Đề tài
“ Một số biện pháp xây dựng nề nếp tự quản cho học sinh lớp 3 ”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng nói: “Có đức mà không có tài thì làm
việc gì cũng khó, có tài mà không có đức thì là người vô dụng”. Ngày nay khi đất
nước đang đổi mới toàn diện về mọi mặt để đáp ứng với nền công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập toàn cầu mà giáo dục được xem là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng khoa học, đòi hỏi cao ở việc dạy học “Dạy học không chỉ là dạy chữ mà
thông qua dạy chữ để dạy người”. Vì vậy, học ở đây không phải chỉ có học lễ phép,
học kiến thức mà còn học cả việc khi sống trong một tập thể, trong một lớp học
phải có nề nếp học tập thật nghiêm túc - đó chính là “nề nếp lớp tự quản”.
Nề nếp lớp tự quản là yếu tố quan trọng trong quá trình học tập của học sinh,
là cơ sở ban đầu của các tiết học. Bởi vậy là một giáo viên ai cũng phải có trách
nhiệm xây dựng nề nếp học tập và tự quản của học sinh để những buổi học đạt kết
quả cao. Thế nhưng một thực trạng trông thấy hàng ngày đó là các em học sinh bậc
tiểu học rất ham chơi, ít chú tâm đến việc học, vì các em đang tuổi ăn, tuổi lớn, các
em cho rằng đến trường là để được gặp gỡ bạn bè cùng nhau vui chơi nghịch ngợm,
chưa chịu khó học tập, thậm chí các em còn mong khi ngồi trong lớp học không có
thầy cô giáo để trổ tài các trò chơi mình yêu thích, trong khi đó thời gian học tập
của một tiết học cũng không nhiều, nên giáo viên đầu tư công sức vào xây dựng nề
nếp lớp học tự quản cũng còn hạn chế . Điều này khiến tôi băn khoăn trăn trở làm
thế nào để xây dựng được lớp học trật tự có nề nếp tự quản tốt nhằm nâng dần chất
lượng và hiệu quả của giáo dục.
Với những lý do trên, ngay từ đầu năm học 2017-2018, từ giai đoạn ổn định tổ
chức lớp cho đến khi giảng dạy, tôi luôn chú ý, quan tâm đến việc rèn cho lớp nếp
tự quản để các em có tính tự giác, tích cực trong học tập và sinh hoạt và cũng là lí
do khiến tôi chọn đề tài “Một số biện pháp xây dựng nề nếp tự quản cho học sinh
lớp 3”
1. Mục đích đề tài:
a) Đối tượng nghiên cứu
- Mô hình tự quản các nhóm, lớp ở khối 3.
1
- Hiện trạng và nề nếp tự quản của học sinh
b) Cơ sở nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu dựa vào thực trạng nề nếp tự quản của trường tiểu học Ninh
Lộc, và cụ thể là thực trạng nề nếp tự quản của học sinh khối 3 tại trường.
c) Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng nề nếp tự quản lớp học của học sinh.
- Tìm hiểu năng lực tự quản của mỗi học sinh.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức tự quản cho học sinh lớp 3.
2. Phương pháp
a) Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp quan sát, đàm thoại
- Phương pháp trải nghiệm thực tế.
b) Giới hạn của đề tài
Đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi lớp 3, trường tiểu học Ninh Lộc.
II. THỰC TRẠNG
1.
Thuận lợi
- Đa số phụ huynh quan tâm đến việc học của con em nên đã tạo mọi điều kiện để
con em đến trường học tập đầy đủ.
- Được sự quan tâm và ủng hộ của ban giám hiệu nhà trường, sự đồng thuận của
các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường.
- Giáo viên chủ nhiệm lớp nhiệt tình trong công tác, có ý thức trau dồi chuyên môn,
luôn trăn trở suy nghĩ và tìm nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng lớp học.
Khó khăn
- Trong lớp đầu năm có 21 HS/11 nữ, phần lớn các em trong lớp có bố mẹ xuất thân
từ thành phần nông dân, buôn bán nhỏ, trình độ văn hoá thấp không có khả năng
kèm cặp con cái ở nhà. Một số học sinh có hoàn cảnh khó khăn: nhà nghèo, ở với
2.
2
ông bà do cha mẹ mất sớm hoặc làm ăn xa nên ảnh hưởng đến việc học hành của
các em…
- Ngày đầu tiên mới nhận bàn giao học sinh từ lớp dưới lên, tôi nhận thấy các em
thường tỏ vẻ rụt rè, nhút nhát khi giáo viên gọi trả lời câu hỏi, không mạnh dạn giơ
tay phát biểu xây dựng bài, ngại phát biểu trước đông người.
- Các em chưa thể hiện được tinh thần thi đua trong học tập, vào lớp thường không
thuộc bài và làm bài, không mạnh dạn nhận xét góp ý xây dựng bạn.
- Chưa tự giác trong học tập, còn nói chuyện riêng nhiều, hay quên sách vở, bỏ bài
không chịu làm…
- Trong lớp học chưa tự quản lớp tốt, còn ồn dẫn tới chất lượng học tập không cao.
Tuần đầu khi mới nhận lớp, tôi đã quan sát kĩ các biểu hiện của học sinh
trong từng hoạt động và nhận được kết quả khảo sát như sau:
Bảng khảo sát đầu năm học : ( phụ lục 1)
Biểu hiện của những em chưa có ý thức tự quản trong lớp thể hiện rõ nhất là
những khoảng thời gian sinh hoạt 15 phút đầu giờ, các hoạt động tập thể,…các em
chưa tập trung hoạt đông, nói chuyện riêng, làm việc riêng, không hợp tác. Còn
những em có ý thức tự quản nhưng chưa bền thường biểu hiện: khi có mặt giáo
viên thì tỏ ra nghiêm túc nhưng vắng mặt giáo viên hoặc cán sự lớp thì vẫn còn làm
việc riêng…
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Về tâm lý, trẻ em ở lứa tuổi đầu cấp, các em còn rất ngây ngô, dễ tin và rất
nghe lời thầy, cô giáo; đối với các em lớp hai - ba, tâm lý các em có thay đổi đôi
chút: biết phân biệt đúng sai, biết suy nghĩ xử lý được tình huống đơn giản, biết nói
lên ý kiến của mình; nhận ra một mẫu hành vi chuẩn mực qua bài học; đối với lớp
bốn – năm, các em đã có tính tích cực, tự giác, nhận thức được việc làm đúng - sai,
biết đoàn kết, cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ bạn bè.
Để xây dựng nề nếp tự quản, tinh thần tập thể cho học sinh đòi hỏi người
giáo viên phải có bản lĩnh, tính dứt khoát, sự quan tâm đồng đều đến từng học sinh
mình phụ trách. Bên cạnh đó, người giáo viên còn phải có tính kiên trì tổ chức tập
luyện cho ban cán sự về cách tổ chức hoạt động và sinh hoạt lớp, có tấm lòng bao
dung, nhân hậu, biết yêu thương học sinh như con em ruột thịt của mình.
3
II. CÁC GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Để xây dựng được nề nếp tự quản của học sinh, tôi đã suy nghĩ, tìm tòi và áp
dụng các biện pháp sau:
1. Nắm bắt tìm hiểu về tình hình học sinh:
Vào đầu năm học, khi được phân công chủ nhiệm lớp, tôi trực tiếp gặp giáo
viên chủ nhiệm cũ để nắm bắt tình hình chung, tình hình của từng học sinh, thông
qua Sổ chủ nhiệm, Sổ học bạ để xem kết quả tổng hợp đánh giá cuối năm.
Tôi tiến hành nắm bắt thông tin học sinh qua phiếu điều tra cơ bản sau :
Phiếu điều tra ( Phụ lục 2)
Sau khi nắm bắt thông tin học sinh thông qua phiếu điều tra cơ bản, tôi tập hợp
các thông tin mà các em đã viết. Từ việc làm này, phần nào tôi hiểu được hoàn
cảnh, biết được các em yêu thích cái gì nhất, có nguyện vọng điều gì ?... Từ đó, tôi
đưa ra giải pháp cụ thể để hướng dẫn các em.
Đồng thời tôi tham khảo ý kiến giáo viên chủ nhiệm cũ về tình hình chung của
lớp học. Bên cạnh đó, tôi cần gần gũi với học sinh, trực tiếp hỏi về gia đình, bản
thân học sinh. Khi xếp chỗ cho học sinh, chú ý, học sinh thấp xếp bên trên. Những
học sinh học chậm, hiếu động được xếp vào vị trí để tiện theo dõi. Tôi cũng xếp
xen kẽ học sinh học tốt với học sinh chậm tiến để các em có điều kiện giúp đỡ nhau
trong học tập cũng như trong việc thảo luận nhóm và giữ kỉ luật của lớp.
2. Phát huy vai trò của Hội đồng tự quản trong vấn đề tự quản ở lớp
Việc bầu chọn và xây dựng bộ máy tự quản của học sinh là một công việc rất
quan trọng mà người giáo viên chủ nhiệm nào cũng cần phải làm. Chủ tịch hội đồng
tự quản, 2 Phó chủ tịch hội đồng tự quản và các trưởng ban lớp năng nổ, nhiệt tình
sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm rất nhiều, không chỉ trong học tập mà còn trong các
phong trào thi đua của lớp. Hội đồng tự quản cùng với tôi, có sự hỗ trợ của phụ
huynh khuyến khích học sinh trong lớp đăng kí vào các ban theo nguyện vọng, sở
thích. Sau khi thành lập các ban, tiến hành bầu trưởng ban, thư kí và xây dựng kế
hoạch hành động. Với sự hỗ trợ, tư vấn từ phía tôi, vấn đề tự quản của học sinh
trong lớp được theo dõi, kiểm tra bởi Chủ tịch hội đồng tự quản, Phó chủ tịch hội
đồng tự quản và các thành viên trong ban học tập.
Tôi hướng dẫn từng em cách ghi chép nhiệm vụ của mình trong sổ cá nhân một
cách khoa học, cụ thể, rõ ràng. Mỗi em sẽ làm đúng các nhiệm vụ của mình. Ngoài
4
ra, Chủ tịch hội đồng tự quản, Phó chủ tịch và ban học tập phải đoàn kết và hợp tác
chặt chẽ với nhau trong công việc chung. Bên cạnh đó, các ban như: ban quyền lợi
học sinh, ban văn nghệ - thể dục thể thao, ban ngoại giao, ban lao động vệ sinh, ban
sức khỏe đời sống cũng được chú trọng. Tôi tư vấn, giúp đỡ các em hiểu vị trí và
trách nhiệm của cá nhân trong công việc được đảm nhận. Từ đó, các em thấy rõ
được vai trò, nhiệm vụ của bản thân thúc đẩy lớp học ngày càng tiến bộ trong nề nếp
tự quản và tinh thần học tập.
Để rèn tính tự quản, tôi giao trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ lớp (nhất là chủ
tich hội đồng tự quản) tự quản lý, điều hành, giải quyết mọi công việc của lớp nhất
là khi không có mặt giáo viên chủ nhiệm. Đặc biệt là trong giờ truy bài đầu giờ .
- Hướng dẫn học sinh cách tổ chức điều hành các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ,
Chủ tịch hội đồng tự quản nắm bắt tình hình sĩ số lớp, số bạn vắng học, nghỉ học có
lí do, không có lí do. Sau đó nêu nội dung sinh hoạt và yêu cầu các lớp phó và các
ban lên điều hành. Những buổi đầu tiên người giáo viên có thể làm mẫu cách làm
này để học sinh quan sát.
- Trong các buổi sinh hoạt tiếp theo giáo viên cần đến sớm hơn để theo dõi cách tổ
chức sinh hoạt 15 phút đầu giờ của học sinh, giúp đỡ các em từ từ hoàn thiện, có kỹ
năng thành thạo hơn trong từng lần sinh hoạt. Khi hết giờ sinh hoạt 15 phút, giáo
viên cần tuyên dương khích lệ những bạn tổ chức tốt, thực hiện nhiệm vụ tốt để các
em tự tin hơn trong những buổi tiếp theo.
Nhiều lần như thế, dần dần học sinh có kỹ năng tổ chức sinh hoạt thì giáo viên có
thể tự để các em điều hành và tổ chức tiết sinh hoạt 15 phút đầu giờ một cách tự
nhiên theo từng nội dung quy định.
Sau khi đã quen với công việc, để phát huy tính chủ động, tự quản, cho các em
tự tổ chức giờ sinh hoạt, tự viết báo cáo tổng kết cuối tuần theo chủ điểm hàng tuần
và đề ra biện pháp thực hiện thiết thực nhất để hoàn thành được các nội dung thi
đua của lớp. Căn cứ vào báo cáo của từng em, tôi nắm được khả năng quản lí lớp
của từng em. Và cứ cuối mỗi tháng, tôi tổ chức họp lớp 1 lần để tổng kết các mặt
làm được của lớp, động viên khen ngợi những việc các em đã làm tốt, đồng thời chỉ
rõ những thiếu sót và hướng dẫn các em cách khắc phục. Qua đó, tôi cũng nắm bắt
được tinh thần tự quản của học sinh trong lớp.
3. Hình thành , phát triển các mối quan hệ trong lớp:
Bản thân tôi nhận thức việc xây dựng mối quan hệ thân thiết giữa thầy và trò,
giữa trò và trò là một việc làm cần thiết. Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi
luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân
5
để có biện pháp giúp đỡ các em sửa chữa; lời nói, cử chỉ nhẹ nhàng. Giáo viên cần
phải quan tâm một cách nghiêm túc tới tiết sinh hoạt lớp cuối tuần để nâng cao
năng lực tự quản cho học sinh và phát triển quan hệ giữa giáo viên - học sinh, học
sinh với nhau.Trên cơ sở có được Hội đồng tự quản đã biết làm việc, tổ chức giờ
sinh hoạt lớp là điều kiện để các em thể hiện tính chủ động, tự quản, vai trò của
mình đối với lớp.
+ Hội đồng tự quản: Được đánh giá về những việc làm được và chưa được
của các bạn.
+ Học sinh: Được phát biểu tự do, thoải mái, thể hiện hết tâm tư nguyện
vọng của mình.
Ngoài ra, tôi còn tổ chức một cuộc “đối thoại nóng” với học sinh, vừa để
nắm được một cách cụ thể chi tiết hơn tình hình của từng học sinh trên lớp, vừa tạo
cơ hội để các em thể hiện tâm tư nguyện vọng…
Ví dụ: Tôi hỏi các câu: “Các em nói cho cô nghe đã thực hiện tự quản trong
giờ truy bài như thế nào ? hoặc “ Các em không tự giác thực hiện tốt các yêu cầu,
nội quy thì có ảnh hưởng gì tới lớp mình không?”. Như vậy, để các em tự nói là
cách để các em tự điều chỉnh làm sao cho đúng. Trong giờ sinh hoạt các em được
nói, được hát, được chơi, được thể hiện hết mình, nên giờ sinh hoạt đã trở thành sự
háo hức, sự chờ đợi đối với các em. Nó thực sự lôi cuốn được cả tập thể lớp nên
tính tự quản, tinh thần tập thể có dịp để phát huy.
Bạn bè là người để các em chia sẻ buồn vui ngoài những người thân trong
gia đình. Nếu các em có nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui
vẻ với nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn
quan tâm đến vấn đề này. Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn
bó, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong mọi hoạt động, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các
vấn đề đòi hỏi sự hợp tác, chia sẻ của nhiều học sinh.
Ví dụ: Tôi khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng ý về
việc làm, cách cư xử của các bạn trong lớp, bỏ vào hộp thư “Điều em muốn nói”,
chứ không nói xấu, không xa lánh bạn. Sau cuối mỗi tuần, tôi kiểm tra hộp thư và
căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là những điều tốt thì tôi đọc cho cả lớp
nghe rồi tuyên dương ngay trước lớp. Còn những điều các em phê bình thì tôi phải
điều tra nắm rõ đúng hay sai. Sau đó mới góp ý riêng với những học sinh bị bạn
phê bình, yêu cầu các em phải xin lỗi bạn và phải sửa chữa.
6
Hình ảnh: Học sinh gửi tâm sự vào hộp thư “ Điều em muốn nói”
( Phụ lục 3)
Từ mối quan hệ này, tôi thấy các em đã gắn bó tình đoàn kết, tạo tính tự giác,
tính mạnh dạn, biết lắng nghe, biết tự điều chỉnh khắc phục những lỗi mắc phải
nhằm thực hiện tốt các hoạt động, kế hoạch đề ra trong nhóm, lớp. Từ đó, các em
nâng cao được ý thức tự quản của mình.
(
4. Hình thành tính tự quản thông qua các tiết học:
Để định hướng cho học sinh những hành vi đúng trong sinh hoạt, quan hệ
bạn bè. Thông qua các tiết học trên lớp, tôi muốn góp phần trong việc hình thành
tính tự quản của học sinh, bằng việc sử dụng xử lý các tình huống, trò chơi đóng
vai, thảo luận theo nhóm…Từ đó các em biết tự quản lý nhóm học. Các em tham
gia với một tinh thần hào hứng, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, tập thể lớp
càng gần gũi, gắn bó hơn. Chính vì vậy các em biết tôn trọng và giữ gìn danh dự
cho tập thể lớp.
Trong các tiết học trên lớp, ngoài việc truyền thụ các kiến thức cơ bản, tôi luôn
muốn tạo ra không khí phấn khởi, dân chủ trong giờ học để học sinh phát huy tính
chủ động sáng tạo trong bài học cũng như tính cách. Từ đó khuyến khích được tính
mạnh dạn, tự tin cho học sinh nhất là đối với các em còn chậm, còn có tính thụ
động trước tập thể, nhút nhát, hay mặc cảm với bạn bè.
Ngoài ra, theo tôi giờ tự quản là khoảng thời gian không có giáo viên, các em
tự học , tự giữ kỉ luật trên lớp. Đội ngũ cán bộ lớp có vai trò quan trọng trong các
giờ tự quản. Bên cạnh đó, ý thức tự giác của mỗi học sinh là yếu tố quyết định
trong giờ tự quản tốt hay không. Giáo viên yêu cầu học sinh giữ kỉ luật, học tập
trong các giờ tự quản này. Muốn vậy giáo viên cần đẩy mạnh công tác thi đua trong
học sinh để học sinh phấn đấu đạt thành tích tốt trong thi đua của cá nhân, nhóm,
tổ... đến thi đua lớp, trường.
5. Giáo viên chủ nhiệm là cố vấn tổ chức hoạt động tự quản của tập thể
học sinh
Học sinh tiểu học là những em ở lứa tuổi nhỏ. Lứa tuổi còn ham chơi, chưa
có nhiều kỷ năng sống, kỷ năng giao tiếp… nhưng các em có khả năng tự quản, tự
tổ chức hoạt động tập thể… Tuy nhiên, vẫn là tuổi ăn, tuổi chơi. Xuất phát từ
những đặc điểm về tâm lý lứa tuổi đó, việc định hướng giáo dục đối với học sinh
tiểu học là rất cần thiết.
7
Chức năng cố vấn có ý nghĩa giáo dục quan trọng nhất đối với giáo viên chủ
nhiệm vì chức năng cố vấn về bản chất là sự điều chỉnh, vai trò định hướng, điều
khiển quá trình tự giáo dục của từng học sinh và tập thể học sinh, phát huy vai trò
chủ thể tích cực của học sinh trong giáo dục. Cố vấn còn là quá trình điều khiển,
định hướng của giáo viên chủ nhiệm đối với hoạt động tự quản của tập thể học sinh
lớp chủ nhiệm, giáo viên chủ nhiệm không trực tiếp tham gia điều khiển công việc
của lớp, không làm thay các em trong mọi hoạt động.
Chức năng cố vấn thể hiện trước hết ở chỗ giáo viên chủ nhiệm bằng nghệ
thuật sư phạm kích thích tư duy sáng tạo ở học sinh, phát triển tiềm năng trí tuệ vốn
có của từng em trong học tập, đề xuất các nội dung, các giải pháp, cách thức tổ
chức hoạt động thực hiện các mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Cố vấn là sự điều chỉnh, điều khiển tư duy thái độ, tình cảm, hành vi, hoạt
động của học sinh.Ví dụ: góp ý kiến một chương trình hoạt động của lớp, hay của
một học sinh thì đã diễn ra quá trình vừa điều chỉnh vừa điều khiển.
Vai trò cố vấn đối với học sinh phải quán triệt được toàn diện nội dung giáo
dục, kế hoạch hoạt động của cá nhân và tập thể lớp chủ nhiệm bao gồm từ việc học
tập, rèn luyện đạo đức, văn hóa, thể dục thể thao, sinh hoạt tập thể, quan hệ giao
tiếp…diễn ra trong nhà trường. Giáo viên chủ nhiệm cần tư vấn trong quan hệ ứng
xử xã hội, gia đình, cộng đồng và trong tình bạn, định hướng việc làm của học sinh.
6. Phối hợp chặt chẽ với tổ chức đội, sao trong nhà trường và các lực
lượng giáo dục ngoài nhà trường
Các tổ chức trong nhà trường, đặc biệt là đội, luôn có tác động tới học sinh.
Việc kiểm tra, đánh giá nề nếp tác phong hàng ngày (qua đội cờ đỏ), kiểm tra hàng
tuần của Tổng phụ trách, các em sẽ có ý thức thực hiện tốt để không ảnh hưởng đến
thi đua của lớp.
Phối hợp với cha mẹ học sinh để cùng trao đổi nắm vững tình hình học tập
và thói quen, hành vi đạo đức của các em ở lớp và ở nhà. Trong các cuộc họp phụ
huynh hoặc liên hệ, khuyến khích phụ huynh hướng dẫn hoặc kiểm tra con em
mình thực hiện các nề nếp tập trung vào rèn kĩ năng tự quản như:
+ Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi; sinh hoạt
điều độ, đúng thời gian biểu, giờ nào việc nấy, tránh tình trạng vừa học vừa
chơi, tự phân bố thời gian học tập, biết tự quản, tự sinh hoạt khi không có người
lớn,... Giáo viên thông báo kịp thời qua thư trao đổi, điện thoại hoặc đến nhà, trao
đổi trực tiếp về sự tiến bộ của các em nên cũng giúp cho các em tự giác thực hiện
tốt các yêu cầu, từng bước nâng cao kĩ năng tự phục vụ.
8
Theo tôi, dù là sử dụng hình thức hay phương pháp nào để rèn kĩ năng tự
quản thì việc nêu gương, khen thưởng đóng một vai trò quan trọng. Bởi vì, tâm lý
của học sinh tiểu học rất thích được khen, thích được động viên nên tôi thực hiện
các việc sau:
- Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi đã đề xuất với Ban đại diện phụ huynh
lớp về việc khen thưởng các học sinh trong lớp thực hiện tốt yêu cầu, nội quy.
- Sau mỗi tuần học, Chủ tịch hội đồng tự quản đánh giá chung các mặt hoạt động,
trưởng các ban đánh giá cụ thể các mặt hoạt động của từng thành viên, sau đó bầu
chọn học sinh tuyên dương trước lớp và nhận thưởng. Đặc biệt chú ý đến học sinh
chậm tiến trong học tập nhưng có tiến bộ về các mặt vệ sinh, thực hiện tốt các hoạt
động, yêu cầu thì được tuyên dương và khen thưởng. Tôi đã chú ý tìm ra những ưu
điểm, tiến bộ của học sinh dù là việc nhỏ cũng khen các em để động viên, tạo
nguồn động lực cho các em, đặc biệt những em thực hiện tốt nề nếp tự quản.
Từ những việc làm trên, giáo viên đã động viên khích lệ tinh thần các em, từ đó
thúc đẩy nề nế tự quản ngày càng tốt hơn.
Bằng những biện pháp trên được phối hợp một cách hài hoà trong suốt năm
học, tôi nhận thấy lớp có sự chuyển biến đáng kể về nề nếp tự quản .
III. HIỆU QUẢ
Qua quá trình áp dụng biện pháp trên, bản thân tôi nhận thấy công tác tự quản
trong lớp học mang lại những lợi ích cụ thể, sát thực như sau:
- Nề nếp lớp học ngày một tốt hơn, có quy củ hơn, đặc biệt là nề nếp tự quản có
chuyển biến rõ rệt.
Kết quả đối chiếu đầu năm, cuối năm học 2017 – 2018 về nề nếp tự quản như
sau: ( phụ lục 4)
- Nghiêm túc tập thể dục đầu giờ và giữa giờ, xếp hàng ra vào lớp một cách trật tự.
Sinh hoạt 15 phút đầu giờ nghiêm túc, chất lượng (kể cả những khi không có giáo
viên chủ nhiệm). ( Phụ lục 5 )
- Học sinh ý thức được tinh thần tự giác, trách nhiệm trong các hoạt động, phong
trào thi đua của lớp; tinh thần đoàn kết, kĩ năng hợp tác và khả năng làm việc theo
nhóm hiệu quả cao hơn. ( Phụ lục 5)
- Học sinh biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung, tham gia mọi hoạt động của
trường của lớp một cách hào hứng, nhiệt tình và có hiệu quả.( Phụ lục 5)
- Lớp có chuyển biến rõ rệt về tinh thần tập thể, biết yêu thương và giúp đỡ nhau
trong học tập và rèn luyện đạo đức.
- Kết quả theo dõi của đội sao đỏ trong cả năm đạt điểm cao nhất. Năm học 20172018, lớp tôi đạt lớp Tiên tiến xuất sắc. ( Phụ lục 6 )
9
Ngoài ra, nhờ nề nếp tự quản tốt nên chất lượng học tập của lớp tôi trong năm học
đạt hiệu quả rất cao.
Bảng thống kê chất lượng học tập năm học 2017-2018: ( Phụ lục 7 )
Sự cố gắng của tập thể lớp đã được nhà trường và thầy cô giáo ghi nhận và được
đánh giá cao, đó là niềm vui niềm tự hào cho tập thể lớp.
C. KẾT LUẬN
I. PHẠM VI ỨNG DỤNG
Đề tài được áp dụng cho học sinh lớp 3, trường Tiểu học Ninh Lộc.
II. Ý NGHĨA
Sáng kiến kinh nghiệm thực hiện góp phần hình thành tính tự quản, ý thức kỉ
luật, tinh thần tập thể cho học sinh. Qua đó cũng giúp tạo quan hệ thân thiện giữa
học sinh với giáo viên và giữa học sinh với nhau.
Thực hiện sáng kiến kinh nghiệm cũng là rèn kỹ năng sống cho các em, giúp
các em biết điều chỉnh hành vi để thích nghi trong cuộc sống sau này.
HIỆU TRƯỞNG
Ninh Lộc, ngày 2 tháng 5 năm 2019
Người viết
Giang Thị Ngọc Trinh
10
PHỤ LỤC
Phụ lục 1
Sĩ số Thời gian
21 emĐầu năm học
Bảng khảo sát đầu năm học
HS có ý thức tự
quản tốt
HS có ý thức tự quản
nhưng chưa bền
Chưa có ý thức tự
quản
SL
%
SL
%
SL
%
5
23,8 %
5
23,8%
11
52,4%
Phụ lục 2
PHIẾU ĐIỀU TRA
GIỚI THIỆU BẢN THÂN
1.Họ và tên học sinh:......................................................................................................
2. Là con thứ……trong gia đình.
11
3. Họ và tên cha:.................................................Nghề nghiệp:........................................
4. Trình độ văn hóa:.............................Sức khỏe: Khỏe mạnh;
Đau yếu
5. Họ và tên mẹ:..............................................Nghề nghiệp:............................................
6. Trình độ văn hóa:............................. Sức khỏe: Khỏe mạnh;
Đau yếu
7. Hoàn cảnh gia đình (khá giả, đủ ăn, nghèo).................................................................
8. Bố mẹ:
Còn đủ;
Thiếu;
Chết;
Ly hôn.
9. Kết quả học tập năm lớp 2:...........................................................................................
10. Môn học yêuthích:.....................................................................................................
11. Môn học cảm thấy khó:..............................................................................................
12. Góc học tập ở nhà: Có; Không
13. Người bạn ở gần nhà nhất:........................................................................................
14. Địa chỉ gia đình: .......................................................................................................
15.Số điện thoại của gia đình:.........................................................................................
Phụ lục 3
12
Học sinh bày tỏ tâm sự vào hòm thư” Điều em muốn nói”
Phụ lục 4
13
Kết quả đối chiếu đầu năm, cuối năm học 2017 – 2018 như sau:
Thời gian Sĩ số
HS có ý thức tự
quản tốt
HS có ý thức tự quản Chưa có ý thức tự
nhưng chưa bền
quản
SL
%
SL
%
SL
%
5
23,8%
11
52,4%
23,8%
0
0
Đầu năm
21
5
23,8%
Cuối năm
21
16
76,2%
5
Phụ lục 5
14
Học sinh tự quản trong buổi truy bài 15 phút đầu giờ học
Học sinh tự quản trong giờ hát múa giữa giờ học
15
Học sinh tự quản nghiêm túc khi xếp hàng vào lớp
Phụ lục 5
16
Học sinh tích cực tham gia chăm sóc công trình măng non của lớp
Học sinh tự giác tham gia vệ sinh sân trường
Phụ lục 7
THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG NĂM HỌC 2017 – 2018
(Tổng số HS: 21/11 nữ )
Các đợt
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
kiểm tra
SL
%
SL
%
SL
HKI
7
33,3
14
66,7
0
HKII
10
47,6
11
52,4
0
17
Chưa HT