Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

SKKN một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lý khối 9 theo hướng bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.56 KB, 18 trang )













SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI
MÔN ĐỊA LÝ KHỐI 9
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG



A/- PHẦN MỞ ĐẦU:

I. BỐI CẢNH CỦA ĐỀ TÀI:

Trong những năm qua, chất lượng dạy và học của huyện An Phú nói chung và trường
trung học cơ sở Đa Phước nói riêng ngày càng được nâng cao. Các phong trào thi đua dạy tốt
– học tốt do ngành phát động được đông đảo cán bộ - giáo viên - công nhân viên và học sinh
nhiệt tình tham gia hưởng ứng và từng bước đạt được nhiều thành tích khá nổi bật như:
phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm, làm đồ dùng dạy học, hội thi giáo viên dạy giỏi, hội
thi ca múa nhạ


c, hội khỏe phù đổng, thi chọn học sinh giỏi … Qua các phong trào đã góp
phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, đồng thời tạo được niềm tin đối
với các bậc phụ huynh học sinh, các cấp chính quyền và đó cũng là động lực để những người
làm công tác giáo dục có những định hướng mới cho sự nghiệp đào tạo thế hệ tương lai của
đất nước.
Trong các phong trào thi đua
đó, có thể khẳng định rằng trường trung học cơ sở Đa
Phước – huyện An Phú là ngôi trường đạt được kết quả khá toàn diện và mang tính ổn định ;
phát triển trong đó có phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn
Địa lý nói riêng.

II. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Năm học 2005 – 2006 là năm học đầu tiên học sinh lớp 9 trên địa bàn toàn tỉnh được
học theo chương trình sách giáo khoa mới và cũng là năm học
đầu tiên bản thân được Ban
giám hiệu nhà trường phân công giảng dạy môn Địa lý khối 9. Với vai trò là người giáo viên
giảng dạy lớp 9, bản thân nhận thức được rằng nhiệm vụ khá nặng nề và quan trọng – quan
trọng vì phải đảm nhận công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, công việc mà lãnh đạo nhà trường
luôn xem là mũi nhọn, là thế mạnh của trường.
Từ năm học đầu tiên đó đến nay, công tác bồi d
ưỡng học sinh giỏi môn Địa lý của bản
thân ít nhiều đạt được một số kết quả nhất định, cụ thể là: hàng năm trường đều có học sinh
giỏi đạt giải cấp huyện, cấp tỉnh môn Địa lý và năm học 2010 – 2011 vừa qua trường có một
học sinh giỏi đạt giải Nhì và một học sinh giỏi đạt giải Ba môn Địa lý trong kỳ thi chọn học
sinh giỏi cấ
p tỉnh.
Với những kết quả trên, xin chia sẻ một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa
lý khối 9 nhằm góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn, tạo hứng thú học tập cho
học sinh và góp phần nhỏ bé trong thành tích chung của phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi,

và đặc biệt với những giáo viên đã và đang bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý có thể xem
đây là một tài li
ệu tham khảo, một kênh thông tin để làm phong phú thêm biện pháp bồi
dưỡng học sinh giỏi trên địa bàn An Giang nói chung và huyện An Phú nói riêng.






III. PHẠM VI NGHIÊN CỨU:

Đề tài tập trung phân tích các biện pháp đã thực hiện trong quá trình bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Địa lý khối 9 cũng như chia sẻ với quý đồng nghiệp những kinh nghiệm đã tích lũy
được từ thực tế những năm qua.

IV. ĐIỂM MỚI TRONG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU :

Từ thực tế của quá trình giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi
đạt hiệu quả bản thân đã
không ngừng rút kinh nghiệm, phân tích, so sánh các biện pháp đã tiến hành ở năm sau so
với những năm trước để có hướng điều chỉnh ở hiện tại sao cho phù hợp với thực tế. Trên cơ
sở tổng kết, rút kinh nghiệm riêng của bản thân đã từng bước hình thành ý tưởng viết đề tài
về công tác phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi và qua nhiều nă
m đề tài được ra đời. Có thể
nói công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được ngành thực hiện khá lâu nhưng việc tổ chức trao
đổi học tập hay chia sẻ kinh nghiệm bồi dưỡng thì chưa thực hiện bao giờ. Do đó, đề tài ra
đời là kết quả của quá trình gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, đồng thời phần nào đã giải
quyết được những đòi hỏi do thực ti
ễn đặt ra.


B/- PHẦN NỘI DUNG:


I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI:

Qua thực tế bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 trong những năm học qua tôi
nhận thấy rằng vấn đề quan trọng là người giáo viên bồi dưỡng cần có một quan niệm đúng
về học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lý nói riêng. Bên cạnh đó, cần trả lời
cho câu hỏi: “việc bồi dưỡng học sinh giỏi nhằ
m mục tiêu gì ?” để từ đó người giáo viên bồi
dưỡng lựa chọn nội dung, chương trình và phương pháp bồi dưỡng sao cho thích hợp và đạt
hiệu quả cao nhất.
Theo Giáo sư – Tiến sỹ Nguyễn Viết Thịnh, giảng viên khoa Địa lý Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội, người được ví như “một trong những cánh chim đầu đàn” của ngành khoa học
Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam và cũng là người có nhi
ều năm tham gia ra đề thi Cao đẳng,
Đại học, thi học sinh giỏi quốc gia môn đia lý cho rằng: “Học sinh giỏi môn Địa lý chỉ cần
học thuộc là chưa đủ, chưa chính xác vì Địa lý là môn khoa học có đối tượng nghiên cứu
phong phú, phức tạp. Các hiện tượng địa lý không chỉ phân bố trên bề mặt đất mà cả trong
không gian và trong lòng đất. Hơn nữa, các hiện tượng ấy ở đâu và bao giờ cũng phát sinh,
tồn tạ
i và phát triển một cách độc lập nhưng lại luôn có quan hệ hữu cơ với nhau. Chính vì
vậy, người dạy và học Địa lý cần có phương pháp tư duy, phân tích, xét đoán các hiện tượng
địa lý theo quan điểm hệ thống”.
Với quan niệm trên, chúng ta hiểu rằng học sinh giỏi môn Địa lý là những học sinh phải
nắm được những kiến thức cơ bản của bộ môn và phải vận dụng đượ
c những hiểu biết;
những kỹ năng địa lý để giải quyết những nội dung cơ bản theo yêu cầu của đề bài, của thực
tiễn cuộc sống và học sinh giỏi môn Địa lý là những học sinh có năng lực độc lập suy nghĩ,

vận dụng tốt nhất những kiến thức, kỹ năng chắc chắn về địa lý.

Về mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi, có nhiều mục tiêu khác nhau tùy theo quan niệm của
mỗi giáo viên và tùy theo môn học nhưng dù quan niệm như thế nào chung quy lại có những
điểm tương đồng:
- Bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và học sinh giỏi môn Địa lý nói riêng nhằm phát
triển tư duy ở trình độ cao phù hợp với khả năng trí tuệ của học sinh.
- Bồi dưỡng sự lao động và làm việc một cách sáng tạo.
- Phát triển các phương pháp, kỹ năng và thái độ tự học suốt đời.
- Nâng cao ý thức và khát vọng của học sinh.
- Phát triển phẩm chất lãnh đạo.
- Có ý thức trách nhiệm trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Với những mục tiêu đó, chúng ta cũng thấy rằng việc bồi dưỡng học sinh giỏi hiện nay
của phần lớn giáo viên ít nhiều đã đáp ứng tương đối đầy đủ
sáu mục tiêu trên . Điều này
được minh chứng qua kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên vì những em đạt giải
học sinh giỏi là những em hội đủ các mục tiêu trên.

II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP:

Trong thực tế, qua một số năm tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý đạt kết quả
khá khả quan: hàng năm trường đều có học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh b
ản thân luôn bám
sát các mục tiêu bồi dưỡng học sinh giỏi, đồng thời áp dụng các biện pháp cụ thể:

1. Xây dựng kế hoạch cụ thể trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi:

Vào đầu năm học, lãnh đạo nhà trường chỉ đạo mỗi giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi ở
tất cả các môn phải xây dựng kế hoạch chi tiết. Vì vậy, bản thân cũng đã lên kế hoạch c
ụ thể

về: thời gian bồi dưỡng; nội dung; thời lượng; số lượng học sinh bồi dưỡng; chỉ tiêu phấn
đấu đạt giải … và bản thân đã thực hiện nghiêm túc theo kế hoạch. Song song đó, Ban giám
hiệu – trực tiếp là đồng chí Phó Hiệu trưởng chuyên môn của trường thường xuyên kiểm tra,
nhắc nhở việc bồi dưỡng học sinh giỏi của giáo viên để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi c
ủa
trường đạt được kết quả cao nhất.

2. Chọn đối tượng bồi dưỡng và thường xuyên thực hiện công tác tư tưởng với học sinh
tham gia bồi dưỡng:

Như chúng ta đã biết theo quy chế thi học sinh giỏi thì đối tượng được thi học sinh giỏi
là những học sinh đang học lớp 9 tại trường, có học lực ở học kỳ I của năm đang h
ọc đạt từ
loại khá trở lên, hạnh kiểm đạt loại tốt và trung bình môn thi học sinh giỏi đạt từ 8,0 trở lên.
Những năm qua việc chọn đối tượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý ở trường về
cơ bản được nhiều thuận lợi do:
- Đa số học sinh khối 9 đều có hứng thú và đam mê môn Địa lý. Vì vậy, học sinh đăng
ký dự thi khá tương
đối, bình quân mỗi năm có trên 05 học sinh.



- Số học sinh khối 9 của trường khá đông. Hàng năm, bình quân trường có trên 150 học
sinh khối 9 được bố trí từ 05 đến 06 lớp. Do đó, sức ép về vấn đề chọn số lượng học sinh
tham gia bồi dưỡng là không đáng kể so với các trường khác.
- Môn Địa lý ở trường là môn có truyền thống đạt giải trong các kỳ thi chọn học sinh
giỏi cấp huyện, tỉnh nên cũng thu hút học sinh đăng ký tham gia bồi d
ưỡng.
Tuy nhiên bên cạnh những thuận lợi bước đầu đó, trong quá trình bồi dưỡng bản thân
cũng gặp một số khó khăn từ học sinh (và cũng có thể bắt gặp đối với những giáo viên đang

bồi dưỡng học sinh giỏi), đó là:
- Do nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan nên một số học sinh có sự mâu thuẫn,
chưa thông suốt giữa học sinh giỏi ở lớp với học sinh gi
ỏi cấp huyện, tỉnh bộ môn: học sinh
nghĩ rằng tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi sẽ ảnh hưởng đến thành tích học ở lớp và ngược
lại, vì vậy một số em vẫn tham gia bồi dưỡng nhưng mang tính hình thức, thiếu tập trung.
- Do nhận thức của phụ huynh còn hạn chế: bồi dưỡng học sinh giỏi không còn thời
gian phụ tiếp chuyện gia đình.
- Phải đi h
ọc bù, học thể dục, học thêm, tham gia các phong trào khác của lớp, trường
.v.v.
Xuất phát từ những khó khăn trên, bản thân đã thường xuyên động viên, khuyến khích
và kiên trì phân tích cho học sinh thấy được phải làm như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất
trong công việc mà vẫn sử dụng hợp lý quỹ thời gian. Vì nếu suy cho cùng việc bồi dưỡng
học sinh giỏi muốn thành công hay thất bại nhờ vào vai trò của người giáo viên – người giáo
viên m
ới gặp những “lực cản” mà buông xuôi thì khó có thể thành công. Do đó, có ý kiến
cho rằng người giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi được ví như đạo diễn của bộ phim, còn học
sinh là những diễn viên thực hiện theo ý định của đạo diễn, nhưng đạo diễn cũng cần biết
quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của diễn viên.

3. Giáo viên bồi dưỡng nên biên soạn tài liệu theo từng chuyên đề củ
a nội dung bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý:

Có thể cho rằng đây là biện pháp mang tính bền vững đối với công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Địa lý. Từ thực tế kinh nghiệm bồi dưỡng những năm qua cho thấy nội dung
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý rất phong phú được trải đều ở 03 khối lớp 6, 8, 9 và ở
mỗi khối lớp lượng kiến th
ức cần truyền đạt cho học sinh là vô hạn, giáo viên bồi dưỡng rất

khó xác định được nội dung kiến thức nào cần bồi dưỡng trước cho học sinh, nội dung nào
không quan trọng để giới hạn, đặc biệt là phần Địa lý tự nhiên Việt Nam (khối 8) và Địa lý
kinh tế - xã hội Việt Nam (khối 9), bên cạnh đó trong một vài trường hợp người giáo viên
không thể bồi dưỡng kiến thức trong sách giáo khoa theo một trình tự
cố định hết Bài 1 đến
Bài 2, Bài 3 …do không đủ thời gian hoặc do kiến thức được sắp xếp theo từng phần, từng
chương theo phương pháp dàn trải. Chính vì thế, bản thân đã tiến hành soạn tài liệu riêng
theo từng chuyên đề của nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi.
Từ nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi các năm qua theo tôi có các chuyên đề cơ bản sau:
- Chuyên đề về Trái đất (khối 6).
- Chuyên đề
Địa lý tự nhiên Việt Nam (khối 8).
- Chuyên đề Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam (khối 9).
- Chuyên đề về Kỹ năng vẽ, phân tích và nhận xét các loại biểu đồ (chủ yếu ở khối 9).


Như vậy, từ các chuyên đề trên giáo viên cần tìm những tài liệu liên quan để biên soạn,
và thông thường các chuyên đề này được giảng dạy chuyên sâu hơn ở chương trình Địa lý
lớp 12 – Nâng cao (đối với khối 8, 9) và chương trình Địa lý lớp 10 – Nâng cao (đối với khối
6), hay được tập trung trong các bộ đề thi tốt nghiệp lớp 12, thi Cao đẳng, Đại học môn Địa
lý. Đối với bản thân, tài liệu biên soạn chủ yếu dựa vào các nguồn:
- Hướng dẫn học và khai thác Atlat Địa lý Việt Nam (Tác giả: GS-TS Lê Thông, PGS-
TS Nguyễn Minh Tuệ, Vũ Đình Hòa do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh xuất bản năm 2008).
- Ôn tập Địa lý theo chủ điểm (Tác giả: GS-TS Nguyễn Viết Thịnh, PGS-TS Đỗ Thị
Minh Đức do Nhà xuất bản Đại học Sư phạm xuất bản năm 2005).
- Chuyên đề Địa lý 12: Phần Địa lý tự nhiên - dân cư và phầ
n Địa lý kinh tế - xã hội
Việt Nam (Tác giả: PGS-TS Nguyễn Đức Vũ do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam xuất bản
năm 2009).

- Tuyển chọn những bài ôn luyện thực hành kỹ năng môn Địa lý (Tác giả: Đỗ Ngọc
Tiến, Phí Công Việt do Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 2002).
- Một số đề thi học sinh giỏi môn Địa lý cấp THCS, THPT và tốt nghiệp CĐ, ĐH (sưu
tầm).
Khi đã biên soạn được tài liệu giáo viên rất thuận lợi trong việc bồi dưỡng cho học sinh
vì lượng kiến thức đã được định trước, đồng thời hạn chế việc mất thời gian và có thể bồi
dưỡng theo sở thích của mình.

4. Về nội dung và phương pháp bồi dưỡng:

Giáo viên nên bồi dưỡng những chuyên đề cơ bản, trọng tâm trước và ưu tiên thời
lượng cho nhữ
ng chuyên đề này, hoặc trên cơ sở “phán đoán” sở trường hay sở thích của
người ra đề mà có thể bồi đưỡng trước những chuyên đề đó (đương nhiên điều này chỉ mang
ý nghĩa tương đối và thực tiễn những năm qua cho thấy đề thi học sinh giỏi thường tập trung
vào phần đặc điểm và ảnh hưởng của khí hậu Việt Nam đến phát triển kinh tế), hay bản thân
thích nh
ất chuyên đề nào thì bồi dưỡng trước, nhưng không nên bồi dưỡng theo phương pháp
từ thấp lên cao theo hướng: khối 6 → khối 8 → khối 9 → biểu đồ vì dễ mất thời gian nhưng
hiệu quả không cao do các chuyên đề có mối liên hệ với nhau không nhiều (ví dụ: chuyên đề
về Trái đất với chuyên đề về Địa lý tự nhiên Việt Nam) . Theo kinh nghiệm của bản thân, tôi
áp dụng theo quy trình sau:
Trước tiên, tôi phát tài liệu biên soạn c
ủa cá nhân phần Địa lý kinh tế - xã hội Việt nam
(khối 9) để học sinh tự nghiên cứu vì phần này các em đã và đang được học trên lớp do đó
giáo viên có điều kiện mở rộng kiến thức cho học sinh, đồng thời đối với học sinh các em
cũng có điều kiện khắc sâu kiến thức, nâng cao khả năng tư duy, các kỹ năng địa lý bước đầu
cũng được phát triể
n. Tiếp theo, giáo viên bồi dưỡng phần Địa lý tự nhiên (khối 8) và Địa lý
về Trái đất (khối 6) vì hai phần này học sinh đã được học ở các lớp dưới giáo viên chỉ cần ôn

tập lại cho học sinh thông qua nội dung đang học ở khối 9. Sau cùng, giáo viên tập trung vào
kỹ năng vẽ và nhận xét các loại biểu đồ.
Cũng cần nói thêm rằng, mỗi giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý đều có
nhữ
ng điểm giống nhau như: khung chương trình bồi dưỡng, trình độ tay nghề, sự nhiệt tình,
trình độ học sinh, phương tiện phục vụ bồi dưỡng (Atlat, compa, thước đo độ, máy tính …)
… nhưng kết quả đạt được có sự khác biệt vì mỗi giáo viên có hình thức tổ chức và phương

pháp bồi dưỡng khác nhau. Sau đây xin trình bày một số phương pháp bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Địa lý mà bản thân đã thực hiện trong các năm qua.

a). Sử dụng phương pháp sơ đồ hóa trong bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý:

Phương pháp sử dụng sơ đồ hay đầy đủ là phương pháp sử dụng sơ đồ Grap được sử
dụng khá phổ biến trong dạy học Địa lý để
thể hiện mối quan hệ nhân - quả trong địa lý. Do
cấu trúc của chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi phân phối trải rộng ở 03 khối lớp nhưng
giữa các khối lớp có mối liên hệ hữu cơ với nhau theo một trình tự, đặc biệt là khối 8 với
khối 9. Vì thế, giáo viên bồi dưỡng khi sử dụng sơ đồ Grap cần đặt nó trong mối liên hệ mắc
xích, không thể tách r
ời.
* Cấu tạo của một sơ đồ Grap gồm:

- Các đỉnh: thể hiện bằng các ô vuông chứa đựng các đặc điểm, khái niệm.
- Các nhánh: thể hiện bằng các mũi tên thể hiện các mối liên hệ giữa các yếu tố, đối
tượng địa lý với nhau.
* Các kiểu sơ đồ Grap thường dùng:

- Grap chứng minh hay giải thích: dùng để thể hiện, phản ánh nội dung bài dạy một
cách trực quan nhất.

- Grap tổng hợp: dùng để tổng hợp, ôn tập, tổng kết hay hệ thống một chương, một
phần kiến thức các bài học.
- Grap kiểm tra, đánh giá: dùng để phản ánh năng lực tiếp thu sự hiểu biết của học
sinh, đồng thời giúp giáo viên kịp thời điều chỉnh n
ội dung truyền đạt.
* Cách sử dụng sơ đồ Grap:

- Giáo viên vừa giảng bài, tổ chức cho học sinh tìm ra kiến thức và các mối liên hệ
chủ yếu vừa xây dựng sơ đồ Grap. Kết thúc buổi bồi dưỡng thì việc xây dựng sơ đồ cũng
hoàn thành và nội dung bồi dưỡng (nội dung bài học) được thể hiện một cách trực quan bằng
sơ đồ.
- Giáo viên có thể xây dựng sẵn sơ đồ câm và đặt câu hỏi hướng học sinh phân tích
các mối quan h
ệ trên sơ đồ để giải thích nội dung học tập đồng thời có các ví dụ cụ thể để
chứng minh.
- Giáo viên cũng có thể xây dựng sơ đồ câm kết hợp với các phiếu học tập đã chuẩn
bị trước rồi yêu cầu học sinh thảo luận nhóm tìm ra kiến thức. Cuối cùng, giáo viên khẳng
định lại vấn đề đúng sai và học sinh tự hoàn thiện sơ đồ trên c
ơ sở kiến thức tìm được.
* Ưu điểm của phương pháp sử dụng sơ đồ Grap:

Việc sử dụng sơ đồ Grap đã được thực hiện khá lâu trong dạy học địa lý do có nhiều
ưu điểm nổi bật và thật sự nổi bật hơn trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn toàn ngành đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin thông qua vẽ bản đồ tư duy trong dạy học và thực chất
của việc vẽ bản đồ tư duy chính là phương pháp sử
dụng sơ đồ Grap trong dạy học địa lý.
Phương pháp này có những ưu điểm:
- Hạn chế việc mất thời gian của giáo viên so với phương pháp dạy từng tiểu mục,
từng phần.
- Học sinh có thể mở rộng, đào sâu kiến thức, nhất là các kiến thức mang tính tổng

quan, khái quát.
- Giúp học sinh đễ nhớ và khắc sâu kiến thức bằng thói quen tư duy logic thông qua
sơ đồ.

- Học sinh hứng thú học tập bộ môn.

* Một số ví dụ cụ thể:

- Câu 1: Bằng những kiến thức đã học hãy trình bày các vận động chính của Trái đất và
hệ quả của nó.
- Câu 2: Khí hậu nước ta có những đặc điểm gì ? Từ những đặc điểm đó có thuận lợi và
khó khăn gì cho phát triển kinh tế của nước ta ?
- Câu 3: Hãy chứng minh rằng Việt Nam là nước có tiềm năng đa dạng, phong phú để
phát triển du lịch.
- ……
Với các câu hỏi mang tính tổng hợ
p như trên, học sinh giỏi môn địa lý không thể học
thuộc lòng mà thông qua các phương pháp tư duy (so sánh, phân tích, tổng hợp, hệ thống
hóa, khái quát hóa) và kết hợp vận dụng các kỹ năng địa lý dưới sự hướng dẫn của giáo viên
phải trình bày đầy đủ và chính xác yêu cầu của đề bằng con đường ngắn nhất là vẽ sơ đồ
Grap.
































- Câu 1























-
-





















Trái đất
Tự quay quanh trục Chuyển động quanh mặt trời
Thời gian
………….
………….
………….
Hướng
………….
………….
………….
Vận tốc
………….
………….
………….
Thời gian
………….
………….
………….
Hướng
………….
………….
………….
Trục nghiêng

………….
………….
………….
Hệ quả Hệ quả
Ngày đêm
kế tiếp
nhau
Giờ khác
nhau ở các
nơi
Lệch hướng
vật chuyển
động
Mùa trên
trái đất

Ngày đêm
dài ngắn
theo mùa
Các vành
đai nhiệt
trên trái đất

- Câu 2:


























- Câu 3:


















Nhiệt đới ẩm gió mùa
Khí hậu Việt Nam
Phân hóa đa dạng Thất thường
Nhiệt
đới
……
……
……
……
Ẩm
……
……
……
……
……
Gió
mùa
……
……
……
……
Theo
mùa

……
……
……
……
Bắc
Nam
……
……
……
……
Tây
Đông
……
……
……
……
Nhiệt
độ
……
……
……
……
Lượng
mưa
……
……
……
……
Thuận lợi:
…………………………

Khó khăn:
…………………………
…………………………
Thuận lợi:
…………………………
Khó khăn:
…………………………
…………………………
Khó khăn
……………………
……………………
……………………
Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch tự nhiên Tài nguyên du lịch nhân văn
Di
sản
thiên
nhiên
……
……
Vườn
quốc
gia
……
……
……
Hang
động
……
……

……
……
Bãi
biển
……
……
……
……
Thắng
cảnh
……
……
……
……
Di
sản
văn
hóa
……
……
Di
tích
lịch
sử
……
……
Lễ
hội
……
……

……
……
Làng
nghề
……
……
……
……
Ẩm
thực
……
……
……
……

Như vậy, sau khi có được nội dung của đề bài vấn đề đặt ra là học sinh phải tạo được sơ
đồ cho từng câu hỏi và dựa vào sơ đồ đó học sinh thuyết trình sơ đồ bằng ngôn ngữ viết vào
bài làm kết hợp với quá trình khai thác kiến thức từ Atlat Địa lý Việt Nam.

b). Sử dụng Atlat Địa lý Việt Nam trong bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý:

Đa số giáo viên giả
ng dạy địa lý nói chung và giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi nói
riêng đều cố gắng rèn luyện cho học sinh những kỹ năng cần thiết để khai thác kiến thức từ
bản đồ và Atlat địa lý và thông thường chúng ta tiến hành theo các bước sau:
- Bước 1: Nắm vững các ký hiệu chung ở trang bìa của Atlat.
- Bước 2: Tùy theo yêu cầu của câu hỏi mà người sử dụng Atlat lựa chọn một trang hay
nhiều trang atlat khác nhau, đồng thời các trang atlat này có mối liên hệ chặ
t chẽ với nhau
nên phải nắm vững các ký hiệu riêng ở từng trang atlat.

- Bước 3: Thông qua các thao tác tư duy người giáo viên hướng dẫn học sinh tìm vị trí
của đối tượng trên bản đồ và tiến hành mô tả đối tượng (hình dáng, kích thước, quy mô, màu
sắc), cuối cùng xác định các mối liên hệ giữa các đối tượng trên bản đồ để giải thích, làm
sáng tỏ vấn đề.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của bản thân thì đây là các bước khai thác atlat theo
phương pháp chung nhấ
t mà người giáo viên dạy địa lý nào cũng phải thực hiện, nhưng đối
với giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lý ngoài các bước khai thác chung cần có các
bước khai thác riêng. Nói cách khác để học sinh khai thác có hiệu quả kiến thức từ Atlat địa
lý người giáo viên phải nắm vững các phương pháp biểu hiện các đối tượng địa lý trên bản
đồ.
Atlat Địa lý Việt Nam hiện nay có các phương pháp biểu hiện chủ yếu sau:
- Phương pháp ký hiệ
u: hình học, chữ, tượng hình.
- Phương pháp ký hiệu đường chuyển động như : hướng gió, dòng biển, đường giao
thông …
- Phương pháp chấm điểm như : điểm dân cư, quy mô đô thị, trung tâm công nghiệp …
- Phương pháp khoanh vùng như: bãi cá, bãi tôm, phân bố các dân tộc …
- Phương pháp bản đồ - biểu đồ: dùng biểu đồ đặt vào phạm vi của đơn vị lãnh thổ như:
biểu đồ thể hiện diện tích và sản lượ
ng lúa của An Giang và các tỉnh khác ở đồng bằng sông
Cửu Long …
- Phương pháp nền chất lượng (phương pháp thang màu).
Các phương pháp biểu hiện trên được thể hiện ở các trang bản đồ của Atlat trong hai
phần chính của chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lý là: phần địa lý tự nhiên và
phần địa lý kinh tế - xã hội, trong đó:
- Phần Địa lý tự nhiên Việt Nam sử dụng các phương pháp biểu hiện chủ y
ếu là:
phương pháp thang màu, phương pháp ký hiệu và phương pháp ký hiệu đường chuyển động.
- Phần Địa lý kinh tế - xã hội Việt Nam sử dụng các phương pháp chủ yếu như: phương

pháp bản đồ - biểu đồ và phương pháp ký hiệu.
Thế thì vì sao người giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi môn địa lý phải nắm vững các
phương pháp biểu hiện các đối tượng địa lý trên Atlat ?


Vì: các đối tượng địa lý trên bề mặt đất thông qua các phương pháp biểu hiện đã hàm chứa
một kho kiến thức đồ sộ về địa lý nước nhà chứ không đơn thuần là một ký hiệu sơ cứng:
trong ký hiệu có kiến thức và kiến thức thể hiện qua ký hiệu.
Khi bồi dưỡng cho học sinh về địa lý của một ngành kinh tế hay một vùng kinh tế nào
đó, học sinh không thể học thuộ
c lòng một cách “máy móc” các số liệu hay đọc “thao thao”
về sự phân bố, mà bắt buộc học sinh phải khai thác kiến thức từ atlat kết hợp với các thao tác
tư duy đồng thời phải nắm được mối liên hệ lôgic của chúng.
Như vậy, ở đây người giáo viên bồi dưỡng phải hướng dẫn học sinh nắm được mối liên
hệ lôgic của địa lý ngành kinh tế hoặc vùng kinh tế. Qua thực tế, tôi th
ấy địa lý một ngành
kinh tế có mối liên hệ như sau:
- Vai trò của ngành kinh tế đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố của ngành kinh tế.
- Tình hình phát triển và phân bố của ngành. (thông thường được thể hiện đầy đủ trong
Atlat qua các biểu đồ và thang màu)
- Phương hướng, giải pháp phát triển của ngành trong thời gian tới.
Ví dụ:
Đối với câu hỏi: Bằng những kiến thức đã học hãy trình bày tình hình phát triển
và phân bố ngành thủy sản ở nước ta. Vì sao nước ta có thế mạnh để phát triển ngành thủy
sản.
Với câu hỏi này người giáo viên bồi dưỡng phải hướng dẫn học sinh nắm được mối liên
hệ lôgic của địa lý ngành thủy sản và hướng dẫn học sinh khai thác từ Atlat Địa lý Việt Nam:
* Tình hình phát triển và phân bố ngành th
ủy sản ở nước ta: sử dụng atlat trang 20

Toàn bộ trang Atlat (phần thủy sản) chỉ sử dụng hai phương pháp biểu hiện là: phương
pháp bản đồ – biểu đồ và phương pháp nền chất lượng, trong đó:
- Phương pháp bản đồ - biểu đồ có biểu đồ sản lượng thủy sản của cả nước qua các năm
từ năm 2000 đến năm 2007, biểu đồ sản lượng thủy sản của các t
ỉnh năm 2007 được đặt
trong bản đồ 63 tỉnh, thành của Việt Nam.
- Phương pháp nền chất lượng: có 06 thang màu thể hiện 06 mức giá trị sản xuất thủy
sản trong tổng giá trị sản xuất nông-lâm-thủy sản ở 63 tỉnh, thành (từ dưới 5% đến trên 50%)
Như vậy, trước tiên người giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết được có những
phương pháp biểu hiện địa lý nào trên Atlat, từ nh
ững phương pháp biểu hiện đó xác định có
những đối tượng địa lý nào được biểu hiện. Tiếp theo, hướng dẫn học sinh chuyển số liệu từ
biểu đồ sản lượng thủy sản của cả nước từ năm 2000 đến năm 2007 trên Atlat thành bảng số
liệu sau:

Bảng: Sản lượng thủy sản của nước ta từ năm 2000 đến năm 2007. Đơ
n vị: nghìn tấn.

Năm Tổng số Khai thác Nuôi trồng
2000 2250,5 1660,9 589,6
2005 3474,9 1987,9 1487,0
2007 4197,8 2074,5 2123,3

Tiếp theo, học sinh căn cứ vào bảng số liệu (cột dọc, cột ngang) rút ra những nhận xét
cần thiết nhất.
*Về phân bố thủy sản: giáo viên hướng dẫn học sinh xem chú giải riêng của trang Atlat
để trình bày. Kết quả có được là:

- Khai thác: tập trung nhiều ở các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, Bà Rịa- Vũng Tàu, Bình
Thuận.

- Nuôi trồng: tập trung chủ yếu ở các tỉnh Cà Mau, An Giang, Bến Tre.
- Những tỉnh trọng điểm về ngành thủy sản tập trung ở hai vùng là: Đồng bằng sông
Cửu Long và Duyên hải Nam Trung Bộ (học sinh xem 06 thang màu)
* Vì sao nước ta có thế mạnh phát triển ngành thủy sản:

Giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng kiến thức đã học (các nhân tố ảnh hưởng đến
sự phát triển và phân bố ngành kinh tế) kết hợp với khai thác kiến thức ở Atlat trang 20 để
giải thích.
Trên đây là một ví dụ tiêu biểu về khai thác kiến thức từ Atlat. Ngoài ra, đối với câu hỏi
trên, giáo viên bồi dưỡng có thể áp dụng với những ngành kinh tế khác như: ngành chăn
nuôi, cây công nghiệp, lúa (Atlat trang 19); lâm nghiệp – th
ủy sản (Atlat trang 20); các
ngành công nghiệp (trang 21); thương mại (trang 24); du lịch (trang 25); 07 vùng kinh tế (các
trang còn lại của Atlat).
Bên cạnh phần Địa lý kinh tế - xã hội là phần Địa lý tự nhiên, qua kinh nghiệm bồi
dưỡng, tôi thấy các thành phần tự nhiên của thiên nhiên Việt Nam như: địa hình (Atlat trang
6, trang 7); khí hậu (Atlat trang 9); sông ngòi (trang 10); đất (trang 11); thực – động vật
(trang 12) và các miền tự nhiên (trang 13; 14) được thể hiện chủ yếu bằng phương pháp ký
hiệu, phương pháp ký hiệu đường chuyển động và ph
ương pháp thang màu. Do đó, giáo viên
cần tập trung hướng dẫn học sinh phân tích thang màu cùng các ký hiệu chung và ký hiệu
riêng ở các trang Atlat nói trên kết hợp với việc sử dụng sơ đồ Grap như đã trình bày thì đã
làm sáng tỏ được yêu cầu của đề bài.

c). Giáo viên bồi dưỡng phải hình thành các kỹ năng về biểu đồ trong bồi dưỡng học sinh
giỏi môn Địa lý:

Trong nội dung thi học sinh giỏi môn địa lý cấp trung học cơ sở
có các dạng biểu đồ
sau:

- Biểu đồ tròn.
- Biểu đồ cột (đơn, ghép, thanh ngang, cột chồng).
- Biểu đồ đường.
- Biểu đồ kết hợp cột với đường.
- Biểu đồ miền.
Qua thực tế bồi dưỡng, vấn đề khó nhất đối với việc hình thành các kỹ năng về biểu đồ
cho học sinh là kỹ năng lựa chọn được biểu
đồ thích hợp nhất, còn các kỹ năng khác như:
tính toán - xử lý số liệu; kỹ năng vẽ, phân tích và nhận xét các loại biểu đồ đa phần học sinh
đều vận dụng thành thạo. Do đó, xin được chia sẻ về kỹ năng làm sao lựa chọn được biểu đồ
thích hợp nhất.
Các loại biểu đồ rất phong phú, đa dạng. Mỗi loại biểu đồ lại có thể đượ
c dùng để biểu
hiện nhiều mục đích khác nhau. Vì vậy, khi lựa chọn biểu đồ cần vẽ việc đầu tiên là học sinh
phải đọc kỹ câu hỏi, xem câu hỏi yêu cầu vẽ biểu đồ gì. Đây là căn cứ quan trọng nhất. Tuy
nhiên, đối với học sinh giỏi thì yêu cầu về mức độ tư duy có cao hơn, nên trong những năm
qua đề bài không yêu cầu vẽ dạng biểu đồ
cụ thể.
Ví dụ: Dựa vào bảng số liệu trên hãy vẽ biểu đồ tròn
thể hiện quy mô và cơ cấu các
nhóm đất chính ở nước ta năm 2000 và 2005 – với yêu cầu như trên thì không kích thích

được quá trình tư duy, đồng thời không phân hóa được học sinh, chưa thể hiện được năng lực
độc lập suy nghĩ và sáng tạo khi vẽ biểu đồ.
Tuy vậy, giáo viên và học sinh cũng cần lưu ý: nếu đề bài yêu cầu vẽ dạng biểu đồ cụ
thể thì bắt buộc phải đáp ứng theo yêu cầu của đề bài.
Ví dụ: Qua bảng số liệu trên hãy vẽ biểu đồ tròn
thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu khách
du lịch ở nước ta qua các năm 2001, 2003, 2005, 2007, 2009: như vậy rõ ràng rằng đề bài
yêu cầu vẽ biểu đồ tròn ( ta hiểu ngầm là 05 biểu đồ), thế nhưng trong một số trường hợp học

sinh lại vẽ biểu đồ miền, và điều đó đồng nghĩa với việc học sinh không đọc kỹ yêu cầu của
câu hỏ
i và làm trái yêu cầu của đề.
Như trên đã trình bày, đối với học sinh giỏi thì yêu cầu về mức độ tư duy có cao hơn
học sinh bình thường, do đó trong các kỳ thi chọn học sinh giỏi cấp huyện, tỉnh đề bài
thường yêu cầu: “hãy vẽ biểu đồ thích hợp thể hiện…” hay “hãy vẽ biểu đồ thích hợp nhất
thể hiện…”. Ở đây, đề bài không nói rõ dạng biểu
đồ cần vẽ, vì vậy giáo viên hướng dẫn học
sinh phân tích kỹ câu hỏi và bước tiếp theo yêu cầu học sinh xác định được chức năng của
các dạng biểu đồ.
Mỗi dạng biểu đồ có chức năng không giống nhau. Căn cứ vào chức năng của biểu đồ
kết hợp với yêu cầu của câu hỏi trong đề bài phần nào học sinh sẽ lựa chọn được d
ạng biểu
đồ thích hợp hay thích hợp nhất. Từng dạng biểu đồ có các chức năng cơ bản sau:
- Biểu đồ cột (đứng, ghép, thanh ngang): thể hiện quy mô, độ lớn, khối lượng, tình hình
phát triển.
- Biểu đồ cột chồng: thể hiện tương quan về quy mô, độ lớn, khối lượng, tình hình phát
triển, cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu.
- Biểu đồ đường: thể hi
ện tình hình phát triển của đối tượng địa lý theo thời gian.
- Biểu đồ tròn: thể hiện cơ cấu và quy mô của đối tượng, chuyển dịch cơ cấu ( từ 02 đến
03 biểu đồ).
- Biểu đồ miền: thể hiện cơ cấu của đối tượng, chuyển dịch cơ cấu (nhiều năm).
- Biểu đồ kết hợp cột và đường: thể hiện quy mô,
độ lớn, khối lượng và tương quan
giữa các đối tượng.
Qua chức năng của các dạng biểu đồ, giáo viên hướng dẫn học sinh như sau:
→ Nếu yêu cầu của đề có cụm từ: hãy vẽ biểu đồ thích hợp nhất thể hiện “sự phát
triển”, “tăng trưởng”, “tốc độ tăng” … thì vẽ biểu đồ đường.
→ Có cụm từ: “cơ cấu” liên quan

đến biểu đồ tròn, “chuyển dịch cơ cấu” liên quan đến
biểu đồ miền.
Sau khi căn cứ vào yêu cầu của câu hỏi cũng như căn cứ vào chức năng của các dạng
biểu đồ nhưng học sinh vẫn chưa chắc chắn, cuối cùng giáo viên hướng dẫn học sinh căn cứ
vào bảng số liệu theo quy ước sau:
- Đối với bảng số liệu th
ể hiện thời gian theo khoảng cách (1995- 2000; 2000- 2005;
2005-2010;…) thì không vẽ được biểu đồ đường vì biểu đồ đường chỉ được vẽ trong trường
hợp thời gian được thể hiện theo thời điểm (2000, 2002, 2004, 2006, 2008 …).
- Đối với bảng số liệu thể hiện theo giá thực tế (đơn vị: tỷ đồng) thì không vẽ được biểu
đồ cột vì các cột chênh lệch nhau về độ cao rất lớn và không so sánh vớ
i nhau được giá trị
theo thời gian vì giá thực tế khác nhau.
- Đối với bảng số liệu có thể vẽ được cả biểu đồ cột chồng và biểu đồ miền thì căn cứ
vào mốc thời gian để chọn một loại biểu đồ thích hợp nhất: nếu mốc thời gian ít (chẳng hạn 3

năm) thì vẽ biểu đồ cột chồng; nếu mốc thời gian nhiều (thông thường từ 4 năm trở lên) thì
vẽ biểu đồ miền (để đảm bảo tính trực quan của biểu đồ).
- Đối với bảng số liệu có thể vẽ được cả biểu đồ tròn và biểu đồ cột chồng thì cũng căn
cứ vào mốc thời gian để chọn một loạ
i biểu đồ thích hợp nhất: nếu mốc thời gian ít (thông
thường 2 năm) thì vẽ biểu đồ tròn; nếu mốc thời gian nhiều (thông thường từ 3 năm trở lên)
thì vẽ biểu đồ cột chồng.
- Đối với bảng số liệu yêu cầu vẽ biểu đồ kết hợp, cần xác định đúng loại biểu đồ phù
hợp với từng loại chỉ tiêu trong bảng. Ví d
ụ: bảng số liệu yêu cầu vẽ biểu đồ kết hợp cột với
đường thì cần xác định chỉ tiêu nào cần thể hiện theo đường, chỉ tiêu nào cần thể hiện theo
cột (Biểu đồ thể hiện nhiệt độ và lượng mưa: đường biểu diễn thể hiện nhiệt độ, hình cột thể
hiện lượng mưa), hay bảng số liệu yêu cầu vẽ
biểu đồ kết hợp cột chồng và đường thì cũng

cần xác định chỉ tiêu nào được thể hiện bằng cột chồng, chỉ tiêu nào được thể hiện bằng
đường (Biểu đồ khách du lịch và doanh thu từ du lịch ở atlat trang 25.
- Trong bảng số liệu có cụm từ “chia ra”, “phân ra”, “trong đó”,… thì liên hệ đến các
biểu đồ thể hiện cơ cấu (tròn, cột chồng, miền).
- Trong bảng số li
ệu có hai hoặc ba đối tượng với hai đại lượng khác nhau, có mối quan
hệ hữu cơ với nhau thì vẽ biểu đồ kết hợp.
- Đối với bảng số liệu mà thời gian cho một năm, hay nhiều năm thì: trường hợp cho 1
năm không vẽ được biểu đồ đường, 2 năm vẽ được biểu đồ tròn hay cột chồng, 4 năm trở lên
vẽ biểu đồ miền.
Nhìn chung, qua các c
ăn cứ để lựa chọn dạng biểu đồ thích hợp vừa nêu trên phần lớn
học sinh do bản thân bồi dưỡng đã vận dụng thành thạo các căn cứ để có thể lựa chọn được
biểu đồ thích hợp. Tuy vậy, khi vẽ bất kỳ dạng biểu đồ nào người giáo viên cũng phải đảm
bảo được 3 yêu cầu:
- Khoa học (chính xác, không được sai số).
- Trực quan (rõ ràng, d
ễ đọc).
- Thẩm mỹ (đẹp).

III. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

Từ năm học 2005 – 2006 đến năm học vừa qua 2010 – 2011 bản thân đã thực hiện các
biện pháp đã nêu trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 và kết quả đạt được
là khả quan: hàng năm trường đều có học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh môn Địa lý. Cụ thể
theo bả
ng số liệu sau:


Năm học


Số học sinh dự thi
Số học sinh đạt giải
Cấp huyện Cấp tỉnh
2005 - 2006 05 05 04
2006 - 2007 05 02 02
2007 - 2008
Ngành không tổ chức thi học sinh giỏi
2008 - 2009 10 08 /

2009 - 2010 03 01 /
2010 - 2011 03 03 02


C/- PHẦN KẾT LUẬN:

I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM:

Từ những kết quả đã đạt được trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi những năm qua,
bản thân đúc kết được những kinh nghiệm sau:
- Thứ nhất, người giáo viên cần xây dựng kế hoạch cụ thể trong việc bồi dưỡng học
sinh giỏi vì qua kinh nghiệm bản thân thấy rằng: kế hoạch vừa là kim ch
ỉ nam cho người
giáo viên thực hiện, đồng thời vừa là động lực để người giáo viên phấn đấu tốt hơn trong quá
trình bồi dưỡng. Hơn thế nữa, thông qua kế hoạch còn được lãnh đạo nhà trường kịp thời
động viên, khuyến khích, tháo gở những khó khăn khi bồi dưỡng, và điều này đồng nghĩa
với việc lãnh đạo nhà trường đã thể hiện sự quan tâm đến việc bồi d
ưỡng học sinh giỏi của
giáo viên. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công trong công tác bồi
dưỡng học sinh giỏi.

- Thứ hai, người giáo viên phải thật sự có tâm huyết với công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi.Từ sự tâm huyết, nhiệt tình đó người giáo viên mới có thể từng bước thực hiện công
việc bồi dưỡng như: biên soạn tài liệu, chọn phương pháp bồi dưỡng hay san sẻ những khó
khăn của học sinh trong quá trình bồi dưỡng (kể cả khó khăn từ phía gia đình, khó khăn
trong học tập của các em) … chỉ có như thế mới mang lại thành công cho giáo viên bồi
dưỡng.
- Thứ ba, người giáo viên bồi dưỡng học sinh giỏi phải có tinh thần tự học suốt đời,
không ngừng tìm tòi, học tập, nghiên cứu tài liệu, cập nhật những kiến thức, thông tin trên tất
cả các lĩnh vực qua báo, đ
ài, Internet, thực tiễn cuộc sống … để phục vụ cho việc bồi dưỡng.
Tuy nhiên, với vai trò là người giáo viên bồi dưỡng bản thân chưa thật sự hài lòng với
kết quả trên vì tuy hàng năm có học sinh đạt giải cấp huyện, tỉnh nhưng số lượng học sinh
đạt giải chưa nhiều. Do vậy, trong những năm học tiếp theo bản thân sẽ không ngừng tổng
kết, rút kinh nghiệm, không ngừng họ
c hỏi để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi ngày càng ổn
định, phát triển theo hướng bền vững.

II. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

Với những kết quả trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi những năm qua đã mang lại
nhiều ý nghĩa hữu ích, thiết thực cho bản thân nói riêng và cho học sinh, tổ chuyên môn,
trường, ngành nói chung.
- Đối với tổ chuyên môn, trường và ngành:
từ kết quả trên góp phần nâng cao chất
lượng giảng dạy của tổ, của trường và đóng góp nhỏ bé vào thành tích chung cho tổ, trường
nói riêng và phong trào bồi dưỡng học sinh giỏi của huyện nói chung.
- Đối với bản thân:
thông qua việc bồi dưỡng học sinh giỏi có điều kiện thuận lợi để
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; trau dồi, học hỏi mở rộng thêm kiến thức, đồng
thời với thành tích trên đã tạo nền tảng vững chắc để bản thân tiếp tục bồi dưỡng học sinh

giỏi trong những năm tiếp theo mà trước mắt là năm học 2011 – 2012 .
- Đối với họ
c sinh: học sinh hứng thú học tập môn Địa lý và ngày càng tích cực hơn
trong quá trình giảng dạy chính khóa trên lớp. Ngoài ra, các em còn thực hiện thành thạo
những kỹ năng địa lý khi được học lên bậc trung học phổ thông, và nhiều học sinh giỏi môn
Địa lý ở lớp 9 tiếp tục được bồi dưỡng trong đội tuyển học sinh giỏi môn Địa lý lớp 12.


III. PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA ĐỀ TÀI:

Qua một số kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi môn Địa lý khối 9 của bản thân tin
tưởng rằng quý thầy; cô đã, đang và sẽ bồi dưỡng học sinh giỏi nói chung và môn Địa lý nói
riêng, đặc biệt là quý thầy cô đang công tác ở vùng sâu, vùng xa, biên giới như huyện An
Phú có thể xem đây là một tài liệu tham khảo, một kênh thông tin hữu ích để phục vụ cho
việc bồi dưỡ
ng học sinh giỏi để tô thắm thêm kết quả bồi dưỡng học sinh giỏi, góp phần làm
rạng rỡ thêm thành tích dạy và học của ngành giáo dục huyện nhà An Phú thân yêu nói riêng
và quê hương An Giang nói chung.

IV. NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT:

- Hàng năm, ngành cần mở các lớp tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ môn Địa lý cho
tất cả giáo viên đang dạy Địa lý vì thông qua các lớp tập huấn, đặc biệt là tập huấn v
ề chuyên
môn mỗi giáo viên có cơ hội học tập, tiếp thu được nguồn kiến thức mới, bổ ích phục vụ cho
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi mà năm học 2010 – 2011 vừa qua là một điển hình. (tháng
10/2010 Sở mời PGS – TS Nguyễn Đức Vũ thuộc Đại học Huế về tập huấn chuyên môn cho
giáo viên dạy Địa lý cấp THCS).
- Cần tạo điều kiện cho giáo viên và học sinh đạt thành tích trong các kỳ thi ch
ọn học

sinh giỏi được đi tham quan để nâng cao kiến thức thực tế.
- Các chế độ khen thưởng và hình thức khen thưởng đối với giáo viên bồi dưỡng và học
sinh đạt giải cần kịp thời và đa dạng hơn. Qua đó, động viên, khích lệ kịp thời tinh thần giáo
viên và học sinh nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.

Đa Phước ngày 26 tháng 10 năm 2011
Người viết
LÊ PHẠM DUY LIÊN


















PHỤ LỤC




Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1

B. PHẦN NỘI DUNG:
2

I/- CỞ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 2
II/- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 3
III/- KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 13

C. PHẦN KẾT LUẬN:
13

I/- NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM 13
II/- Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 13
III/- PHẠM VI ÁP DỤNG 14
IV/- NHỮNG KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT 16

×