Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận môn Luật kinh tế Những điều khoản cần lưu ý trong hợp đồng mua bán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.51 KB, 14 trang )

Đề tài tiểu luận môn Luật Kinh tế:
TRÌNH BÀY VÀ PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỀU KHOẢN CẦN LƯU Ý
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

--------I- MỞ ĐẦU
Trong hoạt động kinh doanh thương mại, hợp đồng mua bán hàng hóa
là một trong những hợp đồng đặc trưng và phổ biến nhất. Trong bối cảnh
nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển và đẩy mạnh hội nhập với kinh tế
thế giới, hợp đồng giữa bên mua và bên bán không còn bó hẹp phạm vi
trong nước mà còn mở rộng ra ngoài nước. Đặc biệt, các hoạt động thương
mại này sẽ dần dần trở thành phổ biến hơn trong thời gian sắp tới. Trong tiến
trình như thế, việc tranh chấp trong kinh doanh thương mại nói chung và
trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng đã, đang ngày càng gia tăng và
có tính chất phức tạp hơn.
Những hợp đồng mua bán hàng hóa phát sinh tranh chấp do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là hợp đồng soạn thảo
không rõ ràng, không đảm bảo đủ các nội dung quan trọng, cần thiết.
Vấn đề cần đặt ra là phải sớm nghiên cứu, hoàn thiện các quy định
của pháp luật và hướng dẫn thi hành một cách động bộ, chặt chẽ; đồng thời
đảm bảo giải quyết nhanh chóng, công bằng các hợp đồng tranh chấp phát
sinh để hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại và đảm bảo hoạt động bình
thường của các doanh nghiệp. Trong đó, đối với các nội dung, hình thức của
hợp đồng mua bán cần phải được hướng dẫn, phổ biến rộng rãi cho các
doanh nghiệp kinh doanh thương cập nhật, áp dụng là hết sức cần thiết.
Chính vì thế, em chọn Đề tài tiểu luận môn học Luật Kinh tế là:
“TRÌNH BÀY VÀ PHÂN TÍCH NHỮNG ĐIỀU KHOẢN CẦN LƯU Ý
TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA” để nghiên cứu, phân tích
để là rõ hơn về vấn đề đặt ra nêu trên.


II- NỘI DUNG


1. Hợp đồng mua bán hàng hoá và những điều khoản cần lưu ý
Theo Điều 24- Luật Thương mại 2005 thì “Hợp đồng mua bán hàng
hoá là hợp đồng được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập
bằng hành vi cụ thể; Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp
luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định
đó”. Dấu hiệu để nhận biết một hợp đồng mua bán hàng hóa phải dựa trên
tiêu chí là sự thõa thuận giữa người bán và người mua. Thể hiện nghĩa vụ
của bên bán giao vật cho bên mua và nhận tiền; còn bên mua có nghĩa vụ
nhận vật và trả tiền cho bên bán. Khoản 8, Điều 24, Luật Thương mại 2005
quy định “Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận
thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và
quyền sở hữu hàng hoá theo thỏa thuận”.
Dưới đây là một số điều khoản chủ yếu cầu lưu ý (hay những nội
dung cần phải có) của hợp đồng mua bán hàng hóa, mà nếu thiếu một trong
những điều khoản này thì hệ quả có thể làm cho hợp đồng không có hiệu lực
pháp luật hoặc làm phát sinh khó khăn, tranh chấp trong quá trình thực hiện:
- Chủ thể tham gia xác lập hợp đồng;
- Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa;
- Chất lượng của hàng hóa mua bán;
- Về giá cả hàng hóa;
- Quyền và nghĩa vụ của bên bán;
- Quyền và nghĩa vụ của bên mua;
- Thời điểm chuyển rủi ro.


2. Phân tích, tìm hiểu về những điều khoản cần lưu ý của hợp
đồng mua bán hàng hóa
Để việc thực hiện và ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa một cách
suôn sẽ, tránh những rủi ro về mặt pháp lý thì các chủ thể, các cá nhân hoạt

động kinh doanh thương mại cần tìm hiểu các quy định của pháp luật liên
quan để để xác lập các giao dịch. Dưới đây chúng ta phân tích và tìm hiểu
về những điều khoản cần lưu ý của hợp đồng mua bán hàng hóa:
2.1. Chủ thể tham gia xác lập hợp đồng
- Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là các cá nhân và tổ
chức, bao gồm bên bán và bên mua. Chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng
hoá chủ yếu là thương nhân. Thương nhân theo quy định của Luật Thương
mại năm 2005 bao gồm: tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh
doanh. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá có thể là
thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế).
- Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là
thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá.
Hoạt động của chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích
lợi nhuận trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá chỉ phải tuân theo pháp
luật thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật Thương mại năm
2005. Riêng đối với chủ thể của hợp đồng mua bán tài sản có thể là mọi tổ
chức, cá nhân đầy đủ năng lực, có nhu cầu mua bán tài sản, có sự mở rộng
hơn rất nhiều so với chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Đối với chủ thể là cá nhân, để được thừa nhận là chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa, cá nhân phải đảm bảo có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự
và năng lực hành vi dân sự. Đây cũng là một trong các điều kiện hiệu lực của
hợp đồng theo quy định tại khoản 1 Điều 122 Bộ Luật dân sự năm 2005. Năng
lực pháp luật dân sự là khả năng được hưởng quyền lợi và gánh vác những


nghĩa vụ dân sự nhất định (Điều 14 Bộ luật dân sự năm 2005). Năng lực pháp
luật dân sự có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết. Năng lực
pháp luật dân sự không bị giới hạn bởi tuổi tác, sức khỏe hay bất kỳ một điều

kiện nào khác ngoại trừ những người phạm tội bị truy tố.
Năng lực hành vi dân sự là khả năng của cá nhân bằng hành vi của
mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự trong thực tế (Điều 17 Bộ
luật dân sự năm 2005). Năng lực hành vi dân sự bị giới hạn bởi hai điều kiện
là điều kiện về tuổi và điều kiện về sức khỏe. Theo Điều 17, 18 và 19 Bộ
Luật dân sự năm 2005, người từ đủ 18 tuổi trở lên là người có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, có khả năng tự quyết và chịu trách nhiệm về hành vi của
mình. Ngoại trừ, người đủ 18 tuổi nhưng nếu mắc bệnh tâm thần, bệnh về trí
lực thì không có năng lực hành vi, không được giao kết hợp đồng mà phải
do người đại diện theo pháp luật thực hiện.
Quy định về năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự là
điều kiện bắt buộc phải có để các cá nhân muốn trở thành chủ thể giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa mang tính dân sự. Muốn giao kết các hợp đồng
mua bán hàng hóa mang tính thương mại, các nhân còn phải thỏa mãn điều
kiện nữa là phải có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
- Đối với chủ thể là tổ chức, việc xác định năng lực hành vi dân sự và
năng lực pháp luật dân sự phụ thuộc vào việc tổ chức đó có được công nhận
là pháp nhân hay không. Ngoài ra, việc xác định năng lực pháp luật dân sự
của một tổ chức cũng khá phức tạp, liên quan đến nhiều văn bản pháp luật
như Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật ngân hàng Nhà nước…Tổ chức
có thể là một công ty, xí nghiệp, hiệp hội, hoặc một cơ quan nhà nước. Năng
lực pháp lý và năng lực hành vi của tổ chức phát sinh khi tổ chức đó được
thành lập và chấm dứt khi tổ chức đó bị giải thể, bị phá sản hoặc bị đình chỉ
hoạt động. Năng lực này sẽ được cụ thể hóa trong điều lệ hoạt động, phù
hợp với quy định của pháp luật.


Việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa của tổ chức được thực hiện
thông qua người đại diện. Người đại diện của tổ chức, của pháp nhân có thể
là Giám đốc hoặc người Giám đốc ủy quyền. Đại diện của tổ chức cụ thể đó

là ai thường được xác định trong điều lệ hoạt động hoặc do pháp luật quy
định. Người đại diện này cũng có thể ủy quyền cho người khác ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa trong phạm vi từng lĩnh vực công việc nhất định
hoặc trong một khoảng thời gian nhất định.
- Chủ thể bên bán, là chủ sở hàng hóa hoặc người mà chủ sở hữu uỷ
quyền bán, hoặc người đại diện theo pháp luật của chủ sở hữu và có thẩm
quyền bán hàng hóa. Vì chỉ có chủ sở hữu mới có quyền định đoạt đối với
tài sản của mình và chỉ có chủ sở hữu mới có quyền thực hiện mọi hành vi
theo ý chí của mình đối với hàng hóa. Một số trường hợp người bán là cơ
quan Nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền hay cơ quan bán đấu giá.
Theo khoản 1 và 2 của Điều 2 Luật Thương mại 2005, bên bán có
thể là thương nhân, cá nhân hoạt động thương mại độc lập.
- Chủ thể bên mua, là người có nhu cầu mua hàng hóa. Theo Luật
thương mại 2005, bên mua có thể là thương nhân, cá nhân hoạt động thương
mại độc lập.
Về nguyên tắc, các bên trực tiếp tham gia việc giao kết hợp đồng bắt
buộc phải có năng lực chủ thể tương ứng với giao dịch mà họ tham gia (như
trên đã trình bày).
2.2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hoá theo quy định của Luật Thương mại năm
2005 có đối tượng là hàng hoá. Tuy nhiên không thể hiểu theo nghĩa thông
thường, hàng hoá là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm
mục đích thoả mãn nhu cầu của con người hay chỉ bao gồm máy móc, thiết
bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được
lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh đưới hình thức cho
thuê, mà còn là hàng hoá hiện đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng


hoá có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại.
Khoản 2 Điều 3 Luật Thượng mại năm 2005 quy định: “Hàng hóa bao gồm:

(1) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai và (2)
Những vật gắn liền với đất đai”.

Còn hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự có đối tượng gồm các loại
tài sản quy định trong Điều 162 Bộ luật Dân sự 2005 : “Vật, tiền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản được phép giao dịch”. Đối tượng của hợp đồng mua
bán tài sản được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 được quy định
mang tính chất khái quát, là những tài sản được phép lưu thông, bao gồm cả
hàng hóa trong mua bán thương mại. Hàng hóa là đối tượng cuả hợp đồng
mua bán hàng hoá chỉ là một bộ phận của các loại tài sản là đối tượng của
hợp đồng mua bán tài sản trong dân sự.
Cũng cần lưu ý về chế độ pháp lý của đối tượng mua bán phải là các
vật tự do lưu thông. Nếu là các vật hạn chế lưu thông như ngoại tệ, các loại
tân dược có nguồn gốc từ chất ma tuý được bào chế dành cho việc điều trị
bệnh... thì việc mua bán phải tuân thủ theo các quy định khác của Nhà nước.
Nếu đối tượng là các loại di tích văn hoá lịch sử thỉ chỉ có thể bán cho Nhà
nước. Các vật cấm lưu thông như ma tuý, pháo nổ, băng đĩa, hình đồi trụy là
các vật mà Nhà nước cấm lưu hành vì trật tự công cộng và vì đạo đức xã
hội; vũ khí, quân trang, quân dụng,... là những vật thuộc sở hữu của toàn dân
không được tự do lưu thông vì có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh
trật tự xã hội.
Đối tượng mua bán phải là vật thuộc quyền sở hữu hợp pháp của
người bán, không có tranh chấp... Và chỉ có chủ sở hữu mới có quyền định
đoạt đối với tải sản thuộc sở hữu của mình. Mọi sự mua bán không có sự
đồng ý của chủ sở hữu đều vô hiệu. Trường hợp này, người bán cần xuất
trình được bằng chứng để chứng minh tài sản đem bán thuộc sở hữu hợp
pháp của mình.


Về nguyên tắc, chủ sở hữu tài sản không được phép chuyển dịch một

tài sản đang có tranh chấp. Vì nếu một tài sản đang bị tranh chấp mà được
phép chuyển dịch, sẽ dẫn tới hậu quả là khi tranh chấp được giải quyết xong
mà tải sản đã bị chuyển dịch cho người khác rồi thì bên thắng kiện sẽ không
được thi hành án. Do đó, khi mua bán phải có giấy xác nhận của cơ quan có
thẩm quyền về tình trạng tài sản mua bán là không có tranh chấp.
Đối tượng mua bán phải có thực và được chỉ đích xác. Vật mua bán
phải là vật có thực. Vật có thực là đối tượng của họp đồng mua bán tài sản
có thể hiểu là vật đã tồn tại khi thoả thuận mua bán. Nếu mua bán một vật
không có thực, tức hợp đồng mua bán không có đối tượng, vì thế mà hợp
đồng không có hiệu lực.

2.3. Chất lượng của hàng hóa mua bán
Việc xác định chất lượng của hàng hóa do các bên thoả thuận, hay
chất lượng theo mẫu của bên bán giao cho bên mua. Nếu pháp luật có quy
định thì chất lượng của hàng hóa xác định theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 2, Điều 432 Bộ Luât dân sự 2015 thì “Trường hợp tiêu chuẩn về
chất lượng của tài sản đã được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định thì thỏa thuận của các bên về chất lượng của tài sản không được thấp hơn
chất lượng của tài sản được xác định theo tiêu chuẩn đã công bố hoặc theo quy định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Nếu các bên không thoả thuận, pháp
luật không quy định thì xác định theo chất lượng trung bình của vật cùng
loại”. Theo khoản 3, Điều 432, Bộ Luật dân sự 2015 thì “Trường hợp chất
lượng vật bán đã được xác định thì người bán phải giao vật đúng chất lượng. Khi
các bên không có thoả thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng về chất lượng tài sản
mua bán thì chất lượng của tài sản mua bán được xác định theo tiêu chuẩn về chất
lượng của tài sản đã được công bố, quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
hoặc theo tiêu chuẩn ngành nghề”.
Nếu chất lượng vật bán đã được công bố công khai trên bao bì sản



phẩm thì cũng xem như là có thoả thuận, do vậy nếu hàng hóa được giao
không đúng chất lượng ghi trên bao bì thì bên vi phạm phải chịu trách
nhiệm.
2.4. Về giá cả hàng hóa
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, giá cả của của hàng hóa là một
trong những nội dung chủ yếu của hợp đồng, mà thực chất nó cũng là đối
tượng của hợp đồng. Giá trong hợp đồng mua bán tài sản là giá trị của tài
sản tính thành một số tiền tại thời điềm và địa điểm xác định.
Theo quy định tại Điểu 433, Bộ Luật dân sự 2015, giá và phương thức
thanh toán do các bên thoả thuận hoặc do người thứ ba xác định theo yêu
cầu của các bên. Trường hợp pháp luật quy định giá, phương thức thanh toán
phải theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì thỏa thuận của
các bên phải phù hợp với quy định đó.
Trường hợp không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng về giá,
phương thức thanh toán thì giá được xác định theo giá thị trường, phương
thức thanh toán được xác định theo tập quán tại địa điểm và thời điểm giao
kết hợp đồng.
Theo Điều 52, Luật Thương mại 2005, trường hợp không có thoả
thuận về giá hàng hoá, không có thoả thuận về phương pháp xác định giá và
cũng không có bất kỳ chỉ dẫn nào khác về giá thì giá của hàng hoá được xác
định theo giá của loại hàng hoá đó trong các điều kiện tương tự về phương
thức giao hàng, thời điểm mua bán hàng hoá, thị trường địa lý, phương thức
thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá.
Giá cả xác định dựa trên cơ sở của giá trị tài sản, nhưng thực chất
không phải là giá trị tài sản. Có thể hiểu giá trị là tổng giá thành để làm ra
sản phẩm dựa trên điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Còn giá cả là do nhu cầu
xã hội, thời gian, địa điểm mua bán... nên trong nhiều trường hợp giá cả có
thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị của tài sản.



Điều kiện về điều khoản giá cả như trên đã khẳng định, giá cả trong
hợp đồng mua bán tài sản là dấu hiệu đặc thù để phân biệt với những hợp
đồng có nội dung chuyển quyền sở hữu khác và nó còn là điều khoản cơ bản
của loại hợp đồng này. Vì thế, giá cả trong loại hợp đồng này phải đáp ứng
điều kiện:
- Giá cả của hợp đồng phải biểu hiện thành một số tiền mà người
mua phải trả cho người bán; và nếu theo họp đồng mà người mua không trả
tiền mà lại trả bằng một vật khác có giá trị tương đương thì đó không phải là
hợp đồng mua bán mà là hợp đồng trao đổi tài sản. Thực tế, người ta cũng
có thể thanh toán bằng vàng, nhất là thời gian trước đây khi điều kiện đồng
tiền quốc nội có sự trượt giá mạnh và tính chất thuận tiện trong việc lưu trữ
của vàng khiến cho người ta có tập quán thanh toán bằng vàng nhiều hơn.
Tuy vậy, không phải lúc nào giá cả của hợp đồng mua bán cũng được các
bên thoả thuận thể hiện ra bằng tiền với một con số cụ thể. Trong thực tế,
đôi khi giá cả của việc mua bán được xác định thông qua quy tắc định giá.
Pháp luật Việt Nam quy định bắt buộc các chủ thể tham gia hợp đồng
phải thiết lập giá cả mua bán phải có thực. Trong điều kiện bình thường, các
bên không được quyền thỏa thuận giá bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ
sản phẩm, vi phạm pháp luật cạnh tranh; hoặc nâng giá hàng hóa cao hơn
mức bình thường nhằm trục lợi bất chính.
2.5. Quyền và nghĩa vụ của bên bán
Bộ Luật dân sự 2015 và Luật thương mại 2005 quy định, ngoài nghĩa
vụ giao tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua, bên bán còn
phải thực hiện nhiều nghĩa vụ khác. Theo khoản 1, Điều 279 Bộ Luật dân sự
2015, bên bán còn có nghĩa vụ đặc biệt là phải bảo quản, giữ gìn vật đến khi
giao cho bên có quyền; hay theo Điều 46 Luật thương mại 2005, bên bán
còn có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hoá.
Điều 44, Luật thương mại 2005 quy định, trước thời điểm giao, bên
bán có nghĩa vụ tạo điều kiện cho bên mua kiểm tra hàng hóa.



Bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua đúng số lượng, đúng
chủng loại, đồng bộ và giao cả các vật phụ (nếu có), nếu là vật đặc định thì
phải giao chính vật đặc định đó. Trong hoạt động kinh doanh, bên bán còn
phải giao kèm theo các chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Nghĩa vụ giao tài sản chỉ được xem là hoàn thành khi bên bán đã giao tài
sản cho bên mua đúng, đủ và đảm bảo đúng thời gian, địa điểm, phương
thức...
Chuyển quyền sở hữu tài sản. Việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản
trong hợp đồng có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, như xác lập quyền sở
hữu của người mua; kể từ khi nhận được quyền sở hữu tài sản thì người mua
trờ thành chủ sở hữu mới có quyền và nghĩa vụ phát sinh trên tài sản; thu
hoa lợi và chịu trách nhiệm về tài sản; xác định thời điểm chịu rủi ro đối với
tài sản...
Thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản, theo quy định pháp luật phụ
thuộc vào đối tượng chuyển giao, đó là loại tài sản là động sản hay bất động
sản, có đăng ký hay không đăng ký quyền sở hữu. Từ đó có thể xác định là
thực tế đã chuyển giao hoặc thời điểm hoàn tất thủ tục luật định.
Kèm theo việc chuyển quyền sở hữu tài sản là việc chuyển rủi ro. Rủi
ro có thể hiểu như là một sự kiện bất ngờ, khách quan, không may, mà với
sự xuất hiện của chúng sẽ gây ra sự tổn thất về tài sản.
Nghĩa vụ chịu chi phí vận chuyển và chi phí chuyển quyền sở hữu tài
sản. Theo Điều 442 Bộ Luật dân sự 2015, nghĩa vụ này do các bên thoả
thuận. Trường hợp các bên không có thoả thuận hoặc thỏa thuận không rõ
ràng thì chi phí vận chuyển và chi phí liên quan đến việc chuyển quyền sở
hữu được xác định theo chi phí đã được công bố, quy định của cơ quan có
thẩm quyền hoặc theo tiêu chuẩn ngành nghề. Nhưng nếu các bên không có
thoả thuận và pháp luật không quy định về chi phí vận chuyển và chi phí
liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu thì bên bán phải chịu chi phí vận
chuyển đến địa điểm giao tài sản và chi phí liên quan đến việc chuyển quyền



sở hữu.
Nghĩa vụ chịu trách nhiệm về chất lượng và khuyết tật vật bán. Theo
khoản 2, Điều 445 Bộ Luật dân sự 2015, bên bán phải chịu trách nhiệm về
chất lượng của vật bán. Nghĩa là, bên bán phải bảo đảm giá trị sử dụng hoặc
các đặc tính của vật bán.
Nếu sau khi rnua mà bên mua phát hiện ra khuyết tật làm mất hoặc
giảm sút giá trị của vật thi báo ngay cho bên bán và có quyền yêu cẩu bên
bán sửa chữa, đổi vật, giảm giá và bồi thường nếu không có thoả thuận khác.
Thông thường điều khoản về thời hạn thông báo khi phát hiện khuyết tật
phải được nói rõ trong hợp đồng và nếu quá thời hạn đó, người bán có quyền
từ chối trách nhiệm đối với khuyết tật
Bên bán không phải chịu trách nhiệm về chất lượng vật bán khi có
khuyết tật trong các trường hợp luật định như: Khuyết tật mà bên mua đã
biết hoặc phải biết khi mua; vật bán đấu giá, vật bán ở cửa hàng đồ cũ; bên
mua có lỗi gây ra khuyết tật của vật. Bên bán chỉ chịu trách nhiệm về khuyết
tật của vật bán trong trường hợp như: Khuyết tật của vật bán là những khiếm
khuyết kỹ thuật làm giảm giá trị, tính năng công dụng của vật khiến cho việc
khai thác, sử đụng vật không được hoàn hảo như mong đợi.
Nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử dụng. Theo Điều
443, Bộ luật dân sự 2015, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng
dẫn cách sử dụng. Để đảm bảo việc khai thác tốt tài sản bên bán phải có
nghĩa vụ cung cấp thông tin về việc sử dụng, bảo quản tài sản...
Cách thức cung cấp có thể bằng lời, bằng vãn bản, catalogue hay các
thông tin được ghi trong sách hướng dẫn, trên bao bì sản phẩm... bàng bất kỳ
ngôn ngữ nào.
Bên mua có quyền yêu cầu bên bán phải cung cấp thông tin. Nếu bên
bán không thực hiện nghĩa vụ này thi bên mua có quyền yêu cầu bên bán
phải thực hiện; nếu bên bán vẫn không thực hiện thì bên mua có quyền huỷ

bỏ hợp đồng và yêu càu bồi thường thiệt hại.


Nghĩa vụ bảo đảm quyền sử hữu của bên mua. Theo Điều 444, Bộ luật
dân sự 2015 và Điều 45 Luật thương mại 2015, bên bán có nghĩa vụ bảo đảm
quyền sở hữu đối vói tài sản đã bán cho bên mua không bị người thứ ba tranh
chấp. Đây là nghĩa vụ sau khi mua, nhằm chống lại sự quấy nhiễu thực tế và sự
quấy nhiễu pháp lý, gây khó khăn cho việc khai thác, sử đụng tài sản.
Nghĩa vụ bảo hành. Theo Điều 446, Bộ luật dân sự 2015 và Điều 49
Luật thương mại 2015, bên bán có nghĩa vụ bảo hành đối với vật mua bán
trong một thời hạn, gọi là thời hạn bảo hành, nếu việc bảo hành do các bên
thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Thời hạn bảo hành được tính kể từ
thời điểm bên mua có nghĩa vụ phải nhận vật.
Bảo hành là một hoạt động hậu mãi của nhà sản xuất, theo đó nhà sản
xuất cam kết với khách hàng sẽ bảo đảm cho việc khai thác, sử dụng tài sản
mua bán đúng như công dụng, chất lượng tài sản như đã công bố, trong một
thời hạn nhất định.
Nghĩa vụ bảo hành là việc theo dõi, sửa chữa những khiếm khuyết về
kỹ thuật, bảo đảm cho việc sử đụng tài sản bình thường.
2.6. Quyền và nghĩa vụ của bên mua
Xét về bản chất, hợp đồng mua bán là hợp đồng song vụ, cho nên
người mua về phần mình cũng phải có các nghĩa vụ sau đây:
Trả tiền là nghĩa vụ chính của người mua. Tiền phải trả là tiền đồng
Việt Nam.
Bến mua phải trả đủ tiền đúng phương thức, địa điểm, thời gian do các
bên thoả thuận. Nếu chậm trả thì bên mua phải chịu lãi suất đối với số tiền
chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng
với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Tiếp nhận tài sản, là một quyền đồng thời còn là nghĩa vụ của người

mua. Bởi lẽ, trong nhiều trường họp chậm tiếp nhận đối tượng sẽ dẫn đến


nhiều tổn thất cho bên giao vật.

2.7. Thời điểm chuyển rủi ro
Theo nguyên tắc chung, Điều 126, Bộ Luật dân sự 2015 quy định về
trách nhiệm rủi ro, theo đó về nguyên tắc thì chủ sở hữu chịu rủi ro, trừ
trường hợp pháp luật quy định khác, như chậm nhận hay chậm giao thì bên
chậm nhận hay bên chậm giao sẽ phải chịu trách nhiệm rủi ro theo quy định
khác tại Điều 359 Bộ Luật dân sự 2015. Các bên cũng có thể có những thoả
thuận khác.
Do đó, thời điểm chuyển giao rủi ro của hợp đồng mua bán được quy
định tại Điều 441, Bộ Luật dân sự 2015, cụ thể như sau:
- Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản trước khi tài sản được giao cho
bên mua, bên mua chịu rủi ro đối với tài sản kể từ thời điểm nhận tài sản, trừ
trường hợp có thoả thuận khác hoặc luật có quy định khác.
- Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó
phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành
thủ tục đăng ký, bên mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng
ký, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Đối với lĩnh vực thương mại. Trong hợp đồng thương mại, việc
chuyển giao rủi ro được xác định theo từng trường hợp khác nhau.
III- KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Hợp đồng mua bán hàng hóa là công cụ pháp lý cần thiết, phổ biến
mà thông qua đó các bên hoạt động kinh doanh thương mại thực hiện giao
dịch nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình, góp phần cho nền kinh tế - xã hội
phát triển một cách bình thường. Tuy nhiên, nếu hợp đồng không được thiết
lập chặt chẽ sẽ dẫn đến những bất lợi không mong muốn, ngoại trừ có những
vụ lợi bất chính từ một trong các bên liên quan.



Theo Bộ luật dân sự, khi giao dịch dân sự vô hiệu hậu quả pháp lý
như sau:
- Giao dịch không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập;
- Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những
gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả
bằng tiền;
- Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.
Tuy nhiên, trong thực tế cho thấy, việc hoàn trả cho nhau những gì đã
nhận chưa thực sự đảm bảo được lợi ích của các chủ thể. Chính vì thế, qua
nghiên cứu em có đề xuất, kiến nghị như sau:
1- Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp lý liên quan đến
các giao dịch dân sự, thương mại, nhất là các văn bản dưới luật.
2- Cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật cho người dân và doanh nghiệp kinh doanh thương
mại về các quy định của pháp luật liên quan đến việc thiết lập hợp đồng dân
sự, cũng như hợp đồng về mua bán hàng hóa.
3- Các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hợp đồng,
hoặc giải quyết hợp đồng vô hiệu cần công tâm khách quan khi thụ lý, giải
quyết, đảm bảo lợi ích chính đáng của chủ thể tham gia.

Trên đây là nội dung trình bày và phân tích về những điều khoản cần
lưu ý trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Rất mong được giảng viên phụ
trách đóng góp để nội dung tiểu luận được hoàn chỉnh.
Xin chân thành cảm ơn !
HỌC VIÊN
……………………




×