụ thể
đặt ra là làm thế nào để tránh chồng chéo cũng như tránh lạm
quyền trong hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Ba là, làm sáng tỏ hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Vấn đề cần phải giải quyết là chỉ rõ được phạm vi tác động của
Đảng cầm quyền đối với các cơ quan quyền lực nhà nước, tránh
sự can thiệp tùy tiện của Đảng đối với hoạt động của các cơ


quan quyền lực nhà nước, tránh sự bao biện, ôm đồm, không
tôn trọng luật pháp, chỉ rõ sự tối cao của pháp luật trong mối

quan hệ với sự lãnh đạo của Đảng.
Bốn là, làm rõ các cơ chế đẻ bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát
của nhân dân, của Mặt trận tổ quốc, của các đoàn thể chính trị xã hội đối với hoạt động của Nhà nước. Sở dĩ vấn đề này đưa ra
xem xét là vì mọi quyền hành chỉ thực sự thuộc về nhân dân
khi nhân dân có một cơ chế phù hợp để có thể trực tiếp giám
sát các hoạt động của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, của hội
đồng nhân dân và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp, cũng
như giám sát mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước và công
chức nhà nước. Phải có cơ chế thích hợp để cử tri có thể bày tỏ
sự tín nhiệm hay bất tín nhiệm của mình đối với các đại biểu mà
mình bầu ra, tạo điều kiện để các đại biểu gắn bó hơn với cử tri,
đề cao ý thức trách nhiệm của người đại diện nhân dân.
Năm là, đổi mới tư duy pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật của nước ta. Mặc dầu trong gần 30 năm đổi mới
toàn diện của đất nước, chúng ta đã có nhiều đổi mới trong lĩnh
vực lập pháp, song hệ thống luật pháp của chúng ta cho đến
nay vẫn tỏ ra chưa theo kịp thực tiễn và còn nhiều bất cập. Do
vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yêu cầu
đổi mới tư duy pháp lý lại được đặt ra một cách cấp thiết hơn,
nhằm xây dựng hệ thống luật pháp của Việt Nam một cách
hoàn chỉnh và ổn định hơn, làm cơ sở cho Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đổi mới tư duy pháp lý cần hướng đến giải quyết những nhiệm
vụ như xác định mô hình luật pháp của nước ta; nghiên cứu,
tổng kết kinh nghiệm trong và ngoài nước trong lĩnh vực xây
dựng và thực thi các thể chế pháp lý, để tiếp thu có chọn lọc


các giá trị và kinh nghiệm trong lĩnh vực này; đổi mới công tác
kế hoạch lập pháp; thay đổi quan niệm về quy mô các đạo luật,

nên tập trung xây dựng và thông qua các đạo luật có quy mô
điều chỉnh hẹp. Một đạo luật với ít các điều khoản sẽ được
nhanh chóng xây dựng, đáp ứng kịp thời các nhu cầu điều chỉnh
pháp luật, dễ dàng tương thích với các không gian pháp lý quốc
tế. Tính hữu ích của một đạo luật ít điều khoản không chỉ được
thể hiện ở sự gọn nhẹ về nội dung, dễ xây dựng, mà còn thể
hiện ở việc dễ kiểm soát tính đồng bộ và thống nhất, dễ sửa đổi
khi có nhu cầu và dễ áp dụng trên thực tế.

C) KẾT LUẬN:
Mối quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là mối quan hệ biện chứng, có
tác động qua lại lẫn nhau trên cơ sở đổi mới kinh tế là trọng tâm. Tuy nhiên
trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh việc đổi mới kinh tế thì đổi mới chính trị lại
là ưu tiên hàng đầu. Đổi mới chính trị là cả một quá trình lâu dài, để đảm bảo
thắng lợi Đảng ta cần vận dụng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh cũng như tinh hoa của nhân loại, trên cơ sở xem xét thực tiễn để có những
bước đi cụ thể thích hợp cho giai đoạn tới.
Trong thời gian ngắn và trình độ có hạn, đề tài này sẽ không tránh khỏi những
sai lầm, khiêm khuyết. Người viết rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
tất cả mọi người để có cơ hội hoàn thiện đề tài thêm sâu sắc, phong phú.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI
2. Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI
3. Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII
4. Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII
5. Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XI
6. Nghị quyết đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII
7. Sách tham khảo “Triết học”, nhà xuất bản Nông nghiệp, 2018, T.S Lê Văn

Hùng – T.S Hà Thị Bắc (đồng chủ biên)




×