Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích và chỉ ra sự thể hiện của chính sách pháp luật hình sự trong bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.35 KB, 17 trang )

Phân tích và chỉ ra sự thể hiện của chính sách
pháp luật hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS) năm 2015.
Bài làm:
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được kỳ họp thứ
10, Quốc hội khóa XIII thong qua ngày 27/11/2015 thay
thế Bộ luật TTHS năm 2003, gồm có 9 phần, 36
chương, 510 điều, so với Bộ luật TTHS năm 2003 tăng
thêm 164 điều, trong đó bổ sung mới 176 điều, sửa đổi
317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều.
Bộ luật TTHS năm 2015 đã kế thừa và phát triển
một bước phát triển một bước pháp luật TTHS của nhà
nước ta, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013,
thể chế chủ trương của đảng về cải cách tư pháp, là
công cụ pháp lý phục vụ việc đấu tranh, phòng, chống
tội phạm, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền con
người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân.
Chính sách TTHS hình sự, là một bộ phận của
chính sách pháp luật hình sự có mối quan hệ mật thiết


với chính sách pháp luật hình sự và thi hành án hình sự
là những định hướng, phương hướng trong xử lý vụ án
Chính sách pháp luật TTHS được thể hiện trong
Nghị quyết 49 NQ-TW ngày 02/6/20105 của Bộ Chính
trị; Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI,
XII của Đảng Cộng sản Việt Nam, các nội dung của
chính sách pháp luật TTHS được thể hiện trong
BLTTHS năm 2015 như sau:
- Xây dựng nền tư pháp theo hướng dân chủ, bình


đẳng, công bằng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng
thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân
dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng
trong tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả
tranh tụng tại phiên tòa làm căn cứ quan trọng để phán
quyết bản án, coi đây là khâu đột phát để nâng cao chất
lượng hoạt động tư pháp.
Nội dụng này được thể hiện trong các nguyên tắc
của Bộ luật TTHS năm 2015, cụ thể tại chương II,
Những nguyên tắc cơ bản, gồm 27 điều, từ điều 7 đến
điều 33. Gồm 27 nguyên tắc trên cơ sở điều chỉnh 30
2


nguyên tắc của Bộ luật TTHS năm 2003 và bổ sung một
số nguyên tắc được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận nhằm
khắc phục những hạn chế của Bộ luật TTHS năm 2003,
đảm bảo các quy định về nguyên tắc cơ bản đúng nghĩa
là những tư tưởng chỉ đạo đối với việc xây dựng và thực
hiện Bộ luật TTHS, tạo cơ sở cho việc hình thành những
chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của các chủ thể
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Nguyên tắc suy đoán vô tội: Điều 13 BLTTHS 2015
quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định và có bản án đã có hiệu lực pháp
luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để
buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định thì cơ quan, người có thẩm quyền phải kết luận
người bị buộc tội không có tội”.

BLTTHS 2015 rất tiến bộ khi quy định cơ quan buộc
tội không chứng minh được tội phạm của bị cáo thì
đồng nghĩa với sự vô tội của bị cáo đã được chứng minh
và tòa phải tuyên bị cáo không có tội. Suy đoán vô tội
3


được thừa nhận cho đến khi bản án kết tội của tòa có
hiệu lực.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo:
Được quy định tại Điều 26 BLTTHS năm 2015. Tài liệu,
chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Viện kiểm sát chuyển
đến Tòa án để xét xử phải đầy đủ và hợp pháp. Mọi
chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình
tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp
dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự để xác định
tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại
đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác
có ý nghĩa giải quyết vụ án đều phải được trình bày,
tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
Trách nhiệm của Tòa án là phải bảo đảm các điều
kiện nói trên theo quy định của BLTTHS 2015 để những
người tham gia tố tụng được thực hiện đầy đủ các quyền
và nghĩa vụ trong việc tranh tụng. Theo đó bản án, quyết
định của Tòa án không chỉ căn cứ vào kết quả kiểm tra,
đánh giá chứng cứ mà còn phải căn cứ vào kết quả tranh
tụng tại phiên tòa.
4



Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
khi những người tiến hành tố tụng và những người tham
gia tố tụng phải được bình đẳng trước pháp luật, khi đưa
ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm
rõ sự thật khách quan vụ án. Tòa án có trách nhiệm tạo
điều kiện cho việc tranh tụng và phải căn cứ vào kết quả
kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại
phiên tòa để ra bản án, quyết định.
Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội
phạm: Điều 14, BLTTHS năm 2015 quy định: “Không
được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà
hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy
hiểm khác cho xã hội mà Bộ luật Hình sự quy định là
tội phạm”. Quy định nguyên tắc này, BLTTHS năm
2015 góp phần tích cực trong việc phòng chống oan sai
và hạn chế việc cơ quan tiến hành tố tụng quy kết võ
đoán đối với người không phạm tội.
Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội
cũng là sự kế thừa và phát huy mặt tích cực của
BLTTHS năm 2003 được quy định tại khoản 4 Điều
5


107, những căn cứ không được khởi tố vụ án hình sự:
“Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án có
hiệu lực pháp luật”.
Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự:
Điều 33, BLTTHS 2015 quy định: “Cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thường xuyên kiểm

tra việc tiến hành các hoạt động tố tụng thuộc thẩm
quyền; thực hiện kiểm soát giữa các cơ quan trong việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án”
Như vậy so với nguyên tắc giám sát trong tố tụng
hình sự được đề cập tại Điều 32 BLTTHS 2003, nguyên
tắc giám sát trong tố tụng hình sự được đề cập trong
BLTTHS 2015 có sự điều chỉnh bổ sung. Bên cạnh việc
giám sát của các cơ quan Nhà nước, Ủy ban MTTQVN
và các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử;
các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng còn
phải thường xuyên tự kiểm tra và thực hiện kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn
tin về tội phạm trong quy trình tố tụng.
6


Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản của cá nhân; Điều 11 BLTTHS năm
2015 quy định: “Mọi người có quyền được pháp luật
bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài
sản. Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân;
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân đều bị
xử lý theo pháp luật. Công dân Việt Nam không thể bị
trục xuất, giao nộp cho Nhà nước khác”.
Quy định công dân Việt Nam không thể bị trục xuất,
giao nộp cho nhà nước khác, được xây dựng trên cơ sở
quy định của Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, khoản 2, Điều 17 nêu: “Công

dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho Nhà
nước khác”.
Quy định mới này thể hiện quan điểm của Nhà nước
ta trước trách nhiệm đối với công dân mang quốc tịch
Việt Nam. Nguyên tắc này của BLTTHS năm 2015
được thực hiện trong phạm vi quy định trình tự, thủ tục
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án
7


hình sự và có hiệu lực đối với mọi hoạt động tố tụng
hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều
tra: Hoạt động điều tra đòi hỏi phải tiến hành trên cơ sở
tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong đó là các quy
định của BLTTHS và các quy định pháp luật nói chung.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra
là nguyên tắc mới được bổ sung trong BLTTHS 2015.
Điều 19 BLTTHS 2015 quy định “Cơ quan điều tra,
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra phải tuân thủ pháp luật khi tiến hành hoạt động
điều tra theo quy định của Bộ luật này. Mọi hoạt động
điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành khách quan,
toàn diện và đầy đủ; phát hiện nhanh chóng, chính xác
mọi hành vi phạm tội, làm rõ chứng cứ xác định có tội
và chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nguyên nhân, điều kiện
phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc

giải quyết vụ án”.
8


- Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp,
nhất là cán bộ có chức danh tư pháp, theo hướng đề cao
quyền hạn, trách nhiệm pháp lý, nâng cao và cụ thể hóa
tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng
loại cán bộ; tiến tới thực hiện chế độ thi tuyển đối với
một số chức danh, nội dung này được thể hiện cụ
thểtrong Bộ luật TTHS năm 2015 như sau:
Quy định về tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán (các điều 37, 42 và
45):
Bổ sung thẩm quyền của Điều tra viên được: (1) Yêu
cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu
cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (2)
Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội
phạm, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người đại
diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Quyết định áp
giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị
bắt, bị tạm giữ; quyết định dẫn giải người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (4) Quyết định giao
9


người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có
trách nhiệm giám sát; (5) Quyết định thay đổi người
giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (6) Thi hành lệnh

phong tỏa tài khoản (Điều 37).
Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát viên: (1) Trực tiếp
giải quyết và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm;
(2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội
phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố,
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Yêu
cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu
cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật;
(4) Bắt buộc có mặt khi Cơ quan điều tra tiến hành đối
chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều
tra, khám xét; (5) Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã,
đình nã bị can; (6) Quyết định áp giải người bị bắt, bị
can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố
giác, bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (7) Quyết định giao
người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân để
giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới
18 tuổi phạm tội (Điều 42)...
10


Tăng thẩm quyền cho Thẩm phán: (1) Quyết định áp
dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện biện pháp cưỡng chế;
(2) Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung
hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc
yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài
sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản; (3) Yêu
cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi
người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (4) Yêu
cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (5)
Quyết định việc thu thập, bổ sung chứng cứ trong giai

đoạn chuẩn bị xét xử (Điều 45).
Mở rộng diện người tiến hành tố tụng (các điều 34,
38, 43 và 48).
Bổ sung diện người tiến hành tố tụng gồm: Cán bộ
điều tra, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên) và quy định rõ
nhiệm vụ của họ khi được phân công giúp việc cho Điều
tra viên, Kiểm sát viên, Chánh án Tòa án .
Bổ sung cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra (Điều 35 và Điều 39): bổ sung cơ
quan Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số
11


hoạt động điều tra nhằm phản ứng kịp thời với tình hình
tội phạm xảy ra trên biển, đồng thời, góp phần khẳng
định chủ quyền biển đảo từ phương diện hoạt động tư
pháp. Đồng thời, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn
của cấp trưởng, cấp phó, Cán bộ điều tra của lực lượng
Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra.
- Những chủ thể mới được quy định bổ sung là
người tham gia tố tụng gồm: (1) Người tố giác, báo tin
về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2) Người bị tố giác,
người bị kiến nghị khởi tố; (3) Người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp; (4) Người bị bắt; (5) Người chứng
kiến; (6) Người định giá tài sản; (7) Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị
khởi tố; (8) Người đại diện theo pháp luật của pháp
nhân phạm tội, người đại diện khác theo quy định của
BLTTHS năm 2015.

-

Về Công khai các hoạt động tố tụng:

Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt: Việc luật hóa
các biện pháp điều tra đặc biệt trong Bộ luật tố tụng
12


hình sự là cần thiết, nhằm cụ thể hóa yêu cầu của Hiến
pháp năm 2013về “Quyền con người, quyền công dân
chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật”; tạo cơ sở
pháp lý thực thi những cam kết về luật hóa biện pháp
điều tra tố tụng đặc biệt trong các công ước quốc tế mà
Việt Nam tham gia trong đó có công ước về đấu tranh
chống tội phạm tham nhũng, ma túy, chống tội phạm có
tổ chức; mở rộng nguồn chứng cứ có giá trị trực tiếp
chứng minh tội phạm trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm
Tố tụng hình sự của các nước.
Điểm đặc trưng cơ bản của biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt là yếu tố bí mật bao gồm bí mật về phương
pháp tiến hành, bí mật về đối tượng áp dụng, bí mật về
các thông tin, tài liệu không liên quan… nhưng lại được
công khai về chứng cứ phục vụ công tác khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử. Đây cũng là điểm khác biệt cơ bản
giữa biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt với biện pháp
điều tra tố tụng thông thường hay biện pháp điều tra
trinh sát.

13



Được quy định tại chương XVI, Bộ luật tố tụng
hình sự 2015: Biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt, gồm
06 điều, từ điều 223 đến 228.
Thời điểm áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc
biệt: Các biện pháp này có thể được áp dụng sau khi
khởi tố vụ án.
Các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt gồm: (1)
Ghi âm, ghi hình bí mật; (2) Nghe điện thoại bí mật; và
(3) Thu thập bí mật dữ liệu điện tử.
Các loại tội có thể áp dụng biện pháp điều tra tố
tụng đặc biệt: (1) Tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội
phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố,
tội rửa tiền; và (2) Tội phạm khác có tổ chức thuộc loại
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự: Nghị
quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
đã xác định: “Tổ chức thực hiện tốt các điều ước quốc
tế mà Nhà nước ta đã tham gia. Tiếp tục ký kết hiệp
định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là
với các nước láng giềng, các nước trong khu vực...
14


Tăng cường sự phối hợp chung trong hoạt động phòng
ngừa và đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế và
khủng bố”
BLTTHS năm 2015 quy định nhiều nội dung mới
về phạm vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự (Điều

491); nguyên tắc của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình
sự (Điều 492); cơ quan trung ương trong hợp tác quốc tế
về tố tụng hình sự (Điều 493); giá trị pháp lý của tài
liệu, đồ vật thu được qua hợp tác quốc tế trong tố tụng
hình sự (Điều 494); việc tiến hành tố tụng của người có
thẩm quyền của Việt Nam ở nước ngoài và người có
thẩm quyền của nước ngoài ở Việt Nam (Điều 495); sự
có mặt của người làm chứng, người giám định, người
đang chấp hành án phạt tù tại Việt Nam ở nước ngoài;
người làm chứng, người giám định, người đang chấp
hành án phạt tù tại nước ngoài ở Việt Nam (Điều 496).
Quy định04 biện pháp ngăn chặn được áp dụng
trong quá trình xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành
quyết định dẫn độ (Điều 502) gồm: Bắt tạm giam người
bị yêu cầu dẫn độ (Điều 503); cấm đi khỏi nơi cư trú,
15


tạm hoãn xuất cảnh (Điều 504); Đặt tiền để đảm bảo
(Điều 505).
Ngoài ra, quy định cụ thể hơn về các vấn đề: Việc
tiếp nhận, chuyển giao tài liệu liên quan đến vụ án (Điều
497); Xử lý trường hợp từ chối dẫn độ công dân Việt
Nam (Điều 498); trình tự, thủ tục xem xét, xử lý yêu cầu
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với công dân Việt Nam
bị từ chối dẫn độ (Điều 499)./.
Học viên

16



17



×