Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

ĐÁNH GIÁ kết QUẢ hóa TRỊ bổ TRỢ PHÁC đồ 4AC – 12p CHO BỆNH NHÂN UNG THƯ vú GIAI đoạn II IIIA tại BỆNH VIỆN k

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.98 KB, 48 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú (UTV) là loại ung thư đứng hàng đầu trong các loại ung thư
ở phụ nữ. Theo Globocan năm 2102, có 1,67 triệu ca mắc mới chiếm 25%
tổng số các loại ung thư. Ung thư vú là nguyên nhân tử vong hàng đầu của
phụ nữ các nước kém phát triển và hàng thứ hai ở các nước phát triển.
Tại Việt Nam, UTV cũng đứng hàng đầu trong các loại ung thư ở phụ
nữ. Tại Hà Nội tỉ lệ này là 29,7/100.000 dân, ở thành phố Hồ Chí Minh tỉ lệ
này là 19,1/100.000 dân. Có khoảng 80% các trường hợp UTV được phát hiện
là ở giai đoạn II-III. Ở giai đoạn II-IIIA khối ung thư còn có chỉ định phẫu
thuật [1].
Tuy tỉ lệ mắc mới có xu hướng tăng trong những năm gần đây nhưng tỉ
lệ tử vong do bệnh lại có xu hướng giảm, đó là nhờ có những tiến bộ vượt bậc
trong việc điều trị UTV đặc biệt là trong điều trị toàn thân.
Năm 1976, Bonadona lần đầu tiên đưa hóa chất phác đồ CMF
(cyclophosphamide, methotrexat, 5 FU ) vào điều trị, đánh dấu sự ra đời của
điều trị hóa chất bổ trợ trong UTV. Hiệu quả của phác đồ cho thấy cải thiện rõ
thời gian sống thêm và giảm tỉ lệ tái phát. Thập niên 80- 90, nhóm thuốc
anthracyclin (doxorubicine, epirubicin) và taxane (paclitaxel, docetaxel) được
đưa vào điều trị ung thư vú đã cho những kết quả khả quan, cải thiện thời gian
sống thêm toàn bộ và thời gian sống thêm không bệnh.
Sau khi chứng minh được vai trò của anthracyclin trong điều trị UTV di
căn, nhiều nghiên cứu bắt đầu đánh giá vai trò của nó trong điều trị bổ trợ.
Nghiên cứu NSABP-B11 so sánh hiệu quả của phác đồ melphalan + 5FU
(MF) với doxorubicine + melphalan + 5FU, kết quả cho thấy việc thêm
doxorubicine vào phác đồ MF giúp cải thiện DFS và OS.


2


Sự thành công của taxane trong điều trị UTV di căn đã đưa đến những
nghiên cứu hiệu quả của chúng trong điều trị bổ trợ. Những nghiên cứu này
được thiết kế taxane kế tiếp anthracyclin, taxane đồng thời với anthracycline
và thay thế anthracyclin bằng nhóm taxane. Các nghiên cứu đều cho thấy
phác đồ hóa chất bổ trợ có thêm taxane cải thiện có ý nghĩa thời gian sống
thêm không bệnh và sống thêm toàn bộ. Hiện nay các phác đồ điều trị UTV
thường bao gồm anthracyclin và taxane là hai thuốc cơ bản. Phác đồ có
taxane kế tiếp sau AC (anthracyclin- cyclophosphamide) gần như là hiệu quả
nhất trong điều trị bổ trợ với ung thư vú giai đoạn sớm [2].
Những nghiên cứu gần đây cho thấy phác đồ có sử dụng paclitaxel hàng
tuần trong 12 tuần sau khi đã trải qua 4 chu kỳ AC giúp cải thiện thời gian
sống thêm không bệnh và thời gian sống thêm toàn bộ so với phác đồ sử dụng
paclitaxel chu kỳ 3 tuần [3].
Tại Việt Nam phác đồ sử dụng paclitaxel hàng tuần sau khi bệnh nhân đã
trải qua 4 chu kỳ AC đã được đưa vào điều trị vài năm gần đây, tuy nhiên hiện
còn ít nghiên cứu đánh giá về hiệu quả của phác đồ trên. Chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài nhằm 2 mục tiêu sau:
1. Đánh giá thời gian sống thêm sau điều trị bổ trợ phác đồ 4AC – 12P
cho bệnh nhân ung thư vú giai đoạn II-IIIA.
2. Đánh giá một số tác dụng không mong muốn của phác đồ.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN

1.1. Dịch tễ học ung thư vú và yếu tố nguy cơ
Ung thư vú (UTV) là bệnh ung thư hay gặp nhất ở phụ nữ, cả ở các nước
phát triển và đang phát triển. Là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ

các nước đang phát triển và hàng thứ hai ở các nước phát triển. Nguy cơ mắc
UTV theo suốt cuộc đời người phụ nữ. Theo GLOBOCAN năm 2012, UTV là
bệnh phổ biến nhất ở phụ nữ với khoảng 1,7 triệu ca mới mắc chiếm 25%
trong tất cả các bệnh ung thư và 591.000 ca tử vong, chiếm 15% trong tổng số
nguyên nhân tử vong do ung thư ở phụ nữ. Nhìn chung bệnh có tỉ lệ mắc cao
ở Bắc Mỹ, Úc, New Zealand, Bắc Âu, Tây Âu. Tỉ lệ mắc trung bình ở các
nước Trung Âu, Đông Âu, các nước Mỹ Latin, vùng Caribbean. Tỉ lệ mắc
thấp ở các nước châu Phi và Châu Á. Sự khác biệt về tỉ lệ mắc mới UTV giữa
các nước trên thế giới phản ánh sự khác nhau trong khả năng phát hiện bệnh ở
giai đoạn sớm và công tác ghi nhận ung thư ở mỗi nước [4].
Tại Việt Nam, UTV cũng đứng đầu trong các ung thư ở phụ nữ về tỉ lệ
mắc. Theo ghi nhận ung thư ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tỉ lệ mắc
ung thư vú năm 2003 ước tính khoảng 17,4/ 100.000 dân [5, 6].
Tỉ lệ mắc mới có xu hướng tăng nhưng tỉ lệ tử vong do bệnh có xu
hướng giảm đó là nhờ những thành tựu trong công tác dự phòng, tầm soát và
điều trị bệnh, đặc biệt là trong điều trị toàn thân.
Mặc dù bệnh căn của UTV chưa được biết rõ nhưng có một số yếu tố
làm tăng nguy cơ phát triển UTV. Theo Lori Jardines và CS cho rằng các yếu


4

tố nguy cơ gồm: gen, di truyền, nội tiết, môi trường và chế độ ăn. Tuy nhiên
khoảng 75% bệnh nhân bị UTV không hề có các yếu tố nguy cơ.
+ Yếu tố gia đình: những người có tiền sử gia đình như: mẹ, chị em gái,
con gái bị UTV thì có nguy cơ bị UTV cao gấp hai đến ba lần so với người
bình thường [7]. Những phụ nữ bị UTV có liên quan đến tiền sử gia đình
thường có xu hướng trẻ hơn và có tỷ lệ UTV hai bên cao hơn [8].
+ Yếu tố nội tiết: estrogen thúc đẩy sự phát triển và hoạt động tăng sinh
của hệ thống ống tuyến vú, làm tăng nguy cơ UTV do việc kích thích sinh các

tế bào chưa biệt hóa. Nồng độ estrogen nội sinh ở những phụ nữ bị UTV cao
hơn so với những người không bị ung thư. Việc sử dụng hormon ngoại sinh
như thuốc tránh thai cũng làm tăng nguy cơ mắc UTV [9].
+ Tiền sử kinh nguyệt: tuổi có kinh, mãn kinh và tiền sử mang thai là yếu
tố liên quan chặt chẽ với UTV. Phụ nữ có thai lần đầu tiên trên 30 tuổi nguy
cơ UTV tăng từ 4 - 5 lần so với phụ nữ đẻ con trước 20 tuổi [10].
+ Tuổi: nguy cơ mắc UTV tăng lên theo tuổi. Tỷ lệ mắc của nhóm dưới
20 tuổi là 0,1/100.000 phụ nữ, và tăng lên 1,4 cho nhóm 20-24 tuổi, 8,1 cho
nhóm 25-29 và 24,8 cho nhóm 30-34 [11]. Tại Việt Nam theo nghiên cứu của
Nguyễn Nhật Tân bệnh thường gặp nhất ở tuổi 41-60 chiếm 68,9%, và dưới
40 tuổi chỉ chiếm 13,8% [7].
+ Chế độ dinh dưỡng: liên quan giữa chế độ dinh dưỡng với UTV, đặc
biệt là chất béo trong khẩu phần ăn với UTV hiện còn nhiều tranh cãi. Rượu
cũng được coi làm tăng nguy cơ UTV. Ngược lại, chế độ ăn nhiều dầu oliu,
ngũ cốc và hoa quả có thể làm giảm nguy cơ này.
+ Các yếu tố môi trường: khi tiếp xúc với những bức xạ ion hóa làm tăng
nguy cơ phát triển UTV.


5

1.2. Sinh lý tuyến vú
1.2.1. Sự phát triển của tuyến vú
Tuyến vú bắt đầu phát triển từ tuổi dậy thì dưới tác động của hai hormon
là estrogen và progesterol. Hormon sẽ kích thích sự phát triển của tuyến và
mô mỡ để chuẩn bị cho khả năng tiết sữa cho con bú.
Những thay đổi tốc độ phát triển mô vú có tính chất chu kỳ và liên quan
đến sự thay đổi hormon trong pha nang và pha hoàng thể.
Hormon estrogen làm phát triển các tuyến sữa của tuyến vú và mô đệm
làm cho vú nở nang. Kết hợp với sự tác động của progesterol làm cho vú phát

triển càng đầy đủ. Progesterol làm phát triển các ống dẫn sữa. Nồng độ
estrogen nội sinh tăng có thể có tác dụng giống histamin trên vi tuần hoàn vú,
hậu quả làm tăng tối đa dòng máu từ 3-4 ngày trước khi có kinh, với sự tăng
trung bình thể tích vú 15-30 cm . Cảm giác đầy tức trước khi có kinh là do
3

tăng phù khoảng giữa các thùy và tăng sinh các ống tận nang tuyến dưới tác
dụng của estrogen và progesteron. Khi có kinh, có sự giảm đột ngột nồng độ
hormon sinh dục lưu thông và hoạt động chế tiết của biểu mô cũng giảm
xuống. Sau khi hết kinh, phù nhu mô giảm xuống, sự xẹp biểu mô ngừng lại
và bắt đầu 1 chu kỳ mới với sự tăng nồng độ estrogen, thể tích vú nhỏ nhất
vào 5 – 7 ngày sau khi sạch kinh.
1.2.2. Điều hòa hoạt động
Hoạt động của tuyến vú được điều hòa với trục dưới đồi - tuyến yên buồng trứng. Hormon của các tuyến này sẽ ảnh hưởng đến hình thái và chức
năng tuyến vú thông qua 2 hormon là FSH và LH.
1.2.3. Thụ thể nội tiết
Thụ thể nội tiết đối với estrogen ( ER), với progesterol (PR) và một số
yếu tố tăng trưởng đã được nhận diện và xác định tính chất bằng hóa mô miễn
dịch. Khoảng 66% bệnh nhân có thụ thể estrogen dương tính trong tổ chức u


6

và khoảng 50 % trong số đó khi điều trị các u di căn bằng nội tiết có đáp ứng
thông qua việc thu nhỏ kích thước u.
Sự có mặt của thụ thể estrogen và progesterol là một yếu tố tiên lượng về
khả năng đáp ứng điều trị. Thời gian sống thêm toàn bộ, thời gian sống thêm
không bệnh, thời gian sống thêm không tiến triển, đáp ứng với điều trị nội tiết
có liên quan đến mức độ bộc lộ ER và PR.
1.3. Bệnh sinh ung thư vú

Đa số các tế bào ung thư vú xuất phát từ tế bào biểu mô lót mặt trong
tiểu thùy hoặc ống dẫn sữa của tuyến vú. Các ung thư xuất phát từ các thành
phần khác của tuyến vú ít gặp. Các tế bào biểu mô này bị ung thư hóa và nhân
lên nhanh chóng với chu kỳ tế bào khoảng 60 ngày. Ban đầu khi nhân lên, các
tế bào này chưa phá vỡ màng đáy. Nếu bệnh được phát hiện ở giai đoạn này
gọi là ung thư biểu mô tại chỗ. Về sau các tế bào phá vỡ màng đáy, trở thành
ung thư thể xâm nhập. Từ đây các tế bào ung thư lan tràn bằng các con đường
sau đây:
● Xâm lấn trực tiếp: sự xâm lấn trực tiếp thường phân nhánh, cho hình ảnh
đặc trưng là hình sao khi phẫu tích bệnh phẩm và chụp XQ tuyến vú. Nếu
không điều trị u sẽ xâm lấn ra da hoặc cân cơ ngực lớn phía dưới.
● Phát triển dọc theo các ống trong tuyến vú : có thể gây nên tổn thương
toàn bộ vú, điển hình là UTV thể viêm.
● Theo đường bạch huyết : thông qua mạng mạch bạch huyết dày đặc, tế
bào ung thư lan tới các chặng hạch trong đó hạch nách là hay gặp nhất
vì nó là vị trí chính dẫn lưu dịch, bạch huyết của vú. Từ đây tế bào ung
thư đi lên các hạch thượng đòn rồi vào hệ tĩnh mạch. Ngoài ra, tế bào
ung thư cũng có thể di căn đến hạch vú trong, hạch trung thất.
● Theo đường máu : di căn đến các tạng xương, phổi, gan, não. Khoảng
20-30% BN có hạch nách âm tính nhưng lại có di căn xa đến các tạng.


7

1.4. Chẩn đoán ung thư vú
1.4.1.Lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của UTV rất đa dạng.
- Khối u ở vú và vị trí: khoảng 90% triệu chứng đầu tiên của bệnh UTV
là có khối u. UTV mới phát hiện triệu chứng rất nghèo nàn. Giai đoạn cuối u
đã xâm lấn rộng ra xung quanh, vào thành ngực thì di động hạn chế thậm chí

không di động. Vị trí khối u thường 1/4 trên ngoài 40,9% [12] [13].
- Thay đổi da trên vị trí khối u: Dính da là một đặc điểm lâm sàng quan
trọng để chẩn đoán UTV [12]. Khối u xâm lấn ra ngoài da gây sần da cam,
gây vỡ loét chảy máu, chảy dịch. UTV có thể làm cho da vú ở vị trí trên khối
u đỏ lên và nóng tại chỗ, có thể có phù da, sần da như vỏ cam, có khi nóng đỏ
toàn bộ vú ở UTV thể viêm.
- Thay đổi hình dạng núm vú: khối u xâm lấn gây co kéo tổ chức xung
quanh. Khi khối u ở gần núm vú có thể gây tụt núm vú, lệch núm vú. Một số
trường hợp UTV (Paget núm vú) gây loét núm vú, lúc đầu thường chẩn đoán
nhầm là chàm.
- Chảy dịch đầu vú: UTV đôi khi gây chảy dịch đầu vú. Một số trường
hợp bệnh nhân đến bệnh viện vì do lý chảy dịch đầu vú. Dịch chảy có thể là
dịch không màu, dịch nhày, nhưng thường là dịch máu. Trong số bệnh nhân
có chảy dịch đầu vú thì chỉ có 5% là bệnh UTV còn lại là các bệnh lành tính
tuyến vú gây ra, và trong số bệnh nhân bị UTV thì có 2,6% là có chảy dịch
đầu vú kèm theo khối u vú [12] [14].
- Hạch nách sưng to: giai đoạn đầu hạch nách thường nhỏ mềm khó phát
hiện trên lâm sàng. Giai đoạn muộn hạch nách to, cứng chắc, đôi khi dính
nhau, dính tổ chức xung quanh nên di động hạn chế.
- Đau vùng vú: thường UTV giai đoạn đầu không gây đau, đôi khi có thể
bị đau vùng vú, nhấm nhứt không thường xuyên.


8

- Biểu hiện UTV giai đoạn tiến triển: UTV giai đoạn cuối tại chỗ có thể
xâm lấn gây lở loét, hoại tử ra ngoài da gây chảy dịch, mùi hôi thối, xâm lấn
thành ngực gây đau nhiều. Đau xương thường là dấu hiệu gợi ý di căn xương
sớm; ho, khó thở có thể là biểu hiện di căn phổi; mệt mỏi, chán ăn, gầy sút có
thể gợi ý di căn gan; các triệu chứng bất thường về thần kinh có thể gợi ý di

căn não..
+ Di căn xương: Xương là vị trí di căn thường gặp nhất trong ung thư vú
[15]. Các bằng chứng phẫu tích tử thi cho thấy khoảng 70% bệnh nhân tử
vong vì UTV có bằng chứng của di căn xương [16]. Các yếu tố nguy cơ cho
sự phát triển của di căn xương bao gồm lớn hơn bốn hạch nách di căn tại thời
điểm chẩn đoán ban đầu, khối u nguyên phát lớn hơn 2 cm, thụ thể estrogen
dương tính, và độ tuổi trẻ hơn [17]. Thời gian sống thêm trung bình của bệnh
nhân UTV di căn liên quan đến xương được ước tính là 2 năm, với khoảng
20% bệnh nhân sống 5 năm [18] [19]. Những bệnh nhân chỉ di căn xương đơn
thuần có thể có thời gian sống trung bình lâu hơn, ước tính 72 tháng [20]. Đau
xương thường là triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất của di căn xương, đau
tăng khi vận động, do đó ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Bệnh nhân có thể có dấu hiệu chèn ép tủy do di căn dương cột sống, hoặc
triệu chứng của gãy xương bệnh lí.
+ Di căn não: Thường biểu hiện triệu chứng đau đầu, có thể đau âm ỉ
hoặc dữ dội, kéo dài; các triệu chứng khác của bệnh lí thần kinh như: liệt chi,
liệt thần kinh sọ, rối loạn tri giác, rối loạn cảm giác, rối loạn trí nhớ, co giật..
có thể gặp.
+ Di căn các tạng thường gặp khác: Di căn phổi, màng phổi thường biểu
hiện biểu hiện ho, khó thở, có thể có hội chứng tràn dịch màng phổi. Di căn
gan biểu hiện mơ hồ với các triệu chứng chán ăn, gầy sút, đau hạ sườn phải,
sờ thấy gan to dưới bờ sườn, muộn hơn có thể biểu hiện suy gan.


9

1.4.2.Cận lâm sàng
+ Chẩn đoán tế bào học: tế bào học được làm từ những tổn thương loét ở
vú hay tiết dịch ở núm vú, khối u hay mảng cứng ở vú.
+ Chụp X- quang tuyến vú (mammography): vai trò của chụp tuyến vú là

phát hiện các tổn thương nghi ngờ hoặc ác tính. Hình ảnh điển hình là tổn
thương co kéo tổ chức xung quanh, bờ không đều, tổn thương hình sao, có
lắng đọng canxi hoặc vi lắng đọng canxi trong ung thư thể ống tại chỗ.
+ Chụp X-quang tuyến sữa (galactography): được sử dụng trong trường
hợp chảy dịch đầu vú mà lâm sàng không phát hiện thấy khối u.
+ Sinh thiết kim: để chẩn đoán mô bệnh học, giúp xác định hình ảnh mô
bệnh học của tổn thương, tình trạng thụ thể nội tiết và Her-2/neu. Hiện nay
sinh thiết kim đang được sử dụng rộng rãi với độ nhạy và độ đặc hiệu cao, ít
can thiệp và an toàn. Tuy nhiên sinh thiết kim còn hạn chế khi không lấy được
hết khối u, dẫn đến đôi khi nhầm lẫn thể giải phẫu bệnh xâm nhập hay không
xâm nhập và độ mô học
+ Sinh thiết định vị: Sinh thiết định vị có ý nghĩa cao trong các trường
hợp tổn thương không sờ được trên lâm sàng, nhưng hình ảnh gợi ý rõ trên
phim chụp hoặc siêu âm, giúp giảm bớt bỏ sót các UTV giai đoạn sớm, chưa
có biểu hiện trên lâm sàng.
+ Sinh thiết tức thì (STTT) có độ nhạy cao, có tính ưu việt giúp bệnh
nhân không phải thêm một lần mổ. STTT hạch cửa giúp phẫu thuật viên quyết
định có vét hạch nách tiếp hay không trong phẫu thuật UTV. Hiện nay kĩ thuật
này được áp dụng rộng rãi ở các bệnh viện, trung tâm ung thư lớn.
+ Sinh thiết mở: vẫn được coi là “tiêu chuẩn vàng” để khẳng định UTV
và bản chất khối u, tuy nhiên tính can thiệp cao hơn, phức tạp hơn các phương
pháp mới nên hiện nay ít được sử dụng hơn.


10

+ Sinh thiết lại để chẩn đoán xác định di căn và tình trạng thụ thể nội
tiết, Her-2/neu của khối u di căn là chỉ định cần thiết cho các bệnh nhân UTV
tái phát.
+ Siêu âm tuyến vú: có giá trị chủ yếu để phân biệt tổn thương là nang

với những tổn thương đặc của vú, và đo chính xác kích thước các u vú đặc.
Đặc điểm hình thái của khối u đôi khi gợi ý các tổn thương ác tính.
+ Các xét nghiệm đánh giá toàn thân:

● Chụp phổi: phát hiện tổn thương, di căn ở phổi. Hình ảnh di căn phổi
trên X-quang phổi bao gồm: Di căn thể thả bóng, đặc trưng bởi hình
tròn mờ kích thước to nhỏ khác nhau từ đáy phổi phát triển lên phía
trên như hình thả bóng; di căn thể hạt kê - có nhiều nốt nhỏ như hạt kê
rải rác khắp 2 phổi, nhưng tập trung nhiều ở đáy phổi, càng lên phía
trên mật độ càng giảm; di căn thể nốt biểu hiện bằng những nốt mờ
kích thước khác nhau, thường xuất hiện ở đáy phổi và quanh rốn phổi;
di căn thể lưới ít gặp hơn. X quang phổi có thể cho hình ảnh rõ về tràn
dịch màng phổi thể tự do hay khu trú, có thể do di căn màng phổi.

● Siêu âm ổ bụng: là phương pháp tốt, ít can thiệp. Quan sát các tạng
trong ổ bụng, đặc biệt là khảo sát các tạng đặc, hạch ổ bụng. Hình ảnh
di căn gan trên siêu âm của ung thư vú thường được biểu hiện là các
khối giảm âm, đồng nhất, có thể một hay đa khối. Ngoài ra siêu âm còn
cho phép hướng dẫn chọc dò sinh thiết, giúp chẩn đoán xác định. Tuy
nhiên, siêu âm bị hạn chế khi bệnh nhân béo, hơi trong các quai ruột,
sẹo thành bụng, đồng thời đây là một phương pháp phụ thuộc nhiều vào
chủ quan của người thăm khám.

● Chụp cắt lớp vi tính: Cho phép đánh giá rõ các tổn thương nguyên phát,
thứ phát và theo dõi kết quả đáp ứng. Hình ảnh di căn phổi, màng phổi,
biểu hiện ở các nốt tổn thương hai phổi, mức độ tràn dịch màng phổi,


11


hạch trung thất nếu có. Trên phim chụp cắt lớp ổ bụng, độ nhạy của
phương pháp có thể lên đến 90% ở các khối u có đường kính >2cm;
70% khối u có đường kính <1cm. Trước khi tiêm thuốc, tổn thương
biểu hiện bằng các nốt giới hạn rõ, giảm tỉ trọng, trung tâm có thể có
những vùng hoại tử hoặc chảy máu. Sau khi tiêm thuốc cản quang, hình
ảnh hay gặp là một vùng trung tâm giảm tỉ trọng được bao quanh bởi
vòng tăng tỉ trọng ở thì động mạch và kéo dài tới thì tĩnh mạch, hiếm
hơn đôi khi có thể bắt thuốc đồng nhất hoặc thậm chí không bắt thuốc.

● Chụp cộng hưởng từ: Chụp cộng hưởng từ có độ nhạy cao hơn chụp cắt
lớp vi tính trong chẩn đoán di căn gan. Các khối di căn biểu hiện bằng
các khối u giới hạn rõ, giảm tín hiệu trên T1 và tăng tín hiệu trên T2.

● Xạ hình xương: Sau khi tiêm Tc-99m – diphosphonate vào cơ thể 2 - 6
giờ thì 50% liều sẽ hấp thu ở xương, sau đó sẽ thải trừ qua thận, thời
gian bán hủy ngắn 6 giờ. Tỉ số hấp thu chất đánh dấu của mô xương/mô
mềm sẽ tăng theo thời gian, do đó người ta chọn thời điểm 2-3 giờ sau
tiêm để khảo sát xạ hình xương. Xạ hình xương có độ nhạy cao, tuy
nhiên độ đặc hiệu thấp, nên kết hợp với lâm sàng, Xquang, chụp cắt lớp
vi tính hoặc cộng hưởng từ để có kết quả chính xác hơn.

● Chất chỉ điểm khối u CA 15- 3: chỉ điểm u CA15-3 không đặc hiệu, nên
không có giá trị cao trong chẩn đoán ung thư vú giai đoạn sớm, tuy
nhiên có tính chất gợi ý bệnh tái phát, tiến triển hoặc theo dõi điều trị
ung thư vú giai đoạn tiến triển.

● Các xét nghiệm khác: để đánh giá toàn trạng bệnh nhân và khả năng
chịu đựng các phương pháp điều trị.
1.4.3. Chẩn đoán mô bệnh học và hóa mô miễn dịch
1.4.3.1. Phân loại mô học

Phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới 1981:
Không xâm nhập
Ung thư biểu mô ống tại chỗ
Ung thư biểu mô tiểu thuỳ tại chỗ


12

Xâm nhập
Ung thư biểu mô ống xâm nhập
Ung thư biểu mô ống xâm nhập với thành phần nội ống trội
Ung thư biểu mô tiểu thuỳ xâm nhập
Ung thư biểu mô thể nhầy
Ung thư biểu mô thể tuỷ
Ung thư biểu mô thể nhú
Ung thư biểu mô thể ống nhỏ
Ung thư biểu mô dạng tuyến nang
Ung thư biểu mô chế tiết
Ung thư biểu mô bán huỷ
Ung thư biểu mô dị sản
+ Dị sản vẩy
+ Dị sản tế bào hình thoi
+ Dị sản xương và sụn
+ Loại hỗn hợp.
Các loại khác:
Bệnh Paget núm vú
1.4.3.2. Độ mô học
Vai trò tiên lượng của độ mô học với bệnh nhân UTV đã được chứng
minh rất rõ ràng trong nhiều nghiên cứu lâm sàng, độ mô học cao có tỷ lệ di
căn xa nhiều hơn và thời gian sống thêm ngắn hơn so với nhóm có độ mô học

thấp. Nguyễn Đăng Đức (1999) cũng đã nêu mối liên quan có ý nghĩa giữa độ
mô học với thời gian sống thêm có tái phát và di căn. Kết quả cho thấy nhóm
có tái phát có độ II và III cao hơn nhóm không tái phát. Nhóm không tái phát
có độ nhân chia I cao hơn nhóm có tái phát.


13

1.4.3.3. Hoá mô miễn dịch trong UTV.
Trong những năm đầu thập kỷ 90, kỹ thuật phục hồi kháng nguyên đã
khắc phục sự thay đổi trong cấu trúc của protein gây nên do cố định được coi
là một cuộc cách mạng trong nghiên cứu bệnh học phân tử. Gần đây, kỹ thuật
này trở thành phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá các dấu
ấn sinh học như thụ thể estrogen (ER) và progesteron (PR), protein u Her2/neu (c-erbB-2), Ki67, p53 [21].
1.4.3.4. Phân loại Luminal trong ung thư vú
Hội nghị đồng thuận quốc tế St Gallen 2011 đã đưa ra phân loại mới
trong ung thư vú dựa vào đặc điểm phân tử học của các khối u ung thư biểu
mô vú xâm nhập. Phân loại Luminal bao gồm 4 phân nhóm :
- Luminal A: ER và/hoặc PR dương tính, Her-2/neu âm tính, Ki-67 thấp (<14%).
- Luminal B: Bao gồm nhóm Luminal B, Her-2/neu âm tính (ER và/hoặc
PR dương tính, Her-2/neu âm tính, Ki-67 cao) và nhóm Luminal B, Her-2/neu
dương tính (ER và/hoặc PR dương tính, Her-2/neu dương tính, Ki-67 bất kì).
- Nhóm khuếch đại Erb-B2: Her-2/ neu dương tính. ER và PR âm tính.
- Nhóm tế bào dạng đáy (Basal-like): ER, PR và Her-2/ neu âm tính.
Phân loại Luminal có giá trị lớn trong tiên đoán điều trị và tiên lượng
điều trị
1.4.4. Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán xác định UTV nhất thiết phải có sự khẳng định giải phẫu
bệnh học.
Phương pháp sinh thiết ngoài ý nghĩa để chẩn đoán xác định còn có giá trị

để đánh giá trình trạng thụ thể nội tiết (TTNT) (ER, PR) và Her-2/neu nhằm định
hướng cho phương pháp điều trị nội tiết, hoá chất và để tiên lượng bệnh.


14

1.4.5. Chẩn đoán giai đoạn

● Điểm khác biệt của AJCC 2002 và AJCC 2010 là phân loại các vi di
căn bằng phương pháp nhuộm hóa mô miễn dịch (IHC) hay phản ứng
khuếch đại chuỗi gen (RT-PCR), theo đó giai đoạn pN0, pN1 được chia
nhỏ hơn.

● T (U nguyên phát)
Tx: Không xác định được u nguyên phát
T0: Không có dấu hiệu u nguyên phát
Tis: Ung thư biểu mô tại chỗ: ung thư biểu mô ống tại chỗ; ung thư biểu mô
tiểu thuỳ tại chỗ hoặc bệnh Paget của núm vú nhưng không có u.
T1: U có đường kính ≤ 2 cm
T1 mic: U có đường kính ≤ 0,1 cm
T1a: 0,1 cm < U có đường kính ≤ 0,5 cm

● T 1b: 0,5 cm < U có đường kính ≤ 1 cm
● T 1c: 1 cm < U có đường kính ≤ 2 cm
T2: 2 < đường kính u ≤ 5 cm
T3: U có đường kính > 5 cm
T4: U với mọi kích thước nhưng xâm lấn trực tiếp tới thành ngực hoặc
da (thành ngực bao gồm xương sườn, cơ liên sườn, cơ răng trước,
không tính cơ ngực lớn)
T4a: U xâm lấn tới thành ngực.

T4b: Thâm nhiễm sần da cam, loét da vú hoặc có nhiều u nhỏ dạng
vệ tinh ở vú cùng bên.
T4c: Bao gồm cả T4a và T4b


15

T4d: UTV thể viêm

● N (Hạch vùng theo lâm sàng)
Nx: Không xác định được hạch vùng
N0: Không di căn hạch vùng
N1: Di căn hạch nách cùng bên, di động
N2a: Di căn hạch nách cùng bên nhưng hạch dính vào nhau hoặc dính
vào mô xung quanh
N2b: lâm sàng có di căn hạch vú trong cùng bên nhưng không có di căn
hạch nách.
N3a: di căn hạch hạ đòn
N3b: di căn hạch nách cùng với hạch vú trong cùng bên
N3c: di căn hạch thượng đòn cùng bên.

● pN (Hạch vùng theo giải phẫu bệnh sau mổ)
Phân loại này dựa trên phẫu tích hạch nách kèm theo hay không kèm
theo phẫu tích hạch cửa.
pNX : Không thể đánh giá được hạch bạch huyết vùng.
pN0: Không có di căn hạch vùng; không cần xét nghiệm bổ sung đối
với tế bào u được phân lập.
pN0(i-): Không có di căn hạch trên mô bệnh học, hóa mô miễn dịch âm tính.
pN0(i+): Không có di căn hạch trên mô bệnh học nhưng hóa mô miễn
dịch dương tính; không thấy có các cụm tế bào có đường kính >0,2mm.

pN0(mol-): Không có di căn hạch trên mô bệnh học và xét nghiệm phân
tử (theo phương pháp RT-PCR) âm tính.
pN0(mol+): Không có di căn hạch trên mô bệnh học, nhưng xét nghiệm
phân tử (theo phương pháp RT-PCR) dương tính.
pN1: Di căn tới 1-3 hạch nách cùng bên và/hoặc hạch vú trong ở mức
vi thểđược phát hiện bằng phẫu tích hạch cửa song không rõ rệt trên lâm sàng.


16

pN1mi: Di căn vi thể (< 0,2mm; không có hạch nào >2,0mm).
pN1a: Di căn tới 1-3 hạch nách
pN1b: Di căn vi thể tới hạch vú trong với tổn thương vi thể được phát
hiện bằng phẫu tích hạch nách kèm theo hay không kèm theo phẫu tích hạch
cửa song không biểu hiện rõ về phương diện lâm sàng.
pN1c: Di căn tới 1-3 hạch nách cùng bên và với hạch vú trong với tổn
thương vi thểđược phát hiện nhờ phẫu tích hạch nách kèm theo hay không
kèm theo phẫu tích hạch cửa song không biểu hiện rõ về phương diện lâm
sàng. Nêu kết hợp với >3 hạch nách dương tính, các hạch vú trong được phân
loại như giai đoạn N3b để phản ánh tình trạng tăng nặng của khối u.
pN2: Di căn tới 4-9 hạch nách hoặc hạch vú trong được biểu hiện rõ
trên lâm sàng song không có hạch nách.
pN2a: Di căn tới 4-9 hạch nách
pN2b: lâm sàng có di căn hạch vú trong cùng bên nhưng không có di
căn hạch nách.
pN3: Di căn tới > 10 hạch nách, hoặc tới hạch dưới đòn, hoặc hạch vù
trong cùng bên rõ rệt trên lâm sàng đi kèm với một hay nhiều hạch nách
dương tính; hoặc tới > 3 hạch nách song biểu hiện di căn trên lâm sàng đối
với các hạch vú trong; hoặc tới một hay nhiều hạch thượng đòn cùng bên.
pN3a: Di căn tới ≥ 10 hạch nách (ít nhất phải có một u > 2,0mm), hay

di căn tới hạch vú trong.
pN3b: Di căn tới hạch vú trong cùng bên được thấy rõ trên lâm sàng đi
kèm với một hoặc nhiều hạch nách dương tính được phát hiện bằng phẫu tích
hạch nách kèm theo hay không kèm theo phẫu tích hạch cửa song không biểu
hiện rõ về phương diện lâm sàng.
pN3c: Di căn tới một hay nhiều hạch thượng đòn cùng bên.

● M (Di căn xa)
Mx: Không xác định được di căn xa ở thời điểm chẩn đoán.
M0: Không di căn xa.


17

M1: Di căn xa.

● Giai đoạn
Giai đoạn 0:

Tis

N0

M0

Giai đoạn I:

T1

N0


M0 (bao gồm cả T1mic)

Giai đoạn IIA:

T0,1 N1 M0; T2 N0 M0 (bao gồm cả T1mic)

Giai đoạn IIB:

T2 N1 M0; T3 N0 M0 (bao gồm cả T1mic)

Giai đoạn IIIA:

T0,1,2 N2 M0; T3 N1,2 M0 (bao gồm cả T1mic)

Giai đoạn IIIB:

T4

Giai đoạn IIIC:

mọi T N3

Giai đoạn IV:

mọi T mọi N M1

N0,1,2 M0
M0


1.5. Điều trị ung thư vú
Nhờ những tiến bộ trong lĩnh vực sinh học phân tử trong nên những năm
gần đây đã có nhiều thay đổi trong điều trị bệnh UTV. Trước đây người ta
quan niệm UTV là bệnh tại chỗ, tại vùng nên phương pháp điều trị được áp
dụng là điều trị bằng phẫu thuật và xạ trị là chính. Tuy nhiên, tỷ lệ xuất hiện
tái phát, di căn rất cao trong vòng 1-2 năm sau điều trị mặc dù được phát hiện
ở giai đoạn sớm. Điều này đã đưa ra giả thuyết là xuất hiện các tế bào vi di
căn của UTV ngay trong quá trình điều trị. Từ đây xuất hiện quan niệm UTV
là bệnh toàn thân và cần phải áp dụng các phương pháp điều trị hệ thống để
bổ sung cho các phương pháp điều trị tại chỗ. Ba phương pháp được áp dụng
trong điều trị ung thư là phẫu thuật, xạ trị và điều trị hệ thống (hoá chất, nội
tiết, kháng thể đơn dòng). Có thể nói điều trị UTV là sự phối hợp điển hình
giữa các phương pháp này [21].
Trên thực tế lâm sàng, trước khi quyết định áp dụng phương pháp điều
trị các thầy thuốc căn cứ vào nhiều yếu tố bao gồm giai đoạn bệnh, thể mô
học, ĐMH, tình trạng TTNT, Her-2/neu, tuổi và một số yếu tố khác. Giai đoạn
bệnh là yếu tố chính quyết định việc lựa chọn phương pháp điều trị.


18

1.5.1. Phẫu thuật
Trong những thập niên trước đây, phẫu thuật cắt tuyến vú triệt căn (phẫu
thuật Halsted) đối với những bệnh nhân UTV là cắt toàn bộ vú thành một khối
bao gồm da trên u, cơ ngực lớn, cơ ngực bé và toàn bộ hạch nách (hạch chặng
I, II, III) dựa trên quan điểm đây là một bệnh tại chỗ, phẫu thuật mở rộng như
vậy sẽ kiểm soát bệnh được tốt hơn. Tuy phẫu thuật Halsted kiểm soát bệnh
tại chỗ tốt nhưng để lại hậu quả nặng nề cho bệnh nhân như phù tay, đi vẹo
người mà khả năng triệt căn còn hạn chế. Vì thế Patey đề xuất phương pháp
cắt tuyến vú triệt căn biến đổi bao gồm cắt bỏ toàn bộ tuyến vú, cân cơ dưới

cơ ngực lớn (bảo tồn cơ ngực lớn, cơ ngực bé) và vét hạch chặng I,II. Phẫu
thuật Patey đem lại nhiều lợi ích về thẩm mỹ và chức năng cho bệnh nhân.
Những năm cuối thập niên 70, một nghiên cứu được tiến hành trên 311 bệnh
nhân UTV được phẫu thuật bằng hai phương pháp khác nhau, một nhóm được
phẫu thuật cắt tuyến vú triệt căn (phẫu thuật Halsted), nhóm kia được phẫu
thuật cắt tuyến vú triệt căn biến đổi (phẫu thuật Patey). Kết quả cho thấy
không có sự khác biệt về DFS và OS giữa hai nhóm trên [22].
Đối với những bệnh nhân giai đoạn sớm, khối u nhỏ, có thể áp dụng
phẫu thuật bảo tồn tuyến vú kết hợp với xạ trị.
Ngày nay, với sự tiến bộ của điều trị hóa chất, đối với khối u to, người ta
có thể truyền hóa chất trước phẫu thuật để làm giảm kích thước khối u, tạo
điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật.
1.5.2. Xạ trị
Xạ trị nhằm làm giảm nguy cơ tái phát tại chỗ tại vùng và chứng minh được
hiệu quả trong cải thiện thời gian sống thêm. Các thử nghiêm lâm sàng cũng chỉ ra
rằng việc tăng liều xạ tại giường u có thể làm giảm khả năng tái phát.


19

Chỉ định xạ trị trong các trường hợp sau:
- Sau phẫu thuật bảo tồn vú.
Theo NCCN Guidelines Version 2.2017:
Liều xạ toàn bộ vú từ 46 – 50 Gy chia làm 23 – 25 lần, 5 buổi/ tuần
trong 5 tuần. Nâng liều tại giường u 10 – 16 Gy chia làm 4 – 8 lần đối với
những bệnh nhân có nguy cơ tái phát cao.
Đối với những bệnh nhân ≥ 70 tuổi, không sờ thấy hạch trên lâm sàng,
ER ( + ), u ở giai đoạn T1 sau phẫu thuật bảo tồn ( nếu diện cắt âm tính ) có
thể không cần thiết phải xạ trị mà điều trị nội tiết bằng tamoxifen hoặc kháng
aromatase.

Đã có những nghiên cứu trên những bệnh nhân ≥ 70 tuổi, UTV giai
đoạn I, có ER dương tính. Những bệnh nhân này được chia làm hai nhóm :
một nhóm được phẫu thuật bảo tồn kết hợp với xạ trị sau mổ. Nhóm kia chỉ
phẫu thuật bảo tồn. Cả 2 nhóm trên đều được dùng tamoxifen trong 5 năm.
Kết quả nghiên cứu tỉ lệ tái phát là 1 % với nhóm được xạ trị, 4% với nhóm
không xạ trị. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thông kê.
- Sau phẫu thuật cắt tuyến vú, chỉ định xạ trị trong các trường hợp sau:
Di căn hạch
U giai đoạn T3, T4
Diện cắt dương tính
Độ mô học III
U xâm lấn mạch máu và bạch huyết
U đa ổ
Phá vỡ mạch máu
Bệnh nhân đã được điều trị hóa chất trước phẫu thuật
Tuy nhiên dưới ảnh hưởng của tia xạ, BN cũng có thể gặp những tác
dụng không mong muốn.


20

Biến chứng sau xạ trị:
Viêm da
Phù cánh tay: tỉ lệ khoảng 16 – 40% nếu bệnh nhân được vét hạch
nách và xạ trị hố nách, liều xạ càng cao tỉ lệ phù cách tay càng tăng [23].
Xơ hóa tại chỗ
Loét hoại tử xương sườn
Viêm phổi
Tổn thương tim : Có mối liên hệ giữa thiếu máu cơ tim và xạ trị ở
những bệnh nhân bị ung thư vú. Các triệu chứng của bệnh mạch vành tăng lên

theo liều xạ của bệnh nhân và những bệnh nhân bị UTV bên trái được xạ trị
nguy cơ bị thiếu máu cơ tim cũng nhiều hơn so với bên phải [24].
Ung thư thứ phát sau tia xạ.
1.5.3. Điều trị toàn thân
1.5.3.1. Hóa chất bổ trợ
Trong những năm qua, điều trị toàn thân bằng hóa chất và nội tiết đã
khẳng định được hiệu quả thông qua sự cải thiện của thời gian sống thêm toàn
bộ và thời gian sống thêm không bệnh. Là một phần không thể thiếu của điều
trị đa mô thức trong ung thư vú giai đoạn sớm.
Hóa trị là phương pháp dùng các thuốc gây độc tế bào để tiêu diệt tế bào
ung thư. Các thuốc được đưa vào cơ thể thông qua đường máu. Do vậy nó gây
ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể.
Với quan điểm UTV là một bệnh toàn thân, do đó điều trị hóa chất toàn
thân có vai trò rất quan trọng trong UTV.
Đã có rất nhiều phác đồ hóa trị được sử dụng, thường là các phác đồ đa
hóa chất. Các phác đồ hóa chất bao gồm các phác đồ có Anthracyclin, phác đồ
không có anthracyclin và phác đồ có taxane. Các nghiên cứu CALGB 9344 và
NSABP B-27 đều cho thấy kết quả điều trị tốt hơn rõ rệt khi dùng phác đồ có
kết hợp cả Anthracyclin và Taxane [25] [26].


21

Một số phác đồ đa hóa chất bổ trợ hay được sử dụng là :
❖ Phác đồ không chứa Trastuzumab
Phác đồ TAC
● Doxorubicin: 50 mg/m2

TM ngày 1


● Docetaxel: 75 mg/m2

TM ngày 1

● Cyclophosphamide 500 mg/ m2

TM ngày 1

Chu kỳ 21 ngày x 6 chu kỳ
Tất cả các chu kỳ đều dùng G – CSF hỗ trợ
Phác đồ TC
● Docetaxel 75 mg/m2

TM ngày 1

● Cyclophosphamide 600 mg/m2 TM ngày 1
Chu kỳ 21 ngày x 4 chu kỳ
Phác đồ AC

● Doxorubicin 60 mg/m2

TM ngày 1

● Cyclophosphamide 600 mg/m2 TM ngày 1
Chu kỳ 21 ngày x 4 chu kỳ
❖ Phác đồ có chứa Trastuzumab trong trường hợp Her2 dương tính
Phác đồ AC – P + Trastuzumab

● Doxorubicin 60 mg/m2 TM ngày 1
● Cyclophosphamide 600 mg/m2 TM ngày 1

Chu kỳ 21 ngày x 4 chu kỳ. Tiếp sau đó là:
● Paclitaxel 80 mg/m2 tĩnh mạch ( trong 1 giờ )
Chu kỳ hàng tuần x 12 tuần, cùng với
● Trastuzumab 4mg/kg tĩnh mạch với chu kỳ đầu tiên với Paclitaxel
Tiếp sau đó:


22

● Trastuzumab 2mg/kg TM hàng tuần x liên tục trong 1 năm. Hoặc sau khi đã
kết thúc 12 tuần paclitaxel, trastuzumab 6mg/kg TM mỗi 3 tuần x liên tục
trong 1 năm.
15.3.2. Điều trị nội tiết
Điều trị nội tiết kìm hãm sự phát triển của tế bào ung thư. Các thuốc điều
trị nội tiết sẽ loại bỏ các hormon trực tiếp kích thích khối u phát triển, ngăn
chặn sự sản xuất hay tiết ra các chất dinh dưỡng có tác dụng kích thích trực
tiếp khối u phát triển. Sau khi điều trị nội tiết khối u có thể thoái lui hoặc bệnh
nhân thấy giảm triệu chứng trong một thời gian.
Năm 1896 Beatson là người đầu tiên ghi nhận được trên một số bệnh
nhân ung thư vú khối u thoái lui sau khi được cắt buồng trứng. Từ đó nội tiết
tố được sử dụng để điều trị một số bệnh có liên quan đến nội tiết.
Trong ung thư vú, liệu pháp nội tiết dùng để hỗ trợ cho điều trị UTV có
ER (+) ở giai đoạn sớm.
Phương pháp này có thể chia làm các nhóm:
- Các thuốc kháng Estrogen: các thuốc này không làm giảm nồng độ
estrogen mà gắn với các thụ thể estrogen của tế bào, khóa các thụ thể
này làm estrogen mất tác dụng kích thích tế bào phát triển. Thuốc nhóm
này có Tamoxifen từ năm 1973, tiếp đó là fulvestrant, sau này có
raloxifen
- Chất làm giảm sự sản xuất estrogen: thuốc kháng aromatase.

- Cắt buồng trứng: có thể cắt buồng trứng bằng phẫu thuật, nội khoa (dẫn
chất GnRH ) hoặc xạ trị.
1.5.3.3. Điều trị sinh học
Her2/neu có sự biểu hiện quá mức ở khoảng 20-30% bệnh nhân ung thư
vú. Các khối u này sẽ phát triển và lan tràn nhanh hơn các khối u không có
biểu hiện quá mức gen này.


23

Sự hiểu biết về sinh học phân tử về ung thư vú đã cho ra đời thuốc mới
Trastuzumab (Herceptin). Sự kết hợp trastuzumab và paclitaxel sau khi BN đã
trải qua hóa trị với doxorubicine - cyclophosphamide cải thiện đáng kể thời
gian sống ở các BN ung thư vú giai đoạn sớm có sự biểu lộ quá mức Her2neu [27].
Nghiên cứu HERA được tiến hành trên 5102 bệnh nhân UTV giai đoạn
sớm có Her2 dương tính. Các bệnh nhân này sau khi hoàn thành điều trị phẫu
thuật, hóa trị, xạ trị sẽ được chia làm 3 nhóm. Một nhóm điều trị trastuzumab
( Herceptin ) trong 1 năm, một nhóm điều trị Herceptin trong 2 năm, nhóm
còn lại chi theo dõi. Qua thời gian theo dõi 11 năm, kết quả cho thấy DFS của
nhóm dùng Herceptin trong 1 năm cải thiện có ý nghĩa so với nhóm chỉ theo
dõi. Nhóm dùng Herceptin trong 2 năm không thấy có khác biệt về DFS so
với nhóm chỉ dùng trong 1 năm [28].
1.6. Các nghiên cứu về phác đồ 4 AC- 12P đã được báo cáo
Paclitaxel là một trong những thuốc được nghiên cứu nhiều nhất trong
UTV. Những thử nghiệm ban đầu về paclitaxel, nó được sử dụng truyền tĩnh
mạch trong 24 giờ chu kỳ 21 ngày. Những nghiên cứu sau này cho thấy rằng
truyền paclitaxel trong 3 giờ thuận tiện hơn và cũng cho hiệu quả tương
đương với truyền trong 24 giờ và 96 giờ. Tăng liều paclitaxel từ 175 mg/m 2
lên 250 mg/m2 không hiệu quả hơn mà còn tăng độc tính. Seidman và các
cộng sự đã báo cáo việc sử dụng paclitaxel hàng tuần cho kết quả tốt hơn

paclitaxel chu kỳ 3 tuần ở các bệnh nhân UTV di căn. Tăng tỉ lệ đáp ứng có ý
nghĩa và cải thiện thời gian đến khi bệnh tiến triển. Đa số tăng gấp đôi thời
gian đến khi bệnh tiến triển và tăng tỉ lệ đáp ứng từ 29% đến 42% mà không
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Paclitaxel tác động trực
tiếp đến chu kỳ tế bào, có thể đó là lí do người ta đưa ra giả thiết rằng việc
tăng tần số truyền có thể tăng tác dụng [29].


24

Đối với các ca bệnh UTV ở giai đoạn sớm, nghiên cứu Intergroup E 1199 tiến hành so sánh việc dùng paclitaxel hàng tuần với paclitaxel mỗi 3
tuần sau khi BN đã trải qua 4 chu kỳ với doxorubicine và cyclophosphamide.
Kết quả cho thấy thời gian sống thêm không bệnh cải thiện có ý nghĩa ( HR=
1,27 95% Cl p= 0,006) [29].
Sparano và các đồng nghiệp tiến hành sử dụng những phác đồ hóa chất
khác nhau cho 4954 bệnh nhân có hạch nách dương tính và hạch nách âm tính
nguy cơ cao sau khi đã trải qua 4 chu kỳ với doxorubicin và cyclophosphamide.
Các BN này được chia làm 4 nhóm với liệu trình dùng taxane khác nhau : 1
nhóm dùng paclitaxel chu kỳ 3 tuần x 4 chu kỳ, 1 nhóm dùng paclitaxel hàng
tuần x 12 chu kỳ, 1 nhóm dùng docetaxel chu kỳ 3 tuần x 4 chu kỳ, nhóm còn
lại dùng docetaxel hàng tuần x 12 chu kỳ. Theo dõi trong thời gian trung bình
là 5,3 năm, kết quả cho thấy những BN dùng paclitaxel hàng tuần hoặc
doxetacel chu kỳ 3 tuần có thời gian sống thêm không bệnh dài hơn BN dùng
paclitaxel chu kỳ 3 tuần (p = 0,006 và p = 0,02). OS cũng được cải thiện ở
nhóm dùng paclitaxel hàng tuần. OS và DFS kém nhất ở nhóm dùng
docetaxel hàng tuần [3].


25


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các bệnh nhân ung thư vú giai đoạn II-IIIA
được hóa trị bổ trợ sau phẫu thuật bằng phác đồ 4AC - 12P tại bệnh viện K từ
tháng 1/2014 đến tháng 8/2017 tại bệnh viện K.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân
- Bệnh nhân nữ.
- Được chẩn đoán ung thư vú giai đoạn II-IIIA.
- Mô bệnh học: Ung thư biểu mô tuyến vú thể ống xâm nhập. U có kích thước
T1, T2, T3, không xâm lấn thành ngực, không xâm lấn ra da, hạch trên lâm
sàng N1. Có đầy đủ thông tin về tình trạng thụ thể nội tiết, Her2/ neu, tình
trạng di căn hạch nách sau phẫu thuật.
- Đã được phẫu thuật cắt tuyến vú triệt căn hoặc bảo tồn tuyến vú.
- Thể trạng còn tốt PS ≤ 2.
- Được hóa trị bổ trợ sau phẫu thuật bằng phác đồ 4AC – 12 P, điều trị nội tiết,
xạ trị khi có chỉ định.
- Có đầy đủ hồ sơ bệnh án
- Thời gian chẩn đoán tháng 1/2014 đến tháng 08/2017.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Loại trừ các bệnh nhân không đủ điều kiện trên.
- Các bệnh nhân có chỉ định hóa trị tiền phẫu.
- Bệnh nhân ung thư vú được chẩn đoán là giai đoạn 0 và IV theo hệ thống
phân loại của UICC năm 2010.
- Bệnh nhân có điều trị kháng thể đơn dòng trastuzumab (Herceptin)
- Mắc các bệnh khác nguy cơ tử vong trong thời gian gần.


×