Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

SKKN : Một số phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.42 KB, 33 trang )

Một số phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở
trường THCS
MỤC LỤC

MỤC LỤC
Danh mục các từ đã viết tắt
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích, dối tượng nghiên cứu
3. Nội dung, ý nghĩa của việc nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1. Cơ sở lí luận
1.2. Cơ sở thực tiễn
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian nghiên cứu
2.1. Phương pháp nghiên cứu
2.2. Thời gian tiến hành
3. Mô tả phân tích cụ thể các giải pháp
3.1. Yêu cầu của một học sinh giỏi
3.2. Cách chọn học sinh giỏi
3.3. Yêu cầu một bài Lịch sử đạt hiệu quả
4. Xây dựng chương trình giảng dạy
5. Tiến hành bồi dưỡng
5.1. Cung cấp kiến thức
5.2. Rèn luyện kĩ năng
6. Khả năng áp dụng
III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận chung
2. Khuyến nghị


Phụ lục
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
2
3
3
4
4
4
4
5
5
5
6
7
7
7
7
7
8
9
10
10
10
11
15
18
18
18

19
25
1


DANH MỤC CÁC TỪ ĐÃ VIẾT TẮT

STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11

Các từ được
viết tắt
THCS
SGK
HSG
VN
BCHTW
CNXH
XHCN
TBCN

CNH-HĐH
ASEAN
EU

Nôi dung
Trung học cơ sở
Sách giáo khoa
Học sinh giỏi
Việt Nam
Ban chấp hành Trung ương
Chủ nghĩa xã hội
Xã hội chủ nghĩa
Tư bản chủ nghĩa
Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
Liên minh châu Âu

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI :
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI MÔN LỊCH SỬ Ở THCS
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tìm hiểu "chiến lược phát triển con người", Đảng và Nhà nước ta đã
chỉ rõ: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” đã được
cụ thể hoá trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt trong xu thế
hội nhập quốc tế, mục tiêu “Bồi dưỡng nhân tài” càng được Đảng và Nhà
nước quan tâm: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Đất nước muốn phồn
2



thịnh đòi hỏi phải có những nhân tố, có những người tài để giúp nước. Hiện
nay, chúng ta đang trong xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế, gia nhập WTO
thì nhân tài là một trong những yếu tố để chúng ta có thể tiếp cận với sự tiến
bộ của khoa học công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới đồng
thời giúp chúng ta thành công trong phát triển đất nước.
Thực hiện mục tiêu đó, ngành giáo dục của chúng ta đang cố gắng
hướng đến sự phát triển tối đa những năng lực tiềm tàng trong mỗi học sinh.
Ở các trường Trung học cơ sở hiện nay, đồng thời với nhiệm vụ phổ cập giáo
dục, nâng cao chất lượng đại trà, việc chăm lo bồi dưỡng học sinh giỏi đang
được nhiều cấp bộ chính quyền và nhân dân địa phương quan tâm nhưng
nguyên nhân sâu xa nhất đó chính là thực hiện mục tiêu giáo dục mà Đảng và
Nhà nước đã đề ra.
Thực tế hiện nay ở các trường Trung học cơ sở công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi, trong đó có việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử đã được chú
trọng, song vẫn còn những bất cập nhất định như: cách tuyển chọn, phương
pháp giảng dạy còn yếu kém, chưa tìm ra được hướng đi cụ thể cho công tác
này, phần lớn chỉ làm theo kinh nghiệm. Từ những bất cập trên dẫn đến hiệu
quả bồi dưỡng không đạt như mong muốn.
Mặt khác, do quan niệm sai lệch về vị trí, chức năng của môn lịch sử
trong đời sống xã hội. Không ít học sinh và phụ huynh có thái độ xem thường
bộ môn lịch sử, coi đó là môn học phụ, môn học thuộc lòng, không cần làm
bài tập, không cần đầu tư phí công vô ích. Dẫn đến hậu quả học sinh không
nắm đựơc những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn kiến thức lịch sử là
hiện tượng khá phổ biến trong thực tế.
Là một giáo viên giảng dạy môn Lịch sử ở trường THCS, học sinh của
trường phần lớn là con em nông dân, đời sống kinh tế còn khó khăn, học sinh
ít được tiếp cận với các vấn đề lịch sử, văn hóa chuyên sâu từ các kênh thông
tin.
Băn khoăn trước thực trạng đó, tôi luôn tìm tòi, nghiên cứu để nâng cao kiến

3


thức và phương pháp giảng dạy của bộ môn để gây hứng thú học tập môn lịch
sử cho học sinh, nhất là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi sao cho đạt hiệu
quả. Những năm gần đây trường luôn có học sinh đạt giải cao môn lịch sử cấp
huyện và cấp thành phố.
Xuất phát từ những lý do cơ bản trên, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Một
số phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường THCS”.
2. Mục đích, đối tượng nghiên cứu:
Nhằm nâng cao hiệu quả của công tác giảng dạy bộ môn Lịch sử ở Trường
Trung học cơ sở, đặc biệt là việc bồi dưỡng đội ngũ học sinh giỏi cho học
sinh lớp 9, để lấy đối tượng tham gia bồi dưỡng và dự thi học sinh giỏi cấp
thành phố hàng năm.
3. Nội dung, ý nghĩa của việc nghiên cứu:
Bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng giúp cho ngành
giáo dục phát hiện nhân tài, lựa chọn những hạt giống tốt cho tương lai của
đất nước trong sự nghiệp trồng người. Đồng thời giúp cho học sinh thực hiện
được ước mơ là con ngoan, trò giỏi và có định hướng đúng về nghề nghiệp
của mình trong tương lai.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được xác định là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm, góp phần khẳng định chất lượng giáo dục và vị thế, uy
tín của giáo viên và nhà trường. Đồng thời còn có ý nghĩa thiết thực trong
việc bồi dưỡng tài năng tương lai cho quê hương, đất nước.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài này là nhằm đưa ra một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Lịch sử (chọn đối tượng học sinh, phương pháp ôn luyện, kết quả đạt
được), để góp phần tạo nguồn quan trọng cho đội tuyển học sinh giỏi môn
Lịch sử của huyện dự thi cấp thành phố mỗi năm.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:

Đề tài được xây dựng từ việc tích lũy những kinh nghiệm trong quá
trình bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử trường ở Trung học cơ sở trên địa
4


bàn huyện thuộc thành phố TP.HCM.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1. Cơ sở lý luận:
Dân tộc Việt Nam có lịch sử từ lâu đời, với quá trình hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước. Nhân dân ta không chỉ có truyền thống dân tộc anh
hùng mà còn có kinh nghiệm phong phú, quý báu về việc giáo dục lịch sử cho
thế hệ trẻ, về việc rút bài học quá khứ cho cuộc đấu tranh và lao động trong
hiện tại. Kiến thức lịch sử góp phần xây dựng đường lối, chủ trương, chính
sách, trở thành vũ khí sắc bén trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Ngày
nay, “cùng với quá trình quốc tế hóa ngày càng mở rộng thì trở về nguồn
cũng là một trong những xu thế chung của các dân tộc trên thế giới. Với
chúng ta, đó chính là sự tìm tòi, phát hiện ngày càng sâu sắc hơn những
đặc điểm của xã hội Việt Nam, những phẩm chất cao quý, những giá trị
truyền thống và những bài học lịch sử giúp chúng ta lựa chọn và tiến hành
bước đi thích hợp, hướng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh”(theo nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười) .
Chất lượng bộ môn Lịch sử được đánh giá không phải bằng việc ghi
nhớ nhiều sự kiện mà cần hiểu đúng lịch sử. Như cố Thủ tướng Phạm Văn
Đồng đã từng viết: “Lịch sử đâu phải là một chuỗi sự kiện để người viết sử
ghi lại, rồi người giảng sử đọc lại, người học sử học thuộc lòng”. Điều
quan trọng là qua học tập, “chúng ta thấy được cái gì qua các thời đại lịch
sử và từ đó chúng ta rút ra được kết luận gì, bài học gì. C. Mác- một nhà
sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin đã vũ trang cho chúng ta một phương
pháp luận đúng đắn để nghiên cứu lịch sử, để rút ra những kết luận có ý

nghĩa quan trọng thiết thực”. Đây chính là cơ sở để những người quan tâm
đến sử học và những thầy cô giáo giảng dạy môn lịch sử cần nhận thức đúng,
sâu sắc, ý nghĩa, vị trí đúng của bộ môn Lịch sử ở trường Trung học cơ sở và
tìm ra những phương pháp để nâng cao chất lượng bộ môn, thu hút được
5


nhiều học sinh tham thích học lịch sử và học giỏi lịch sử. Vậy Mục tiêu của
bộ môn lịch sử ở trường Trung học cơ sở:
*Về kiến thức:
- Cung cấp kiến thức lịch sử ở chương trình Trung học cơ sở học sinh
được tìm hiểu sâu những sự kiện cơ bản trong quá trình phát triển của lịch sử
thế giới và lịch sử dân tộc…
- Tiếp tục bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn Lịch sử về kiến thức và kĩ
năng, tạo hứng thú say mê học tập, tìm hiểu Lịch sử cho học sinh.
* Về tư tưởng:
- Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, có ý thức xây dựng và bảo vệ
quê hương, đất nước, tự hào về những thành tựu văn hóa, văn minh mà tổ tiên
ta và loài người đã đạt được
- Trân trọng, ghi nhớ, biết ơn công lao của tổ tiên và các anh hùng dân
tộc đã ra sức xây dựng và bảo vệ đất nước để có được cuộc sống hiện nay.
* Về kĩ năng:
- Hình thành kĩ năng tư duy lịch sử và tư duy logic, nâng cao năng lực
xem xét, đánh giá sự kiện, hiện tượng trong mối quan hệ không gian, thời
gian và nhân vật lịch sử.
- Rèn luyện kĩ năng học tập bộ môn một cách độc lập, thông minh như
làm việc sách giáo khoa, sưu tầm và sử dụng các loại tư liệu lịch sử, làm bài
tập, thực hành...
- Phát triển khả năng phân tích, đánh giá, so sánh, khái quát, tổng
hợp ...

- Vận dụng các kiến thức vào thực tiễn của cuộc sống.
- Biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề trong quá trình học tập và cuộc
sống hàng ngày.
1.2. Cơ sở thực tiễn
*Thuận lợi:
- Trong hệ thống các môn học ở trường Trung học cơ sở, trong đó có
6


môn lịch sử cũng có vai trò quan trọng trong việc giáo dục, giáo dưỡng học
sinh lòng yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc… là hành trang quan
trọng cho học sinh tiếp tục ở những bậc học tiếp theo.
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu và các đoàn thể trong nhà
trường và sự quan tâm của đa số các bậc phụ huynh và học sinh.
- Thầy, cô giáo cùng bộ môn ở các trường trong huyện đều nhiệt tình
tích cực, trao đổi phương pháp, kinh nghiệm chuyên môn, thông qua hội thảo,
chuyên đề, thao giảng, sử dụng công nghệ thông tin…góp phần nâng cao chất
lượng dạy và học môn Lịch sử.
- Được một số học sinh yêu thích và quyết tâm học tập môn lịch sử,
tham gia ôn tập dự thi học sinh giỏi cấp huyện.
* Khó khăn:
- Quan niệm xã hội về vị trí môn Lịch sử là môn phụ.
- Quan niệm chưa đầy đủ của một số nhà quản lý giáo dục, phụ huynh
học sinh và cả giáo viên.
- Học sinh chưa dành thời gian thường xuyên cho việc học môn tập bộ
môn Lịch sử.
- Khối lượng kiến thức môn Lịch sử ở một số bài còn dàn trải khá nặng,
một số giáo viên còn bị động trong khai thác kiến thức, chưa mạnh dạn để
học sinh tự tìm hiểu một phần kiến thức nào đó trong bài dưới sự hướng dẫn
của giáo viên.

- Thông thường học sinh ít chịu đọc sách giáo khoa và câu hỏi ở sách
giáo khoa trước, để có chủ động tìm hiểu trước và tiếp thu bài mới, dẫn đến
tính hợp tác của học sinh không cao. Kỹ năng thảo luận nhóm ở học sinh
chưa cao - nhất là tính hợp tác.
- Thực trạng dạy học môn Lịch sử ở trường Trung học cơ sở hiện nay
như trên, nên giáo viên khó phát hiện và lựa chọn được đối tượng học sinh có
năng khiếu để bồi dưỡng. Hơn nữa dạy môn Lịch sử hiện nay ở trường phổ
thông thiếu nhiều trang thiết bị như: tranh ảnh, bản đồ… Mặt khác, việc dạy
7


môn Lịch sử đôi khi bị giới hạn về thời gian tiết học/đơn vị bài nên khi chú
trọng dạy cho học sinh hứng thú thì lại không hết chương trình so với quy
định.
- Để học sinh yêu thích môn Lịch sử, hứng thú học Lịch sử và tham
gia học lớp bồi dưỡng học sinh giỏi đi thi đạt hiệu quả, tôi không ngừng học
hỏi, tìm tòi, nghiên cứu tư liệu, phát huy tác dụng của đồ dùng học tập,…
* Đánh giá cơ sở thực tiễn:
Căn cứ vào chất lượng bộ môn và kết quả học sinh giỏi môn Lịch sử
cấp huyện hàng năm, tôi nhận thấy:
- Phần lớn giáo viên đã nhận thức được tầm quan trọng của công tác
dạy bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử.
- Song vẫn còn một số giáo viên dạy lịch sử chưa thực sự tâm huyết,
chưa thực sự đầu tư cho công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, nên khi được phân
công bồi dưỡng không đạt hiệu quả hoặc hiệu quả không cao.
- Học sinh rất hứng thú học môn Lịch sử khi giáo viên có sự đầu tư vào
bài giảng và biết phát huy tính tích cực của học sinh.
Vì vậy, việc nghiên cứu và những đề xuất của đề tài là hiệu quả, thiết
thực, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của ngành, của đồng nghiệp tâm huyết
với bộ môn lịch sử.

2. Các phương pháp tiến hành, thời gian nghiên cứu.
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Tôi tiến hành nghiên cứu các sách giáo trình lịch sử và những tư liệu có
liên quan phục vụ cho việc giảng dạy môn Lịch sử để biên soạn giáo án bồi
dưỡng cho học sinh giỏi.
Qua các kênh thông tin, qua chương trình dạy học, qua chương trình
tập huấn thay sách, chương trình bồi dưỡng thương xuyên, qua cách ra đề thi
học sinh giỏi những năm gần đây…, tôi nhận thấy sự chuyển biến rõ nét trong
cấu tạo đề kiểm tra, đề thi đại học, cao đẳng – đặc biệt là đề thi học sinh giỏi.
2.2. Thời gian tiến hành
8


Qua 10 năm học (2006-2007 đến năm học 2015-2016) đảm nhận việc
dạy bồi dưỡng cho đội tuyển học sinh giỏi môn lịch sử của ở Trung học cơ sở,
tôi đúc kết được những kinh nghiệm ôn luyện học sinh giỏi môn Lịch sử, tôi
đã rút ra được cần phải (chọn sát đối tượng học sinh, phương pháp ôn luyện
…).
3. Mô tả, phân tích cụ thể các giải pháp:
MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI:
- Làm rõ lý luận và thực trạng trong công tác dạy - học và bồi dưỡng
học sinh giỏi môn Lịch sử ở trường Trung học cơ sở.
- Đề xuất một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử ở
trường Trung học cơ sở .
MÔ TẢ GIẢI PHÁP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Yêu cầu chung:
3.1 Yêu cầu một học sinh giỏi
- Nhiều người thường nghĩ Lịch sử là môn học thuộc lòng nhưng thật ra
muốn học giỏi thì phải đọc và hiểu sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử theo kiểu
“mưa dầm thấm lâu”. Nhưng quan trọng nhất, người học giỏi lịch sử phải

biết hệ thống hóa các nội dung Lịch sử bằng những sơ đồ nhánh, biểu đồ
thống kê tư duy theo từng sự kiện, mốc thời gian, ghi nhớ có sự liên kết. Từ
đó, ta mới có thể dễ dàng ghi nhớ nội dung và dữ liệu của môn học. Bởi môn
lịch sử là một môn khoa học biện chứng.
- Là học sinh giỏi Lịch sử không phải chỉ cần tính siêng học bài mà là
phải có khả năng lập luận, thông minh, trí nhớ tốt. Đặc biệt là phải có niềm
đam mê, yêu thích Sử học.
- Học sinh giỏi Lịch sử không những phải hoàn thành các bài tập của
giáo viên giao mà còn phải chuẩn bị bài trước ở nhà (theo những câu gợi mở
của giáo viên). Sau khi thảo luận nhóm và được giáo viên giảng giải thêm,
học sinh mới hiểu sâu được kiến thức.
- Ngoài việc học tập ở lớp, học sinh phải tham khảo thêm nhiều sách vở
9


do giáo viên gợi ý hoặc tự tìm tòi. Học sinh phải có sổ tayđể ghi chép những
nội dung quan trọng. Đây là tư liệu cần thiết, giúp học sinh dễ dàng tra cứu,
không mất nhiều thời gian truy tìm, khi cần thiết.
- Học sinh không những nắm được những kiến thức của giáo viên mà
còn phải biết độc lập suy nghĩ, tìm tòi, biết khái quát nội dung chương trình
hay thắc mắc những gì mình còn nhận thức mơ hồ.
- Nhưng nắm vững lý thuyết chưa đủ mà học sinh còn phải rèn luyện
kỹ năng phân tích đề; kỹ năng viết bài và trình bày bài làm. Nhìn một bài làm
hay, thì chữ đẹp bao giờ cũng dễ gây thiện cảm cho người đọc, nhất là đối với
các môn khoa học Xã hội. Đây là một công việc khó khăn, học sinh cần phải
được luyện tập lâu dài, thông qua các bài viết (có sự sửa chữa của giáo viên
kịp thời).
Ngoài ra, học sinh giỏi môn Lịch sử phải biết sử dụng triệt để các thao
tác phân tích, tổng hợp để đánh giá, nhận định về một sự kiện hay vấn đề lịch
sử, biết chọn ra những chi tiết, sự kiện lịch sử nào để chứng minh, giải thích

theo yêu cầu của đề bài. Hơn nữa, học sinh ấy phải biết trình bày một bài làm
Lịch sử có hệ thống, logic,…
3.2. Cách chọn học sinh giỏi.
- Lâu nay tôi thường chọn học sinh giỏi theo quy trình: Tuyển chọn đội
tuyển vào cuối mỗi năm học để bồi dưỡng, động viên trong thời gian hè. Vào
đầu mỗi năm học mới tiếp tục chọn lần hai và tăng cường bồi dưỡng để tham
gia ôn tập dự thi cấp huyện. Việc chuyển chọn như vậy tôi thấy hiệu quả. Mặt
khác đối với bộ môn Lịch sử tôi thấy việc tuyển lựa rất khó, do học sinh cứ
xem thường môn học cho đó là môn học phụ. Nên giáo viên dạy môn lịch sử
phải lựa chọn đối tượng sau cùng. Những em có năng khiếu đặc biệt thường
thích ôn luyện các môn học tự nhiên. Vì có kiến thức cơ bản, vững vàng các
em cần nắm rõ các công thức, quy tắc, định nghĩa, định lí rồi linh hoạt nhạy
bén, áp dụng để làm bài. Còn các môn học ít tiết như Lịch sử, Địa lí cần học
bài dài và nhiều nên phần đông các em rất chán.
10


- Kết hợp khi dạy trên lớp tôi thường ra đề kiểm tra theo hướng mở
hoặc đưa ra những câu hỏi, bài tập nhận thức để khuyến khích học sinh có sự
đầu tư, sáng tạo khi trả lời trước tập thể lớp hay viết trong làm bài và thưởng
điểm cho những học sinh biết cách làm bài đúng theo yêu cầu và có sáng tạo.
- Tôi tiến hành chọn những học sinh có khả năng phát hiện và giải
quyết vấn đề nhanh, đúng bản chất sự kiện, vấn đề lịch sử. Trong bài viết, tôi
đặc biệt chú ý những bài học sinh trả lời đúng yêu cầu thể hiện nắm vững
kiến thức, trình bày, lập luận logic, kết hợp chữ viết rõ ràng, nếu viết đẹp
càng tốt.
- Trong những năm gần đây, việc lựa chọn học sinh giỏi môn Lịch sử
vào đội tuyển của trường, qua các bài kiểm tra phát hiện học sinh có năng
khiếu, có sự yêu thích học Lịch sử tôi trực tiếp gặp các em để tìm hiểu tâm lý,
khơi dậy ở học sinh niềm đam mê, giới thiệu các em tham gia vào đội tuyển

để bồi dưỡng. Phân tích cho các em niềm tự hào, vinh dự khi đạt giải môn thi
cấp huyện, cấp thành phố - đó là sự ghi nhận sự cố gắng và kết quả mà các
em đã đạt được.
- Bên cạnh đó, tôi còn gặp các giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm
thăm hỏi tình hình học tập của các em để chọn ra những học sinh có năng lực,
có tố chất thông minh và làm việc siêng năng. Học sinh đó phải học khá các
môn khác, nhất là môn Toán, Ngữ văn, vì môn Lịch sử cũng cần ở học sinh
khả năng phân tích, tư duy logic và kết hợp những kiến thức văn, thơ minh
họa cho bài viết thêm sinh động, giảm sự khô khan nhàm chán gây được thiện
cảm cho người đọc.
- Với cách lựa chọn như trên, trong 3 năm gần đây trường có số lượng học
sinh giỏi môn Lịch sử đạt giải cấp Quận và cấp thành phố khá cao so với
giai đoạn trước đó. Cụ thể :
Năm học 2016 – 2017 có: 3/3 HS đạt giải, trong đó có 01 giải Nhì cấp
Quận. 01 HS đạt giải KK cấp thành phố.
Năm học 2017- 2018 có: 2/2 đạt giải (trong đó có 01 đạt giải Nhì, 01 em
11


đạt giải Ba cấp Quận và cấp thành phố đ 01 giải KK).
Năm học 2018- 2019 có 2/2 HS đạt giải (01 giải Nhì, 01 KK cấp Quận và
dự thi cấp thành phố đạt 1 giải Ba và 01 giải KK). (xem BẢNG 1, 2).
Vậy vấn đề đặt ra là cần phải phát hiện những học sinh có khả năng
giỏi Lịch sử từ lúc nào? Nên tổ chức bồi dưỡng từ lớp nào? Trên thực tế, có
nhiều trường khi chuẩn bị thi mới tập trung học sinh để ôn luyện, nhưng theo
tôi việc phát hiện và chọn học sinh giỏi phải làm sớm – vào đầu mỗi năm học
mới; tổ chức bồi dưỡng phải thường xuyên, không nhất thiết phải ôn thi vào
các buổi bồi dưỡng mà ở các tiết học, các môn học các em cần phải quan tâm,
được uốn nắn và phát hiện kịp thời.
3.3. Yêu cầu một bài Lịch sử đạt hiệu quả.

- Phải biết suy luận: Bài làm môn Lịch sử cần đi thẳng vào vấn đề,
không viết rườm rà, dẫn đến lạc đề. Hãy đọc kỹ đề bài, hiểu rõ câu hỏi và
thiết kế những kiến thức đã học theo ý đồ của câu hỏi, đừng bắt câu hỏi phải
đi theo kiến thức có sẵn của mình. Học sinh phải biết chọn ra những chi tiết,
sự kiện lịch sử nào để chứng minh, giải thích theo yêu cầu của đề bài.
- Không được phép làm bài theo kiểu nhớ mang máng. Môn Lịch sử là
một môn học tuyệt đối kỵ với các khái niệm mù mờ.
Ví dụ không được nhớ nhầm “Mặt trận dân tộc thống nhất” thành “Mặt
trận thống nhất dân tộc”. Không được viết lẫn lộn giữa những chữ “đấu
tranh”,“chiến đấu”, “khởi nghĩa”…
- Một bài viết Lịch sử hay là bài viết của học sinh đó biết thổi hồn vào
những con số, phải tái hiện được sự kiện, hiện trượng, vấn đề lịch sử.
4. Xây dựng chương trình giảng dạy
Ôn luyện học sinh giỏi không giống như tiết dạy ở lớp học bình thường. Vì ở
lớp ta dạy cho học sinh phù hợp với ba đối tượng (khá- giỏi, trung bình và
yếu kém). Song dạy cho học sinh giỏi là ta dạy để đưa các em đi dự thi. Đối
tượng dự thi đều ngang tầm nhau về mặt học lực, nhận thức. Vì vậy, việc xây
dựng nội dung chương trình là hết sức cần thiết. Đây là công việc quan trọng
12


đầu tiên sau khi thành lập đội tuyển. Tôi xây dựng chương trình – kế hoạch
bồi dưỡng theo tiến trình phát triển của Lịch sử gồm 2 phần như sau:
1) PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI:
Lịch sử thế giới hiện đại (Từ 1945 đến nay)
2) PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM:
- Lịch sử Việt Nam từ 1858-1918.
- Lịch sử Việt Nam từ 1919- 1954:
* Giai đoạn Việt Nam từ (1919-1930).
* Giai đoạn Việt Nam từ (1930-1945).

* Giai đoạn Việt Nam từ (1945-1954).
* Soạn hệ thống câu hỏi và bài tập lịch sử (chú trọng bài tập nâng
cao) để luyện tập cho mỗi phần dạy. (xem thêm ở phần phụ lục)
Ngoài ra, tôi tập trung biên soạn các chuyên đề nâng cao trong chương
trình để bổ sung kiến thức cho học sinh khi bồi dưỡng như: chuyên đề về
phong trào công nhân; chuyên đề về Nguyễn Ái Quốc, chuyên đề Đảng cộng
sản Việt Nam,...
5. Tiến hành bồi dưỡng
5.1. Cung cấp kiến thức
Yêu cầu kiến thức trong chương trình lịch sử ở trường Trung học cơ sở
chỉ dừng lại ở mức độ nhất định, nên nội dung bài giảng trong sách giáo khoa
đều nhằm mục đích cung cấp kiến thức cơ bản về tiến trình lịch sử thế giới và
Việt Nam theo diện rộng, chưa đi vào chiều sâu. Đối với học sinh giỏi yêu
cầu phải hiểu biết sâu sắc và toàn diện. Các em phải nắm chắc bản chất các sự
kiện, hiện tượng lịch sử, các vấn đề lịch sử,… để có đủ tự tin, có sự sáng tạo
khi giải quyết bất kì đề thi nào.
Một việc quan trọng để cung cấp kiến thức cho học sinh là chọn và giới
thiệu những tài liệu đảm bảo chất lượng cho các em. Thị trường sách hiện nay
khá phong phú, hay dở đan xen, nhưng quỹ thời gian của học sinh thì có hạn,
nên tôi chọn và mua hoặc phô tô cho học sinh các sách như: Sách giáo khoa
13


(chương trình cũ), Sách lịch sử nâng cao …để làm tư liệu tham khảo.
Trong chương trình bồi dưỡng, tôi kết hợp dạy kĩ hệ thống kiến thức cơ
bản theo chuẩn kiến thức, kỹ năng bằng việc lựa chọn những sự kiện, những
vấn đề lịch sử trọng tâm cho các em rồi tiến hành mở rộng kiến thức bằng các
chuyên đề nâng cao.
Các chuyên đề cần đi sâu làm rõ được hoàn cảnh lịch sử, nội dung bản
chất của các vấn đề lịch sử, các giai đoạn lịch sử; mối quan hệ giữa quá khứ hiện tại - tương lai. Đảm bảo cho học sinh đạt được mức độ về kiến thức logíc là: nhận biết, thông hiểu, vận dụng, phân tích, đánh giá và sáng tạo, chứ

không phải nhồi nhét kiến thức cho học sinh.
Từ các chuyên đề là công cụ giúp học sinh giải quyết tốt các loại đề thi.
Tôi tiến hành dạy từng chuyên đề phù hợp với khả năng và chương trình cho
học sinh bồi dưỡng.
Sau khi dạy xong một chuyên đề, một bài lịch sử, tôi yêu cầu học sinh
phải dành một khoảng thời gian để suy nghĩ, nhìn nhận vấn đề đó, đặc biệt là
ý nghĩa của sự kiện đó với giai đoạn trước và sau nó.
Ví dụ: như khi học về phong trào Cần Vương thì hãy đối chiếu nó
với phong trào chống Pháp trong những năm 1858 - 1884 hay Phong trào
dân chủ tư sản đầu thế kỷ XX ...hay như khi học về Cuộc vận động dân chủ
1936-1939 thì phải tìm hiểu xem nó giống và khác gì so với phong trào
1930-1931 hay về sau là với Cuộc vận động giải phóng dân tộc 19391945 ... Làm như vậy sẽ giúp học sinh nhớ được kiến thức và nếu gặp các
dạng bài hệ thống, so sánh ... học sinh làm bài đạt hiệu quả cao hơn.
Theo tôi, để một học sinh được tham gia dự thi môn Lịch sử các cấp
học sinh đó phải nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn Lịch sử – Kiến thức
cơ bản ở đây không chỉ là những sự kiện đơn lẻ mà phải bao gồm hệ thống
những hiểu biết cần thiết về những sự kiện, niên đại, nhân vật, địa danh, các
nguyên lý, quy luật, những kết luận khái quát, phương pháp, kỹ năng. Vì vậy,
khi nắm vững kiến thức học sinh mới có khả năng ứng phó được với các loại
14


câu hỏi, bài tập.
5.2. Rèn luyện kỹ năng
* Kỹ năng tìm hiểu tài liệu
Nội dung chương trình lịch sử quá rộng, tôi không đủ thời gian để dạy
từng bài trong sách giáo khoa, nên việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu trước bài
trong sách giáo khoa là rất quan trọng. Sách giáo khoa Lịch sử Trung học cơ
sở được biên soạn – trình bày theo bài, theo tiến trình thời gian. Tôi đã hướng
dẫn học sinh nắm được mục đích – yêu cầu, những sự kiện quan trọng và

trọng tâm kiến thức của từng bài học Lịch sử lớp 9. Trên cơ sở đó các em về
nhà tìm hiểu kỹ sách giáo khoa và trả lời những câu hỏi trong sách giáo khoa
yêu cầu. Với cách làm trên khi ôn luyện cho học sinh tôi chỉ tập trung phân
tích chuyên sâu những nội dung lịch sử.
Để tìm hiểu tài liệu đạt hiệu quả học sinh cần phải:
1. Nắm đề: Đề ở đây là tên đề bài, tên tiểu mục. Nhiều học sinh học
thuộc nội dung nhưng lại không nhớ tên tiểu mục, khi làm bài có thể “râu ông
nọ cắm cằm bà kia”, nghĩa là lạc đề.
Vậy trước khi học tiểu mục nào, nên nắm chắc tên tiểu mục ấy. Chuyển
tiểu mục ấy thành câu hỏi. Ví dụ như “Ba tổ chức Đảng cộng sản nối tiếp
nhau ra đời năm 1929”. Tự đặt ra câu hỏi như: “Ba tổ chức cộng sản ấy tên là
gì? Tại sao ra đời? Bao giờ? Ở đâu? Có ý nghĩa gì?” Như vậy kích thích hứng
thú học tập, hiểu sâu, nhớ lâu. Đó là chủ động trong học tập.
2. Nắm khung: Khung là dàn ý của cả bài hoặc của từng phần. Trước
khi học cả bài hay từng phần nên nắm chắc cái dàn ý của nó. Dàn ý thường
theo giai đoạn hoặc theo sự kiện, bao gồm: nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý
nghĩa. Nắm khung giúp nhớ có hệ thống và nhớ lâu, dễ trả lời những câu hỏi
tổng hợp.
3. Nắm chốt: Lịch sử bao giờ cũng gắn liền sự kiện – địa danh – nhân
vật lịch sử. Nên “chốt” là thời điểm gắn với một sự kiện quan trọng hoặc
tương đối quan trọng. Ở lịch sử lớp 9 yêu cầu học sinh phải nhớ cả ngày,
15


tháng, năm. Nếu chỉ là tương đối quan trọng, có thể chỉ cần nhớ tháng và
năm, thậm chí chỉ nhớ năm, cũng tạm được. Nên tìm các mối quan hệ giữa
các chốt về thời gian và sự kiện thì dễ nhớ và nhớ lâu.
4. Thuật ngữ: Cần phải nhớ đúng những thuật ngữ Lịch sử, không
được nhầm lẫn giữa một số thuật ngữ “đấu tranh”, “chiến đấu”, “khởi
nghĩa”,"kháng chiến"…vì mỗi chữ có một nghĩa khác nhau.

* Kỹ năng phân tích đề
Về các Đề thi học sinh giỏi thường có mấy loại sau đây:
Loại đề hệ thống hóa kiến thức lịch sử: nhằm nêu một số kiến thức cơ
bản nhất để qua đó phác họa bức tranh chung về một thời kỳ, một sự kiện lịch
sử. Song đây không phải là liệt kê kiến thức đơn thuần mà yêu cầu học sinh
biết lựa chọn một số sự kiện chủ yếu, tiêu biểu, được hệ thống hóa để làm toát
lên một chủ đề nhất định.
Ví dụ: Lập bảng kê các các nước tham gia khối ASEAN theo nội
dung sau:
STT Tên nước

Thủ đô

Ngày giành

Nét nổi bật trong tình

độc lập

hình hiện nay

Khi lập bảng hệ thống hóa kiến thức, học sinh phải đọc kỹ đề, hiểu rõ vấn đề
được đặt ra để lựa chọn những kiến thức phù hợp.Lập bảng hệ thống hóa kiến
thức cần phải chia ra các cột, nội dung mỗi cột là một đề mục các cột hợp
thành hệ thống, giải quyết chủ đề được đặt ra.Một số học sinh không được
hướng dẫn kỹ thường viết thành bài tự luận.
- Loại đề thi tự luận: Có nhiều dạng yêu cầu theo mẫu tự luận.
Ví dụ 1: Vì sao Hội nghị BCH TW Đảng (11/1939) chủ trương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược? Trình bày nội dung và ý nghĩa của Hội nghị này.
Ví dụ 2: Vì sao ta mở chiến dịch Biên giới thu - đông 1950? Chiến

dịch này có bước tiến gì so với chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947?
16


Các loại đề thi như trên không chỉ yêu cầu học sinh phải nhận biết
chính xác sự kiện, nhận thức đúng bản chất lịch sử mà còn đòi hỏi học sinh
thể hiện khả năng lập luận, trình bày, diễn đạt tốt.
Ngoài ra còn có loại đề thi có câu hỏi đặt ra để lý giải một vấn đề đã
được xác định, hoặc bình luận, chứng minh câu nói nổi tiếng của một nhân
vật lịch sử bằng những quan điểm, bằng các sự kiện.Loại đề thi này tương đối
khó, nên tôi hướng dẫn, yêu cầu học sinh phải đọc kỹ và hiểu đúng câu nói
của nhân vật, một nhận định, đánh giá và sử dụng những sự kiện lịch sử cụ
thể, chính xác để chứng minh.
- Loại đề nhận thức lịch sử: Là đề theo một chủ đề hay vấn đề lịch sử
nhất định được đặt dưới dạng câu hỏi yêu cầu cần giải đáp. Loại đề này
thường có nội dung khó, yêu cầu học sinh phải suy nghĩ nhiều, hiểu biết kiến
thức lịch sử chính xác, hệ thống; học sinh phải có năng lực độc lập suy nghĩ
để giải quyết vấn đề nêu ra, học sinh phải có trình độ tư duy cao, có khả năng
lập luận, lý giải vấn đề. Các dạng thường gặp như:
+ Đề thi về xác lập mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện lịch sử:
Ví dụ: Hãy sắp xếp theo trình tự thời gian các sự kiện chủ yếu từ khi
Nguyễn Ái Quốc về nước (1941) trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến
khi Cách mạng tháng Tám thành công và giải thích mối quan hệ giữa các sự
kiện lịch sử này?
Loại đề thi này yêu cầu học sinh phải suy nghĩ kỹ, nếu không sẽ dễ
nhầm lẫn với loại đề hệ thống hóa kiến thức cơ bản đã trình bày trên. Đề thi
yêu cầu thí sinh không chỉ ghi nhớ các sự kiện lịch sử theo tiến trình thời gian
mà điều quan trọng là thí sinh phải lý giải mối quan hệ giữa các sự kiện đã
được lựa chọn.
+ Đề thi xác định tính kế thừa giữa các sự kiện lịch sử, giai đoạn,

thời kì lịch sử: Đề yêu cầu học sinh phải hiểu rõ quá trình phát triển liên tục,
thống nhất, tính phong phú, đa dạng, cụ thể của các sự kiện, giai đoạn, thời kì
lịch sử. Khi làm loại đề này, học sinh phải nắm vững một vấn đề có tính quy
17


luật trong sự phát triển của lịch sử.Sự kiện xảy ra trước tác động đến sự ra đời
và phát triển của sự kiện tiếp sau, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
+ Đề thi xác định tính kế thừa giữa các sự kiện trong quá trình lịch sử cũng
như loại đề thi vềmối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện, song nó tập trung
hơn vào một sự kiện chính; nó nâng cao hơn về mặt khái quát – lý luận.
Ví dụ: Trên cơ sở trình bày mục đích của Hội Duy tân và Việt Nam Quang
phục hội, anh (chị) hiểu gì về tư tưởng cứu nước của Phan Bội Châu?
- Loại bài thi thực hành lịch sử: Yêu cầu học sinh không chỉ có biểu
tượng lịch sử chính xác, giàu hình ảnh mà còn biết vận dụng những kiến thức
đã học vào cuộc sống, lao động và công tác xã hội. Vì vậy, nội dung bài thi
thực hành lịch sử giúp học sinh rèn luyện kỹ năng bộ môn. Những số liệu, câu
hỏi đưa ra trong bài làm cần ngắn gọn, rõ ràng, đầy đủ, dễ hiểu và giải quyết
được vấn đề đặt ra. Đề thi thường gặp vẽ bản đồ, lược đồ gồm sử dụng bản đồ
câm đến vẽ và trình bày theo bản đồ.
Ví dụ 1: Dùng bản đồ câm các nước Đông Nam Á vào nửa sau thế kỉ
XX, ghi tên nước, ngày giành độc lập và tên thủ đô.
Ví dụ 2: Vẽ biểu đồ và tường thuật (viết) diễn biến cuộc Tổng khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945.
Để giải quyết được những dạng đề như trên khâu quan trọng là việc
phân tích đề, bởi vì phân tích đề tốt sẽ giúp học sinh xác định, lựa chọn đúng
kiến thức, lập dàn ý dễ dàng.Phân tích đề đúng sẽ tránh trường hợp lạc đề,
lệch đề.
Cấu tạo đề thi học sinh giỏi hiện nay rất nhiều câu, nhiều dạng đề, đòi
hỏi học sinh phải tư duy và xử lý nhanh các kỹ năng phân tích đề, phân bố

thời gian, xác định thời gian, không gian, nội dung lịch sử và yêu cầu của câu
hỏi … sao cho phù hợp là kỹ năng cần rèn luyện thường xuyên.
* Kỹ năng làm bài
- Phân tích câu hỏi trong đề thi.
Phải đọc hết và hiểu chính xác từng từ, từng chữ trong câu hỏi.Trong
18


đề thi, một câu hỏi chặt chẽ sẽ không có từ nào là “thừa”.Đọc kĩ câu hỏi để
xác định thời gian, không gian, nội dung lịch sử và yêu cầu của câu hỏi (trình
bày, so sánh, giải thích, phân tích, đánh giá...)
- Phân bố thời gian cho hợp lí. Hãy căn cứ vào điểm số của từng câu
mà tính thời gian, mỗi điểm khoảng 15 phút là phù hợp.
- Lập dàn ý chi tiết.
Hãy coi mỗi câu hỏi như một bài viết ngắn, lập dàn ý, xác định những ý
chính và trình tự của các ý. Sau đó hãy “mở bài”, đừng mất nhiều thời gian
suy nghĩ về “mở bài”. Khi đã xác định đúng nội dung sẽ biết mở bài thế nào,
và nên mở bài trực tiếp, ngắn gọn – không quá 10 dòng. Sau khi viết hết nội
dung, sẽ biết kết luận. Đừng nghĩ trước kết luận và cũng chỉ nên kết luận thật
ngắn gọn.
- Về hình thức: không phải ai cũng viết được chữ đẹp, câu hay, nhưng
hãy cố gắng viết cho rõ ràng, đúng câu, đúng chính tả, đừng dùng từ sáo rỗng,
dài dòng, đừng viết tắt. Hãy luôn nhớ: Đúng, đủ, rõ ràng, lời văn giản dị, trình
bày khoa học. Tuyệt đối không được viết tùy tiện, rườm rà.
Khuyến khích học sinh có thể dẫn chứng thơ, văn học, những nhận
định, đánh giá,… để minh họa trong quá trình làm bài thi.
Lưu ý: Để làm một bài thi lịch sử đạt hiệu quả cao học sinh phải:
1. Hiểu đề: Đọc thật kĩ từng chữ trong câu hỏi để hiểu rõ người ta hỏi
vấn đề gì? Phạm vi thời gian của câu hỏi là từ năm nào đến năm nào? Như
vậy tránh được lạc đề hoặc thiếu ý.

2. Dựng khung: Dù thuộc đến mấy cũng không viết ngay vào giấy thi.
Hãy viết dàn ý vào giấy nháp sao cho thật đầy đủ và có hệ thống, đáp ứng yêu
cầu của câu hỏi.
3. Cắm chốt: Ở mỗi phần của dàn ý ấy, ghi những chốt, nghĩa là sự
kiện quan trọng cùng với thời điểm của nó. Như vậy bài làm sẽ không bỏ sót
những sự kiện quan trọng.
4. Viết sạch: Viết vào giấy thi một cách sáng sủa, dễ đọc. Hết mỗi ý
19


chính, mỗi sự kiện nên xuống dòng. Thấy cần thiết để làm nổi bật từng giai
đoạn, từng sự kiện, từng ý nghĩa có thể ghi 1, 2, 3 hoặc a, b, c hoặc gạch đầu
dòng, vì Lịch sử là một môn khoa học xã hội, có thể trình bày một cách có hệ
thống. Như vậy cũng dễ cho người chấm.Bài thi lịch sử trong những năm gần
đây nhiều câu nên học sinh không được chủ quan, viết quá dài - rườm rà.
Chữ nào sai thì dung thước gạch đi, không nên xoá lem nhem, không
đưa vào ngoặc đơn. Nếu trót thiếu cả một đoạn dài, có thể ghi bổ sung xuống
cuối bài. Phải chia thời gian để trả lời đủ các câu hỏi, tránh đầu voi đuôi
chuột, nghĩa là làm bài đầu tiên thì viết bài cẩn thận, đầy dủ, chi tiết, rõ ràng,
mạch lạc, sạch, đẹp, nhưng sau đó thì viết cẩu thả, thiếu ý, tùy tiện thiếu nội
dung hoặc mập mờ không rõ nội dung..
5. Đọc lại: Phải tính toán thời gian, để khi viết bài xong, vẫn còn độ 10,
15 phút. Nhất thiết phải đọc lại bài để sửa chữa những chỗ sai sót nhầm lẫn
rồi mới nộp bài.Đọc lại là khâu rất quan trọng để bài thi được điểm cao hơn.
* Chấm và sửa bài
Một học sinh giỏi không chỉ nắm vững kiến thức lịch sử, vững kỹ năng
mà còn có sự sáng tạo. Vì vậy, trong quá trình bồi dưỡng cho học sinh tôi
thường xuyên quan tâm đến việc chấm và sửa bài cho học sinh. Bài viết cần
phải được sửa chữa, chỉ bảo cụ thể, để phát huy những cái hay, sửa sai kịp
thời những cái dở, để có sự nhìn nhận đánh giá một cách công bằng, khách

quan mỗi khi tuyển lựa đội tuyển chính thức đi dự thi.
Sau khi dạy một chuyên đề, hay một giai đoạn lịch sử tôi thường tổ
chức kiểm tra để chấm và sửa bài cho học sinh. Kiểm tra có thể cho bài tập để
các em về nhà làm, quy định thời gian nộp bài, nhưng theo tôi tốt nhất là cho
học sinh làm bài kiểm tra ngay trên lớp bồi dưỡng.
Ngoài ra tôi còn khuyến khích học sinh có thể tự tìm đề để viết rồi đưa
cho thầy cô sửa giúp, sau đó viết lại nhuần nhuyễn. Cách này giúp học sinh
tăng khả năng trình bày, diễn đạt của mình và tạo thêm kỹ năng ứng phó tốt
với nhiều loại đề.
20


6. Khả năng áp dụng
Đề tài có tính khả thi, có thể áp dụng lâu dài và rộng rãi cho giáo viên
dạy bồi dưỡng học sinh giỏi bộ lịch sử ở trường Trung học cơ sở để nâng cao
hiệu quả chất lượng môn Lịch sử nói chung và bồi dưỡng học sinh giỏi nói
riêng.
Từ sự cố gắng của giáo viên và học sinh, nên kết quả đạt được trong kì
thi học sinh giỏi môn Lịch sử ở trườngmà tôi giảng dạy liên tục trong những
năm qua (xem Bảng 1,2 và biểu đồ 1,2)là cơ sở để tôi nghiên cứu, thực hiện
đề tài này và sẽ áp dụng vào công tác giảng dạy, bồi dưỡng đội tuyển học sinh
giỏi của trường, của huyện và thành phố trong những năm học tiếp theo.
BẢNG 1:
SỐ LƯỢNG HSG CẤP HUYỆN, CẤP THÀNH PHỐ
TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN

Năm học

HS giỏi cấp huyện
Số lượng

Tỉ lệ %

HS giỏi cấp thành phố
Số lượng
Tỉ lệ %

2016-2017

1/2

50

0

0

2017-2018
2018-2019

2/2
1/2

100
50

1/1
0

100
0


Ghi chú

BẢNG 2:
SỐ LƯỢNG HSG CẤP HUYỆN, CẤP THÀNH PHỐ
SAU KHI ÁP DỤNG SKKN

Năm học

HS giỏi cấp huyện

HS giỏi cấp thành phố

Ghi chú

21


2016-2017
2017-2018
2018-2019

Số lượng

Tỉ lệ %

Số lượng

Tỉ lệ %


2/2
2/2
2/2

100
100
100

1/1
2/2
2/2

100
100
100

Kết luận: Từ kết quả ở bảng 1 và bảng 2 trên cho thấy kết quả thi học sinh
giỏi bộ môn Lịch sử của nhà trường từ khi áp dụng SKKN đã tăng lên rõ ràng
không những ở cấp huyện mà cả cấp thành phố, góp phần vào bảng thành tích
chung của nhà trường hàng năm.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ:
1. Kết luận chung:
Qua nghiên cứu trình bày ở trên tôi khẳng định mục đích nghiên cứu đặt ra đã
được hoàn tất. Trong quá trình nghiên cứu tôi xin rút ra một số kết luận sau:
- Để bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử đạt hiệu quả trước hết phải có
những giáo viên vững vàng về kiến thức, kỹ năng thực hành lịch sử.
- Thực sự yêu nghề, tâm huyết với công việc bồi dưỡng học sinh
giỏi.Niềm đam mê là yếu tố rất cần thiết khi bạn muốn dạy tốt và có học sinh
học tốt môn Lịch sử.
- Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, đọc sách báo để ngày càng

làm phong phú thêm vốn kiến thức của mình.
- Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, ghi chép giáo án một cách
khoa học.
- Tham khảo nhiều sách báo tài liệu có liên quan, giao lưu học hỏi các
bạn đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm, các trường có bề dày thành tích.
- Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh, mẫu mực trong lời
nói, việc làm, thái độ, cử chỉ có tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh
noi theo.
- Giáo viên phải khơi dậy niềm say mê, hứng thú của học sinh đối với
môn học Lịch sử, luôn phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các
22


em tham gia học tập. Trong quá trình nghiên cứu, xuất phát từ cơ sở lý luận
và thực trạng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử.Đề tài xin mạnh
dạn đề xuất một số biện pháp có tính thực tiễn phù hợp với tình hình bồi
dưỡng học sinh giỏi lịch sử hiện nay.
- Tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi môn Lịch sử:
+ Phát hiện những học sinh có khả năng trở thành học sinh giỏi lịch sử.
+ Bồi dưỡng kiến thức lịch sử.
+ Bồi dưỡng kỹ năng tìm hiểu tài liệu lịch sử.
+ Bồi dưỡng kỹ năng phân tích đề.
+ Bồi dưỡng kỹ năng làm bài thi lịch sử.
2. Khuyến nghị:
Đối với mỗi nhà trường nên tổ chức chọn đội tuyển và bồi dưỡng học
sinh giỏi ngay từ cuối năm học trước hoặc đầu năm học sau, chú trọng hơn
công tác khảo sát, lựa chọn học sinh vào lớp bồi dưỡng học sinh giỏi để đạt
được kết quả cao nhất.
Xin chân thành cảm ơn!
Tháng 5 năm 2019


PHỤ LỤC
MỘT SỐ CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP LỊCH SỬ
A. PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI:
Câu 1: Hội nghị Ianta (2/1945) diễn ra trong hoàn cảnh nào? Hội nghị đã có
những quyết định quan trọng nào?
Câu 2: Liên Hợp Quốc: Hoàn cảnh ra đời, mục đích, nguyên tắt hoạt động và
vai trò của Liên hợp quốc.
Câu 3: Sự đối lập về chính trị và kinh tế giữa hai khối nước: Tây Âu TBCN
và Đông Âu XHCN như thế nào?
23


Câu 4: Trình bày những thành tựu chủ yếu trong công cuộc xây dựng CNXH
của Liên Xô từ năm 1945 đến giữa những năm 70.Những thành tựu đó có ý
nghĩa gì?.
Câu 5: Trình bày những thành tựu chính các nước Đông Âu đạt được trong
công cuộc xây dựng CNXH từ năm 1950 đến giữa những năm 70. Những
thành tựu đó có ý nghĩa gì?.
Câu 6: Phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của chế độ
XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
Câu 7: Sự thành lập nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và ý nghĩa của sự
thành lập nhà nước này? Hãy cho biết đường lối và thành tựu cải cách và mở
cửa của Trung Quốc?.
Câu 8: Trình bày những nét chính về phong trào đấu tranh giành độc lập ở
Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới thứ hai?.
Câu 9: Qúa trình thành lập, mục tiêu, nguyên tắc và sự phát triển của Hiệp
hội các nước Đông Nam Á (ASEAN). Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi
gia nhập tổ chức này?.
Câu 10: Những biến đổi của các nước Đông Nam Á sau chiến tranh thế giới

thứ hai?
Câu 11: Trình bày các giai đoạn phát triển và thắng lợi của phong trào giải
phóng dân tộc ở Châu Phi từ năm 1945 đến nay. Phong trào giải phóng dân
tộc ở Châu Phi có đặc điểm gì? Những khó khăn thử thách mà Châu Phi đang
gặp phải?.
Câu 12: Những nét chính về phong trào giải phóng dân tộc ở Mĩ Latinh từ
sau chiến tranh thế giới thứ hai? Cuộc đấu tranh giành độc lập ở Cuba diễn ra
như thế nào?.
Câu 13:Tình hình nước Mỹ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay: Sự
phát triển nhảy vọt về kinh tế và khoa học – kĩ thuật như thế nào? Những
nguyên nhân dẫn tới sự phát triển kinh tế của Mỹ. Chính sách đối nội và đối
ngoại của Mỹ như thế nào?.
24


Câu 14: Sự phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh thế
giới thứ hai như thế nào? Những nguyên nhân của sự phát triển đó?.
Câu 15:Trình bày khái quát sự phát triển của các nước Tây Âu qua các giai
đoạn từ 1945 đến năm 2000. Sự thành lập và phát triển của Liên minh châu
Âu (EU).Vì sao nói Liên minh châu Âu là tổ chức liên kết khu vực lớn nhất
thế giới?
Câu 16: Trình bày các xu thế phát triển của thế giới sau chiến tranh lạnh
chấm dứt. Liên hệ đến công cuộc đổi mới của đất nước ta.
Câu 17: Trình bày nguồn gốc, đặc điểm, thành tựu và tác động của Cách
mạng khoa học công nghệ nửa sau thế kỉ XX.
Câu 18: Xu thế toàn cầu hóa được thể hiện trên những lĩnh vực nào? Vì sao
nói toàn cầu hóa vừa là thời cơ vừa là thách thức đối với các nước đang phát
triển?.
Câu 19: Các xu thế phát triển của thế giới hiện nay là gì? Những thời cơ và
những thách thức đặt ra cho dân tộc Việt Nam trong công cuộc đổi mới và hội

nhập quốc tế như thế nào?.
B. PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM:
Câu 20: Nguyên nhân và hoạt động khai thác thuộc địa lần thứ hai
của Pháp ở Việt Nam? Cuộc khai thác lần thứ hai của thực dân Pháp ở Việt
Nam làm cho xã hội Việt Nam biến đổi như thế nào?Phân tích khả năng cách
mạng của từng tầng lớp giai cấp xã hội Việt Nam từ sau chiến tranh thế giới
thứ nhất.
Câu 21: Trình bày những hoạt động yêu nước của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
từ 1919 đến năm 1925.
- Quá trình chuyển biến của Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước trở
thành một người cộng sản đã diễn ra như thế nào?(Gợi ý: trình bày tóm tắt
tiểu sử, những hoạt động yêu nước từ 1911 đến 1925)
Câu 22: Sự ra đời của ba tổ chức Cộng sản trong năm 1929: Hoàn cảnh ra
đời, quá trình hình thành và ý nghĩa lịch sử.
25


×