Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH GẮN VỚI DIỄN XƯỚNG HÁT VĂN – HẦU ĐỒNG (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI ĐỀN KIẾP BẠC – HẢI DƯƠNG)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.53 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI THAM GIA XÉT GIẢI THƯỞNG
“SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”- NĂM 2019

ĐỀ TÀI: PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH
GẮN VỚI DIỄN XƯỚNG HÁT VĂN – HẦU ĐỒNG
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI ĐỀN KIẾP BẠC – HẢI DƯƠNG)

Nhóm sinh viên
Khoa
Người hướng dẫn

: Nguyễn Thị Thu Hương : 16030986
: Lê Phương Linh
:16030971
: Du lịch học
: Tiến sĩ Trịnh Lê Anh

Hà Nội - 2019


LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam – một đất nước với hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, được biết
đến với đời sống văn hóa thật phong phú, sinh động và đa dạng được thể hiện qua rất
nhiều loại hình diễn xướng khác nhau. Trong đó, diễn xướng hát văn – hầu đồng là một
loại hình diễn xướng vơ cùng đặc sắc gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu – một tín ngưỡng
của người Việt được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Loại


hình diễn xướng này mang lại những giá trị vô cùng to lớn về văn hóa, lịch sử và nghệ
thuật. Vì vậy, việc phát triển du lịch dựa trên việc khai thác những giá trị đó vừa có thể
mang lại giá trị kinh tế, vừa góp phần bảo tồn và gìn giữ những giá trị truyền thống của
dân tộc.
Trong bài nghiên cứu này, chúng tối nghiên cứu về đề tài “Phát triển sản phẩm du
lịch gắn với diễn xướng hát văn – hầu đồng. Nghiên cứu Trường hợp Kiếp Bạc – Hải
Dương” nhằm đưa ra những nhận định, đề xuất góp phần phát triển du lịch gắn với diễn
xướng hát văn – hầu đồng.
Là sinh viên nghiên cứu khoa học, chúng tơi hiểu với kiến thức của mình thì bài
nghiên cứu khơng thể tránh được những thiếu sót, rất mong nhận được sự phản hồi, nhận
xét đánh giá của Thầy giáo, Cơ giáo để nghiên cứu có thể hồn thiện hơn.
Đặc biệt, chúng tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới TS. Trịnh Lê Anh
– người đã tận tình hướng dẫn, tạo điều kiện về mọi mặt cũng như tạo động lực mạnh mẽ
cho chúng tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu khoa học này.


MỤC LỤC
Danh mục bảng biểu
PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................... 6
1.

Lý do chọn đề tài....................................................................................................6

2.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.................................................................7

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................7


4.

Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.............................................................................7

5.

Lịch sử nghiên cứu của vấn đề................................................................................8

6.

Bố cục của báo cáo................................................................................................11

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN...12
1.1.

Sản phẩm du lịch gắn với tài nguyên văn hóa – vốn văn hóa cộng đồng....12

1.1.1.

Khái niệm sản phẩm du lịch......................................................................12

1.1.2.

Khái niệm phát triển sản phẩm du lịch......................................................18

1.1.3.
đồng.

Phát triển sản phẩm du lịch gắn với tài nguyên văn hóa – vốn văn hóa cộng

…………………………………………………………………………….20

1.2.

Diễn xướng hát văn – hầu đồng và tín ngưỡng hầu Thánh..........................22

1.2.1.

Diễn xướng hát văn – hầu đồng.................................................................22

1.2.1.1. Diễn xướng dân gian..............................................................................22
1.2.1.2. Hát văn – hầu đồng................................................................................26
1.2.1.3. Diễn xướng hát văn - hầu đồng..............................................................32
1.2.2.

Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần...............................................................37

Tiểu kết chương 1..........................................................................................................39
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH GẮN VỚI
DIỄN XƯỚNG HÁT VĂN – HẦU ĐỒNG TẠI ĐỀN KIẾP BẠC – HẢI DƯƠNG
.................................................................................................................................. 40
2.1.

Thực trạng chung ở Việt Nam........................................................................40

2.2.

Lý do chọn khảo sát tại đền Kiếp Bạc – Hải Dương....................................41

2.3.

Tìm hiểu về liên hoan diễn xướng hầu Thánh tại đền Kiếp Bạc – Hải
Dương.......................................................................................................................... 41
2.3.1.

Giới thiệu chung về đền Kiếp Bạc.............................................................41


2.3.2.

Lễ hội đền Kiếp Bạc( Lễ hội mùa thu Côn Sơn – Kiếp Bạc).....................44

2.3.2.1. Nguồn gốc lễ hội...................................................................................44
2.3.2.2. Một số nghi lễ tiêu biểu..........................................................................45
2.3.3.

Liên hoan diễn xướng hầu Thánh..............................................................45

2.3.3.1. Lịch sử hình thành và phát triển............................................................46
2.3.3.2. Diễn trình của buổi diễn.........................................................................49
2.3.3.3. Ý nghĩa của liên hoan............................................................................49
2.3.3.4. Công chúng tham dự..............................................................................50
2.3.3.5. Sự tham gia của của các bên liên quan...................................................50
2.3.4.

Tìm hiểu yếu tố gắn với du lịch của diễn xướng hát văn – hầu đồng........51

2.3.5.
Thực trạng về hoạt động khai thác du lịch gắn với diễn xướng hát văn –
hầu đồng tại đền Kiếp Bạc........................................................................................53
2.3.5.1. Công tác tổ chức và quản lý...................................................................53

2.3.5.2. Cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng..............................................................54
2.3.5.3. Các dịch vụ phục vụ du lịch...................................................................55
2.3.5.4. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch............................................................55
2.3.5.5. Thị trường khách...................................................................................55
2.3.6. Đánh giá những thuận lợi và khó khăn đối với phát triển sản phảm du lịch gắn
với diễn xướng hát văn – hầu đồng tại đền Kiếp Bạc................................................57
2.3.6.1. Thuận lợi:.................................................................................................57
2.3.6.2. Khó khăn..................................................................................................57
Tiểu kết chương 2......................................................................................................58
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH GẮN VỚI
HOẠT ĐỘNG DIỄN XƯỚNG HÁT VĂN – HẦU ĐỒNG..........................................59
3.1.

Về tổ chức, quản lý...........................................................................................59

3.1.1.

Hồn thiện cơng tác quản lý kinh doanh dịch vụ hàng hóa........................59

3.1.2.

Chuẩn hóa các quy định đối với du khách:................................................59

3.1.3.

Tuyên truyền, vận động nâng cao hiểu biết của cộng đồng địa phương....60

3.2.

Về chất lượng dịch vụ du lịch...........................................................................60


3.2.1.

Chuẩn hóa các thơng tin giới thiệu............................................................60

3.2.2.

Nâng cao chất lượng hướng dẫn du lịch tại điểm......................................60


3.2.3.

Đảm bảo văn minh trong ứng xử của du khách.........................................60

3.2.4.

Đa dạng hóa các dịch vụ phục vụ khách du lịch........................................61

3.3.

Về xây dựng và phát triển sản phẩm du lịch.....................................................61

3.3.1.

Xây dựng các tour chuyên đề nội tỉnh và liên tỉnh.....................................61

3.3.2.

Xây dựng các tour kết hợp trên địa bàn.....................................................61


3.3.3.
Liên kết sản phẩm du lịch gắn với diễn xướng hầu đồng với các sản phẩm
du lịch khác trên địa bàn...........................................................................................62
3.4.

Về quảng bá, xúc tiến du lịch............................................................................62

3.4.1.

Quảng bá cho điểm đến.............................................................................62

3.4.2.

Liên kết với các cơng ty lữ hành quảng bá sản phẩm, chương trình du lịch
……………………………………………………………………………62

3.5.

Đề xuất cho trường hợp cụ thể tại đền Kiếp Bạc – Hải Dương.........................63

Tiểu kết chương 3..........................................................................................................65
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................67
MỤC LỤC PHỤ LỤC....................................................................................................70


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1.1. Các lớp cấu thành sản phẩm du lịch hoàn hảo…………...………………… 15
Bảng đánh giá các tiêu chí hoạt động khai thác du lịch gắn với diễn xướng hát văn – hầu
đồng tại đền Kiếp Bạc……………………………………………………………………56



6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của các ngành kinh tế khác, du lịch
Việt Nam ngày càng có những bước phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành tựu
đáng ghi nhận.Với những đóng góp khơng nhỏ cho thu nhập, tỉ trọng GDP và việc làm, du
lịch được coi là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, đang được Đảng, Nhà nước
quan tâm phát triển.Xu hướng hội nhập, hợp tác, cạnh tranh toàn cầu cùng với sự phát
triển về khoa học công nghệ đã và đang mở ra những cơ hội lớn đồng thời cũng mang lại
những thách thức cho du lịch Việt Nam. Vì vậy, ngành du lịch cần phải tích cực đổi mới
và phát huy những thế mạnh vốn có để ngày càng phát triển hơn nữa.
Du lịch Việt Nam hấp dẫn du khách không chỉ bởi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn
bởi những đặc sắc về văn hóa. Bởi vậy, phát triển du lịch gắn với các loại hình nghệ thuật
truyền thống là một trong những giải pháp vừa góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc đồng
thời cũng mang lại những lợi ích về kinh tế. Sở hữu nhiều loại hình nghệ thuật truyền
thống, trong đó có nhiều loại hình được vinh danh di sản văn hóa thế giới, Việt Nam có
nhiều lợi thế để khai thác, phát triển thành sản phẩm du lịch hấp dẫn, thu hút khách du
lịch. Từ lâu, cả người làm văn hóa và người làm du lịch đều đã sớm gặp nhau ở ý tưởng
này. Nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống được khai thác để phục vụ du lịch như chèo,
tuồng, cải lương, múa rối nước,… trong đó có cả loại hình diễn xướng dân gian và diễn
xướng hiện đại. Diễn xướng hát văn – hầu đồng cũng nằm trong số đó. Đây là loại hình
diễn xướng gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ Đức Thánh Trần “ Tháng tám giỗ
cha, tháng ba giỗ mẹ” của người dân Việt Nam. Loại hình diễn xướng có giá trị nghệ
thuật và lịch sử cao bởi nó có tính độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên,
việc đưa diễn xướng hát văn – hầu đồng vào phát triển du lịch vẫn còn rất nhiều khó khăn
và hạn chế, chưa phát huy được hết giá trị vốn có của nó.
Đền Kiếp Bạc ( thuộc xã Hưng Đạo, Tp. Chí Linh, tỉnh Hải Dương) được biết đến là

nơi thờ tự Đức Thánh Trần và cũng là nơi diễn ra Liên hoan diễn xướng hầu Thánh – một


7
sân khấu tâm linh đặc sắc phục vụ du khách thập phương. Vì vậy, nhóm nghiên cứu lấy đề
tài: Phát triển sản phẩm du lịch gắn với diễn xướng hát văn – hầu đồng, nghiên cứu
trường hợp đền Kiếp Bạc – Hải Dương nhằm đề ra các giải pháp hợp lý và hiệu quả.
2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài nhằm mang đến một cái nhìn cụ thể , rõ ràng và sâu sắc hơn về diễn xướng dân
gian hát văn – hầu đồng, đặc biệt là những đóng góp của hình thức này đối với du lịch
Việt Nam và việc phát triển sản phẩm du lịch gắn với diễn xướng hát văn hầu đồng.
Khảo sát trường hợp cụ thể nhằm chứng minh cho các lý thuyết áp dụng để nghiên
cứu đồng thời cũng nhìn nhận ra những tiềm năng hay những vấn đề cần giải quyết. Từ
đó, nghiên cứu cũng đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần phát triển sản phẩm du lịch
gắn với diễn xướng hát văn – hầu đồng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu diễn xướng hát văn – hầu đồng gắn với phát triển
du lịch qua khảo sát tại đền Kiếp Bạc – Hải Dương.
Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: Khu di tích đền Kiếp Bạc thuộc địa phận xã Hưng Đạo, thị xã
Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
- Phạm vi thời gian:
Thời gian nghiên cứu tài liệu: từ ngày 12/01/2019 đến ngày 04/04/2019
Thời gian nghiên cứu thực địa: từ ngày 22/03/2019 đến ngày 24/03/2019
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4.1. Mục đích:
Tìm hiểu về tình trạng diễn xướng hát văn – hầu đồng tại đền Kiếp Bạc từ đó đưa
ra giải pháp phát triển sản phẩm du lịch gắn với diễn xướng hát văn – hầu đồng.
4.2. Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa các nguồn tư liệu cũng như kết quả nghiên cứu đã được công bố về

diễn xướng hát văn – hầu đồng tại đền Kiếp Bạc – Hải Dương.


8
- Tìm hiểu diễn xướng hát văn - hầu đồng dưới góc độ du lịch tại đền Kiếp Bạc –
Hải Dương.
- Nghiên cứu, làm rõ thực trạng khai thác du lịch gắn với diễn xướng hát văn – hầu
đồng tại đền Kiếp Bạc – Hải Dương và đưa ra đề xuất phát triển sản phẩm du lịch gắn với
diễn xướng hát văn – hầu đồng tại đó.
5. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề
Trong lịch sử nghiên cứu, nghi lễ hầu đồng của người Việt được nhiều nhà nghiên cứu
quan tâm, tìm hiểu dưới các góc độ khác nhau, có thể kể đến những nghiên cứu điển hình:
- “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” (2001) do Ngơ Đức Thịnh chủ
biên. Cơng trình này đi sâu vào nghiên cứu sáu loại hình tín ngưỡng dân gian tiêu biểu là
thờ cúng tổ tiên, thờ Thành Hoàng làng, thờ Chử Đồng Tử, thờ Đức Thánh Trần, tín
ngưỡng nghề nghiệp và tín ngưỡng thờ Mẫu (tác giả gọi là Đạo Mẫu). Đồng thời, tác giả
còn cho thấy mối quan hệ giữa tín ngưỡng dân gian và văn hóa dân gian; phân biệt các
mặt giá trị và phản giá trị của tơn giáo tín ngưỡng, giúp cho việc nhận thức và chế định
các chính sách đối với tơn giáo tín ngưỡng cũng như sự nghiệp bảo tồn và phát huy văn
hóa dân tộc hiện nay. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Mẫu được trình bày trong cơng trình này
chủ yếu được nghiên cứu dưới góc độ văn hóa. Theo đó, tác giả trình bày những yếu tố
cấu thành của tín ngưỡng thờ Mẫu có liên quan nhiều đến văn hóa như: điện thờ, lễ hội và
nghi lễ cơ bản.
- Một số công trình do Giáo sư Ngơ Đức Thịnh chủ biên như:”Đạo Mẫu ở Việt
Nam” (Nxb Văn háo Thông tin, Hà Nội, 1996); Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong
các tộc người ở Việt Nam và Châu Á” (Nxb Khao học Xã hội, Hà Nội, 2004); “Hát văn”
(Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 1992); “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”
(Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2001); “Lên Đồng hành trình của thần linh và thân phận”
(Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh,2008),… Các tác phẩm này đã nghiên cứu một cách cơ bản và
tương đối toàn diện,hệ thống về Đạo Mẫu ở Việt Nam, trong đó có điều tra và trình bày

các hiện tượng thờ Mẫu, cụ thể là nghi lễ Hầu Đồng.
- Ngồi ra cịn nhiều cơng trình khác cũng nghiên cứu về tín ngưỡng thwof mẫu
như: “Các nữ thần Việt Nam” của Đỗ Thị Hảo và Mai Thị Ngọc Chúc (Nxb Phụ nữ, hà
Nội, 1984), “Văn hóa Thánh Mẫu” của Đặng văn Lung (Nxb Văn háo Thông tin, Hà Nội,


9
2004), “Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam” của Nguyễn Minh San (Nxb Văn hóa dân
tộc, Hà Nội, 1994), “Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” của Nguyễn
Đức Lữ chủ biên (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2000),… Bên cạnh cịn
nhiều bài viết cơng bố trên các tạp chí: Nghiên cứu lí luận, Tơn giáo, Văn hóa dân gian,
Văn học,… cũng đã đề cập tới góc độ khác nhau về tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
Nam. Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu của các tác giả kể trên đã tiếp cận tín ngưỡng
thờ Mẫu từ các góc độ khác nhau: văn hóa, tơn giáo, lịch sử, nghệ thuật. Trong các nghiên
cứu về Đạo Mẫu thì hầu đồng cũng đã được đề cập như là trọng tâm của nghiên cứu,
nhiều bài viết của các tác giác đã phân tích và tiếp cận về nghi lễ này ở nhiều góc độ khác
nhau và đưa ra các kết quả đáng chú ý về nguồn gốc và ý nghĩa của việc hầu đồng trong
cuộc sống, những thành tố cần có trong một buổi hầu đồng, tín ngưỡng dân gian thể hiện
qua nghi lễ hầu đồng,…
- Bên cạnh những nghiên cứu về nghi lễ hầu đồng của người Việt nêu trên, nhiều bài
nghiên cứu về nghi lễ hầu đồng tại đền Kiếp Bạc Hải Dương đã được công bố. Các vấn đề
nghiên cứu về nghi lễ hầu đồng tại đền Kiếp Bạc rất đa dạng và được tiếp cận từ nhiều
góc độ khác nhau. Dưới đây là một số nghiên cứu tiêu biểu:
- Tác gia Võ Hồng Lan trong “Thanh đồng nhìn từ đền Kiếp Bạc” in trong tạp chi
Di sản Văn hóa 2008, Nguyễn Văn Cường trong bài “Hầu đồng – một nghi lễ tâm linh cổ
truyền trong hội đền Kiếp Bạc” bằng tư liệu điều tra điền dã, kết hợp với nghiên cứu thư
tịch cổ đã nêu lên trình tự nghi lễ hầu đồng tại Kiếp Bạc trước năm 1945 và nhận xét về
sự giồng và khác nhau của nghi lễ hầu đồng trước năm 1945 so với ngày nay.
- Nhà nghiên cứu Đào Duy anh trong sách “Việt Nam văn hóa sử cương”, Phan Kế
Bính trong sách “Việt Nam phong tục” đều lưu ý tới hiện tượng hầu đồng và miêu tả chi

tiết cách các ông đồng trừ tà ma trong đền Kếp Bạc vào ngày húy của Trần Hưng Đạo.
- Trong sách “Đạo Mẫu ở Việt Nam”, Giáo sư Ngô Đức Thịnh khi nghiên cứu tín
ngưỡng Đức Thánh Trần trong sự đối xứng với tục thờ Mẫu Liễu Hạnh đã miêu tả chi tiết
trình tự một buổi lễ hầu đồng tại Kiếp Bạc.
- Học giả Nguyễn Văn Vĩnh, trong bài “Hội Kiếp Bạc” in trên Đơng Dương tạp chí,
số 19 ngày 29/09/1913, đã miêu tả thời gian, các nghi lễ diễn ra trong hội Kiếp Bạc, đồng
thời cũng phê phán mạnh mẽ các yếu tố mê tín dị đoan trong nghi lễ hầu đồng.
- Trong luận văn Thạc sĩ văn hóa dân gian “Tìm hiểu hiện tượng tín ngưỡng Đức
Thánh Trần” của Phạm Quỳnh Phương, tác giả đã dịch những tư liệu Hán Nôm ghi chép


10
về nghi lễ thờ cúng ở Kiếp Bạc cung cấp nhiều thơng tin có giá trị về nghi thức hầu đồng
ở đền Kiếp Bạc.
- Năm 2006, Ban quản lý di tích Cơn Sơn – Kiếp Bạc thực hiện đề tài khao học cấp
tỉnh “Nghiên cứu di sản văn hóa phi vật thể Kiếp Bạc” đã nghiên cứu khá chi tiết từ
phong tục tập quán, lễ hội, diễn xướng dân gian ở khu vực Kiếp Bạc, trong đó có trình
bày cả nghi lễ hầu Thánh. Đề tài ấy cung cấp rất nhiều thơng tin chi tiết và hữu ích cho
những nghiên cứu liên quan đến khu di tích lịch sử Cơn Sơn – Kiếp Bạc và những lễ hội,
nghi lễ tại khu di tích lịch sử này.
- Mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về nghi lễ hầu đồng tiếp cận dưới nhiều
góc độ khác nhau, nhưng chưa có cơng trình nào tiếp cận nghi lễ hầu đồng dưới góc nhìn
du lịch. Vậy nên, trong bài báo cáo này, chúng tơi làm nghiên cứu và tìm hiểu về diễn
xướng hầu đồng dưới góc nhìn của du lịch.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp luận:
Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, duy vật biện chứng. Đồng thời
xuất phát tình hình thực tế của đời sống văn hóa xã hội để phân tích, nhìn nhận, đánh giá
vấn đề.
6.2.


Phương pháp thực tiễn:

Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu cũng như hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu
của đề tài, chúng tôi đã sử kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu. Cụ thể, ngoài các
phương pháp cơ bản như tập hợp và nghiên cứu tài liệu thứ cấp, nghiên cứu điền dã, quan
sát tham dự, nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp trọng tâm là phỏng vấn sâu.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu đối với các văn bản đã được người đi
trước tổng hợp. Từ những tài liệu thành văn (sách, báo, tạp chí,…), tư liệu điền dã (truyền
thuyết, văn học truyền miệng,…) nhằm tìm ra lịch sử hình thành, quá trình tồn tại và phát
triển của diễn xướng hát văn - hầu đồng.
- Phương pháp diền dã để thu thập thông tin tư liệu, ghi chép, mô tả diễn xướng hát
văn – hầu đồng tại đền Kiếp Bạc.


11
- Phương pháp phỏng vấn sâu để tìm hiểu thực trạng diễn xướng hát văn – hầu đồng
tại đền Kiếp Bạc từ đó rút ra nhận xét và giải pháp phát triển sản phẩm du lịch gắn với
nghi thức diễn xướng dânấy.
6. Bố cục của báo cáo
Ngoài phần mở đầu , kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo và phần phụ lục,
phần nội dung của báo cáo được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình nghiên cứu và cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng phát triển sản phẩm du lịch gắn với diễn xướng hát
văn hầu đồng tại đền Kiếp Bạc – Hải Dương
Chương 3: Một số nhận định và đề xuất phát triển sản phảm du lịch gắn
với diễn xướng hát văn hầu đồng


12


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Sản phẩm du lịch gắn với tài nguyên văn hóa – vốn văn hóa cộng đồng
1.1.1. Khái niệm sản phẩm du lịch
Khái niệm Sản phẩm du lịch là khái niệm cốt lõi trong nghiên cứu học thuật, quản
lý và vận hành thực tiễn ngành du lịch.Khái niệm Sản phẩm du lịch có sự vận động, biến
đổi và nhận được nhiều phát biểu dưới những tiếp cận khác nhau. Luật Du lịch 2017 nêu
“Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm
cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu
du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn
hóa.” và “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên
du lịch để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch”[12] tức là sản phẩm du lịch được tạo nên
để đáp ứng nhu của khách du lịch. Nhu cầu của khách du lịch ngày một đa dạng và cần
được đáp ứng ở mức độ cao hơn với nhiều hình thức hơn. Sản phẩm du lịch có tính tổng
hợp và có khả năng thỏa mãn những nhu cầu đó bởi nó tổng hịa mọi dịch vụ chứ khơng
phải chỉ bao hàm một dịch vụ đơn lẻ.
Trong các nghiên cứu đúc kết thực tiễn và xu hướng phát triển du lịch hiện đại thì
sản phẩm du lịch được hiểu là sự trải nghiệm của du khách. Middleton và Clarke cho rằng
sản phẩm du lịch là các giá trị trải nghiệm của du khách khi mà “khách nhận được các lợi
ích phù hợp với nhu cầu và sở trường cùng chất lượng và giá trị đồng tiền. Các giá trị này
được bổ sung tại từng giai đoạn của quá trình hình thành sản phẩm mà bản thân người
khách cũng tham gia tương tác” [31]. Ritchie và Crouch thì cho rằng: “sản phẩm cơ bản
trong du lịch là sự trải nghiệm về điểm đến” [29]. Các quan điểm này giúp khẳng định
rằng khi khách du lịch mua một sản phẩm là họ mong muốn chi trả để có được một sự trải
nghiệm, được tận hưởng chuỗi những hoạt động và sự kiện đáng nhớ mà bên bán cung
cấp. Sự trải nghiệm đáng nhớ của du khách được coi là giá trị cốt lõi của sản phẩm du lịch
hiện đại, giúp tạo ra giá trị gia tăng và lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm. Từ cách tiếp cận
tổng thể, một số nhà nghiên cứu cho rằng: “sản phẩm du lịch bao gồm toàn bộ các giá trị
sử dụng để thoả mãn nhu cầu du lịch nhất định, nó là kết quả của các hoạt động sản xuất



13
thuộc các cơ sở du lịch đặc biệt và người tham gia du lịch”. Một số nhà nghiên cứu du
lịch Trung Quốc tiếp cận sản phẩm du lịch từ góc nhìn cung du lịch “là tồn bộ dịch vụ
của nhà kinh doanh du lịch dựa vào vật thu hút du lịch và khởi sự du lịch, cung cấp cho
du khách để thoả mãn nhu cầu hoạt động du lịch” và góc nhìn cầu du lịch “là q trình du
lịch một lần do du khách bỏ thời gian, chi phí và sức lực nhất định để đổi được”. Trần
Văn Thông nêu “sản phẩm du lịch là sự kết hợp hàng hoá và dịch vụ trên cơ sở khai thác
hợp lý tài nguyên du lịch nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cho du khách trong hoạt động du
lịch”, với công thức: Sản phẩm du lịch = Tài nguyên du lịch + Hàng hoá và dịch vụ du
lịch. Ở đây, khái niệm tài nguyên du lịch cần được hiểu hay thay thế bằng “giá trị của tài
nguyên du lịch” thì sẽ phù hợp hơn. Tương đồng với ý kiến của Trần Văn Thông, Đinh
Trung Kiên cho rằng “sản phẩm du lịch là toàn bộ chương trình du lịch, các dịch vụ du
lịch cùng với tài nguyên du lịch được khai thác cho hoạt động du lịch” và chỉ rõ thành
phần của sản phẩm du lịch: sản phẩm lữ hành; sản phẩm dịch vụ du lịch được cụ thể hoá
trong các lĩnh vực dịch vụ khác nhau: dịch vụ lưu trú, ăn uống, bổ sung; các dịch vụ cụ
thể khi trực tiếp phục vụ khách du lịch: đồ lưu niệm, đồ uống, món ăn… Trong những
cách hiểu về “sản phẩm du lịch” nói trên, chúng tôi cho rằng ý kiến của Trần Văn Thông
và Đinh Trung Kiên là xác đáng hơn cả và xin thể hiện sự đồng thuận với các ý kiến này
về “sản phẩm du lịch”.
Tiếp cận dưới góc nhìn marketing, một số học giả nước ngoài đã khẳng định “sản
phẩm du lịch là một tổng thể rất phức tạp gồm các thành phần không đồng nhất” và làm
rõ thành phần của sản phẩm du lịch gồm: 1) Một di sản gồm các tài nguyên thiên nhiên,
văn hoá, nghệ thuật, lịch sử hay cơng nghệ có khả năng thu hút khách du lịch và thúc đẩy
chuyến đi của họ; 2) Những trang bị mà bản thân chúng không phải là yếu tố gây ảnh
hưởng cho mục đích của chuyến đi, nhưng nếu thiếu thì chuyến đi khơng thể thực hiện
được: nơi ăn chốn ở, các trang bị về văn hoá, vui chơi và thể thao; 3) Việc đi lại thuận tiện
có liên quan đến phương tiện chuyên chở mà khách du lịch sẽ dùng để đi tới địa điểm đã
chọn. Những thuận lợi này được tính tốn về mặt kinh tế hơn là về khoảng cách địa lý.
Nguyễn Hồng Giáp làm rõ hơn khi cho rằng một sản phẩm du lịch là một tổng thể những

yếu tố có thể trơng thấy được hoặc không trông thấy được, nhưng lại làm thoả mãn cho


14
những khách hàng nhất định hoặc cho những thị trường nào đó. Ơng giới thiệu ý kiến của
hai học giả nước ngoài về việc phân biệt 3 mức độ trong khái niệm của một sản phẩm du
lịch: 1) Sản phẩm du lịch chính trả lời cho câu hỏi: người mua thật sự muốn được gì? Sản
phẩm này là trung tâm của số cung đối với du khách; 2) Sản phẩm du lịch hình thức,
tương ứng với sản phẩm mà nó có mặt lúc mua hoặc chọn lựa, là sản phẩm cốt yếu được
cụ thể hoá bằng những yếu tố hoặc những dịch vụ rõ ràng; và 3) Sản phẩm du lịch mở
rộng: là toàn bộ những yếu tố liên quan đến người tiêu dùng, tức là du khách, là tổng thể
do các yếu tố nhìn thấy được, cũng như khơng nhìn thấy được cung cấp cho người du
lịch, đặc biệt là những lợi ích tâm lý như là cảm giác lạ, được coi là thành phần ưu tú,
thượng lưu… Sản phẩm du lịch mở rộng hồn tồn thích hợp cho khách hàng cuối cùng.
[1]
Như vậy, sản phẩm du lịch là một loại sản phẩm đặc biệt có tính dịch vụ cao và
được tạo thành bởi nhiều yếu tố nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách, bao gồm dịch vụ
tổng thể của nhà cung cấp, các yếu tố thu hút du lịch khác như kết cấu hạ tầng du lịch, tài
nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, lao động (con người) và các yếu tố “tiền”
du lịch như thị trường du lịch, chiến lược kinh doanh du lịch, chiến lược marketing du
lịch, việc xây dựng và cung cấp (bán) sản phẩm cho du khách để thỏa mãn nhu cầu của
họ. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên hiệp quốc (UNWTO) thì “Sản phẩm du lịch
là sự tổng hợp của 3 yếu tố cấu thành: 1) Kết cấu hạ tầng du lịch; 2) Tài nguyên du lịch;
và 3) Cơ sở vật chất kỹ thuật, dịch vụ, lao động và quản lý du lịch”. Thực tế cho thấy khái
niệm này của UNWTO là “bao trùm” và thể hiện đầy đủ những gì chứa đựng trong một
sản phẩm du lịch. Trong mối quan hệ với khách du lịch, sản phẩm du lịch có thể được thể
hiện theo sơ đồ sau:


15


Nguồn: UNWTO, theo Phạm Trung Lương, Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu
khoa học và công nghệ cấp Bộ “Cơ sở khoa học để phát triển các sản phẩm du lịch thể
thao mạo hiểm vùng núi phía Bắc” Trong đó: I) là phần dịch vụ cốt lõi hay dịch vụ cơ bản
của sản phẩm du lịch, điều mà du khách kỳ vọng nhất trong chuyến đi du lịch. Đây được
xem là nhu cầu của khách đối với một tour du lịch; J) Là phần dịch vụ “trang sức” hay
dịch vụ bổ trợ là cơ sở vật chất du lịch bao gồm hệ thống vui chơi giải trí, kiến trúc cảnh
quan, quầy hàng bán hàng lưu niệm,…; K) Là phần dịch vụ “sáng tạo” có tính khác biệt,
hấp dẫn làm tăng giá trị của sản phẩm du lịch. Đây là yếu tố quan trọng để du khách, đặc
biệt là du khách “khó tính”, lựa chọn. Trước hết đó là tài nguyên du lịch, dịch vụ quảng
cáo, quan hệ công chúng PR, uy tín, thương hiệu, sự sang trọng,…; H) Là khoảng thời
gian của nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của du khách. Đây là khoảng thời gian phải cung cấp
kịp thời, đúng lúc nhu cầu của khách. Thông qua I, J, K, H là hoạt động sáng tạo, sự định
vị thông minh, sự khác biệt và đúng lúc mà du khách cần để tạo nên “đẳng cấp” sản
phẩm: Sản phẩm du lịch rẻ tiền (đẳng cấp thấp) khi Si > Di; Sản phẩm du lịch có chất
lượng (đẳng cấp trung bình) khi Sij = Dij; Sản phẩm du lịch chất lượng cao, hợp “gu”,
đúng lúc (đẳng cấp cao) khi Sijkh < Dijkh. Trong đó: S (supply) - Cung ; D (demand) Cầu. Những đặc điểm cơ bản của “sản phẩm du lịch” bao gồm: Tính tổng hợp, đa dạng,
nhiều cấp độ; Tính khơng dự trữ, lưu kho được; Tính khơng thể chuyển dịch, phân chia
được; Tính đồng thời của hoạt động sản xuất và tiêu thụ; Tính vơ hình, dễ thay đổi, khơng
đồng nhất; Tính khơng chuyển giao quyền sở hữu; Tính mới cho cả chủ thể (khách du


16
lịch), khách thể (môi trường, cảnh quan, tài nguyên) và môi giới du lịch (ngành kinh
doanh du lịch). Như vậy, khi nghiên cứu “sản phẩm du lịch”, bên cạnh việc chú trọng đến
các yếu tố hình thành lên “sản phẩm”, cần thiết phải lưu ý đến những đặc điểm cơ bản của
sản phẩm du lịch.

 Cơ cấu của sản phẩm du lịch
Cơ cấu sản phẩm du lịch là một tổng thể bao gồm những yếu tố hữu hình và những yếu tố

vơ hình.Yếu tố hữu hình là hàng hóa, yếu tố vơ hình là dịch vụ. Theo các nhà nghiên cứu,
nếu xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến hành trình du lịch thì
chúng ta có thể tổng hợp các thành phần của sản phẩm du lịch theo các nhóm cơ bản sau:
+ Dịch vụ vận chuyển
+ Dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống; đồ ăn, thức uống
+ Dịch vụ tham quan, giải trí
+ Hàng hóa tiêu dùng và đồ lưu niệm
+ Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch .

 Đặc trưng của sản phẩm du lịch:
Sản phẩm du lịch về cơ bản là không cụ thể, không tồn tại dưới dạng vật thể.
Thành phần chính của sản phẩm du lịch là dịch vụ (thường chiếm 80% - 90% về mặt giá
trị), hàng hóa chiếm tỷ trọng nhỏ. Do vậy, việc đánh giá chất lượng sản phẩm du lịch
thường mang tính chủ quan và phần lớn không phụ thuộc vào người kinh doanh mà phụ
thuộc vào khách du lịch. Chất lượng sản phẩm du lịch được xác định dựa vào sự chêch
lệch giữa mức độ kỳ vọng và mức độ cảm nhận về chất lượng của khách du lịch

 Đặc điểm của sản phẩm du lịch:
 Vơ hình: Du lịch là một sản phẩm vơ hình có nghĩa là du lịch là loại sản phẩm
khơng thể chạm vào hoặc nhìn thấy và khơng có sự chuyển giao quyền sở hữu, nhưng các
cơ sở có sẵn trong một thời gian nhất định và cho một mục đích sử dụng cụ thể. Ví dụ:
một phịng trong khách sạn có sẵn trong một thời gian nhất định.


17
 Tâm lý: Động lực chính để mua sản phẩm du lịch là để thỏa mãn nhu cầu tâm lý
sau khi sử dụng sản phẩm, bằng cách tạo kinh nghiệm trong khi tương tác với môi trường
mới. Và kinh nghiệm cũng thúc đẩy người khác mua sản phẩm đó.
 Rất dễ hỏng: Sản phẩm du lịch rất dễ hỏng trong tự nhiên có nghĩa là người ta
khơng thể lưu trữ sản phẩm trong một thời gian dài. Sản xuất và tiêu thụ diễn ra trong khi

khách du lịch có sẵn. Nếu sản phẩm vẫn chưa được sử dụng, cơ hội sẽ bị mất, tức là nếu
khách du lịch không mua sản phẩm đó. Một đại lý du lịch hoặc nhà điều hành du lịch bán
một sản phẩm du lịch không thể lưu trữ nó. Sản xuất chỉ có thể diễn ra nếu khách hàng
thực sự có mặt. Và một khi tiêu dùng bắt đầu, nó khơng thể dừng lại, gián đoạn hoặc sửa
đổi. Nếu sản phẩm vẫn chưa được sử dụng, cơ hội sẽ bị mất, tức là nếu khách du lịch
không ghé thăm một địa điểm cụ thể, cơ hội tại thời điểm đó sẽ bị mất. Đó là do lý do du
lịch mà các khách sạn và các tổ chức tạo ra giao thông giảm giá trong mùa giảm giá.
 Sản phẩm du lịch là sự kết hợp của các sản phẩm khác nhau. Bản thân nó khơng có
một thực thể nào. Theo kinh nghiệm của chuyến thăm đến một địa điểm cụ thể, các nhà
cung cấp dịch vụ khác nhau đóng góp như vận chuyển Sản phẩm du lịch không thể được
cung cấp bởi một doanh nghiệp không giống như một sản phẩm được sản xuất. Các sản
phẩm du lịch bao gồm trải nghiệm đầy đủ của một chuyến thăm đến một địa điểm cụ thể.
Và nhiều nhà cung cấp đóng góp cho kinh nghiệm du lịch. Chẳng hạn, hãng hàng không
cung cấp chỗ ngồi, một khách sạn cung cấp phòng và nhà hàng, đại lý du lịch đặt chỗ ở và
tham quan, v.v.
 Nhu cầu không ổn định: Nhu cầu du lịch bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chính trị theo
mùa, kinh tế và các yếu tố khác. Có những thời điểm nhất định trong năm có nhu cầu lớn
hơn những thời điểm khác. Vào những thời điểm này có sự căng thẳng lớn hơn đối với
các dịch vụ như đặt phòng khách sạn, việc làm và hệ thống giao thơng, v.v
 Tính khơng tách rời:
Quá trình sản xuất phục vụ và quá trình tiêu dùng sản phẩm du lịch diễn ra gần như
đồng thời trong cùng một thời gian và không gian. Cung thời gian : thời gian hoạt động
của máy bay, tàu , khách sạn, nhà hàng phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng của khách, hoạt
động phục vụ khách diễn ra một cách liên tục khơng có ngày nghỉ và giờ nghỉ. Cùng
không gian: khách du lịch phải đến tận nơi để tiêu dùng sản phẩm chứ không thể vận


18
chuyển sản phẩm đến nơi có khách như sản phẩm hàng hóa bình thường. Như vậy sản
phẩm du lịch khơng thể tách rời nguồn gốc tạo ra dịch vụ.

Không chuyển giao sở hữu, chuyển giao sử dụng: Sản phẩm du lịch chỉ thực hiện
quyền sử dụng mà không thực hiện quyền sở hữu, bởi khi đã sử dụng thì mất đi giá trị chi
trở thành các trải nghiệm của bản thân(yếu tố phi vật chất), không thể sang tên, đổi chủ
được.

 Tính khơng đồng nhất:

+ Tính vơ hình của sản phẩm du lịch khiến cho các sản phẩm du lịch thường
có chất lượng khơng lặp lại.
+ Chỉ khi tiêu dùng sản phẩm, khách mời mới cảm nhận được.
+ Khó lượng hóa

 Tính khơng dự trữ ,tồn kho:

+ Sản phẩm du lịch không thể lưu kho và cất trữ: để thực hiện được sản phẩm
du lịch, công ty lữ hành phải đặt trước các dịch vụ : vận chuyển , ăn uống, ngủ
nghỉ, máy bay, tàu, khách sạn…..Không thể để tồn kho một ngày buồng và
một chỗ trong nhà hàng vì không tiêu thụ được sẽ mất không một khoản thu
nhập.
+ Cung bị thụ động, khó đáp ứng khi cầu bị biến động.
1.1.2. Khái niệm phát triển sản phẩm du lịch
Ngày nay, cùng với sự phát triển của ngành du lịch, đặc biệt là sau nghị quyết
08/NĐCQ của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam về việc “phát triển du lịch trở thành


19
ngành kinh tế mũi nhọn là định hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước” [2],
việc phát triển sản phẩm du lịch được coi là vấn đề ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát
triển du lịch của các địa phương. Chính vì thế mà Luật du lịch 2017 đã phải bổ sung quy
định về “phát triển sản phẩm du lịch” [Phụ lục 1]. So với Luật du lịch 2005 thì đây là một

bước tiến quan trọng vì lần đầu tiên luật hóa vấn đề “phát triển sản phẩm du lịch”, tuy
nhiên mới dừng lại ở việc khẳng định nhận thức, sự cần thiết và khuyến khích mà thôi,
chưa nêu rõ được nội hàm của vấn đề này. Trên cơ sở đó, các nhà nghiên cứu tiến hành
làm rõ nội hàm “phát triển sản phẩm du lịch”. Trương Quang Dũng cho rằng sản phẩm du
lịch phải được xác định dựa trên sự hiểu biết về thị trường du lịch, xu hướng và thị hiếu
khách du lịch [7]. Vì vậy, nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm và tiếp thị là một sự
kết nối liên tục trong quá trình phát triển sản phẩm du lịch. Sự liên kết giữa thị trường và
sản phẩm phải tuân theo các quy luật cơ bản của thị trường, đó là các quy luật cung - cầu,
quy luật cạnh tranh và quy luật giá trị. Phát triển sản phẩm du lịch có thể tiếp cận theo
nhiều hướng khác nhau như:
1) Các yếu tố thu hút và phục vụ khách bao gồm cơ sở hạ tầng (đường xá, điện
nước, thông tin liên lạc, các loại phương tiện vận chuyển khách), cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ khách (các cơ sở lưu trú, ăn uống, giải trí, mua sắm...), nhân viên phục vụ và cơ
sở vật chất và tiện nghi khác; đặc biệt là vấn đề tiếp thị, quảng cáo và xây dựng hình ảnh
cho điểm đến.
2) Theo một hướng tiếp cận khác, phát triển sản phẩm du lịch bao gồm phát triển
những điểm tham quan, các hoạt động và các dịch vụ đa dạng phục vụ khách. Trong hai
cách tiếp cận trên, cách thứ nhất đóng một vai trị quyết định đến việc phát triển sản phẩm
du lịch tại các điểm đến du lịch. Mặt khác, phát triển sản phẩm du lịch của một điểm đến
không chỉ phục vụ cho khách du lịch quốc tế, khách du lịch nội địa mà cả đáp ứng nhu
cầu của cộng đồng dân cư xung quanh. Phát triển sản phẩm du lịch là một quá trình mà
trong đó các giá trị của một địa điểm cụ thể được sử dụng tối đa để đáp ứng nhu cầu của
khách du lịch trong nước, khách du lịch quốc tế và người dân địa phương. Theo Nguyễn
Đức Tân thì để phát triển sản phẩm du lịch nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá
trình hội nhập của du lịch Việt Nam với khu vực và quốc tế, việc tập trung xây dựng chiến


20
lược phát triển sản phẩm du lịch, phát triển quy mô sản phẩm du lịch, đồng thời chú trọng
nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch Việt Nam dựa trên cơ sở: 1) Nguyên tắc phù hợp

với nhu cầu khách: tìm hiểu nhu cầu, xu hướng của khách du lịch và nghiên cứu thị
trường để tìm ra nguồn khách, thị trường mục tiêu, từ đó tiến hành các cơng việc kinh
doanh du lịch. 2) Nguyên tắc lợi ích kinh tế: bất cứ đầu tư xây dựng và phát triển các sản
phẩm du lịch nào cũng cần phải xét đến những tác động của nó đối với nền kinh tế. 3)
Nguyên tắc đặc sắc: nét đặc trưng của thiên nhiên, văn hóa cộng đồng địa phương là nền
tảng để tạo ra sức hấp dẫn của các sản phẩm du lịch. 4) Nguyên tắc bảo tồn và giữ gìn:
khi khai thác tài nguyên du lịch cần bảo đảm nguyên tắc bảo tồn và gìn giữ mơi trường,
duy trì sự cân bằng sinh thái, nghiêm cấm việc phá hoại cảnh quan môi trường nhất là các
tài nguyên du lịch có giá trị đặc biệt [18]. Cũng dựa trên quan điểm phải xây dựng chi tiết
nội dung hướng dẫn xây dựng sản phẩm du lịch, Dự án Du lịch có trách nhiệm với mơi
trường và xã hội (gọi tắt là Dự án EU) đã đưa việc “phát triển và thiết kế dịch vụ và sản
phẩm du lịch có trách nhiệm” thành một đơn vị năng lực trong bộ tiêu chuẩn nghề Việt
Nam VTOS [5]. Mặc dù đến thời điểm hiện tại, bộ tiêu chuẩn này mới chỉ được sử dụng
theo hướng tham khảo song hứa hẹn trong tương lai nó sẽ được chính thức hóa để chất
lượng sản phẩm du lịch Việt Nam đáp ứng tiêu chuẩn khu vực và quốc tế.
1.1.3. Phát triển sản phẩm du lịch gắn với tài nguyên văn hóa – vốn văn hóa cộng
đồng.
Theo GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, Từ “văn hố” có nhiều nghĩa, nó được dùng để
chỉ những khái niệm có nội hàm hết sức khác nhau. Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác
nhau, nhưng suy cho cùng, khái niệm “văn hố” bao giờ cũng có thể quy về hai cách hiểu
chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.[20]
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng, theo
không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những
giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều
rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn
hoá kinh doanh…). Giới hạn theo khơng gian, văn hố được dùng để chỉ những giá trị đặc


21
thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian,

văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hố Hồ Bình, văn hố
Đơng Sơn…)…
Theo nghĩa rộng, văn hố thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con
người sáng tạo ra. Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “Văn hóa hay văn minh, theo
nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức,
luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với
tư cách một thành viên của xã hội”[8]. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh cho rằng “Vì lẽ sinh
tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ,
chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho
sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tồn bộ những sáng tạo và
phát minh đó tức là văn hóa”[15]. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm tồn bộ những
gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của Tylor, văn hóa
theo cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên
quan đến đời sống con người.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước
ngồi khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa
ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa
hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về
tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia
đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa khơng chỉ bao gồm nghệ thuật,
văn chương mà cịn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá
trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”[4]; cịn hiểu theo nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng
thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng
đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”[11]… Dựa theo mục đích nghiên cứu của báo
cáo khoa học này, chúng tôi cho rằng cách hiểu văn hóa theo chiều sâu (tức những giá trị
tinh hoa của nó: nếp sống văn hố, văn hố nghệ thuật…) của GS. TSKH Trần Ngọc
Thêm và cách hiểu theo nghĩa rộng của UNESCO là xác đáng hơn cả.


22

Mỗi khi nhắc đến khái niệm Tài nguyên, chúng ta thường nghĩ ngay đến Tài
nguyên thiên nhiên, tuy nhiên khái niệm tài nguyên hiện nay được hiểu theo nghĩa rộng,
như tài nguyên con người, tài nguyên giáo dục, tài nguyên du lịch và ... Nói cách khác,
mọi thứ đều có thể thành tài ngun cho mục đích nào đó trong những điều kiện nhất
định. [30] Hiện nay người ta sử dụng khái niệm Tài nguyên Văn hoá[28] thay cho các
thuật ngữ Di sản hay Tài sản Văn hoá và những cách thức/phương pháp mới khai thác sử
dụng nguồn tài nguyên này.
Theo Hiệp hội Nghiên cứu Tài nguyên Văn hoá Nhật Bản “Tài nguyên văn hoá là
dữ liệu quan trọng giúp chúng ta hiểu xã hội và văn hoá của xã hội đó ở một thời điểm
nào đó, tài nguyên văn hoá bao gồm cả vật thể và phi vật thể khơng chỉ lưu giữ trong các
bảo tàng, như cơng trình lịch sử, phong cảnh đơ thị, trình diễn nghệ thuật cổ truyền, lễ
hội…”.
Theo Từ điển tiếng Việt, “vốn” (capital) là tổng thể nói chung những gì có sẵn hay
tích lũy được dùng trong một lĩnh vực hoạt động nào đó, nói về mặt cần thiết để hoạt
động có hiệu quả. Theo đó, có thể thấy vốn văn hóa (cutural capital) là tổng thể những
yếu tố đã tích lũy được, thúc đẩy hoạt động của con người trong xã hội. Cũng theo Từ
điển Tiếng Việt, “cộng đồng” là toàn thể những người cùng sống, có những điểm giống
nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội.
Có thể thấy tài nguyên văn hóa – vốn văn hóa của cộng đồng chính là những giá trị
tinh hoa của văn hóa, những đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình
cảm… vốn có, khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng. Văn hóa khơng chỉ bao gồm
nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ
thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…đã có từ lâu đời.
Phát triển sản phẩm du lịch gắn với tài nguyên văn hóa – vốn văn hóa của cộng
đồng tức là phát triển hệ thống dịch vụ phục vụ du lịch dựa trên những giá trị văn hóa
vốn có của cộng đồng nơi đó.
1.2. Diễn xướng hát văn – hầu đồng và tín ngưỡng hầu Thánh
1.2.1. Diễn xướng hát văn – hầu đồng



23
1.2.1.1.

Diễn xướng dân gian

“Diễn xướng” là thuật ngữ được dùng khá quen thuộc trong nghiên cứu văn học,
văn hoá dân gian. Cho đến nay, có rất nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ này.
Theo giáo sư Nguyễn Phạm Hùng trong cuốn “Văn hóa du lịch” thì “Diễn xướng
là một bộ phận của văn hóa, thể hiện khả năng thẩm mỹ của con người. Nó mang tính
lịch sử và tính dân tộc rõ rệt, nó giúp con người có thể tiếp cận những đặc sắc và khác
biệt văn hóa ở trạng thái sống động, hấp dẫn nhất. Diễn xướng là nghệ thuật biểu diễn và
trình bày bằng âm thanh, hình ảnh, động tác, hình thể của con người, phục vụ nhu cầu
thưởng thức là nghe và nhìn, rất thuận lợi cho phát triển du lịch, vốn nhu cầu nghe
nhìn.”
Tác giả Lê Trung Vũ trong bài viết “Từ diễn xướng truyền thống đến nghệ thuật
sân khấu” đã xác định: “Diễn xướng vừa là hình thức sinh hoạt văn hóa xã hội định kỳ
(như Hội Gióng, Hội Xoan, Hội chùa Keo, Lễ mở đường cày đầu năm…) quy mô làng xã;
lại vừa là hình thái sinh hoạt văn hóa xã hội khơng định kỳ, nhưng định lệ (lễ làm nhà
mới, đám cưới, đám tang, lễ thành niên, lễ thượng thọ…) quy mô một gia đình hoặc việc
của một người; lại cũng vừa là lối trình diễn rất tự nhiên khơng định kỳ cũng không định
lệ mà do nhu cầu sinh hoạt, lao động (Ru con, hát trong lúc lao động, vì lao động hoặc để
giải trí)…” [26] . Theo tác giả, có thể phân loại diễn xướng dựa vào chủ đề và quy cách.
Dựa vào chủ đề, diễn xướng được chia thành hai loại theo hai nội dung lớn của xã hội là
dựng nước và giữ nước. Diễn xướng theo chủ đề dựng nước lại có thể chia thành hai loại
nhỏ là sản xuất và sinh hoạt. Dựa vào quy cách tiến hành diễn xướng, có thể chia diễn
xướng thành diễn xướng tự nhiên, tự do (Thường là hát không động tác hoặc động tác đơn
giản, không kèm tập tục, nghi lễ) và diễn xướng định kỳ, định lệ (phức tạp về thành phần
cấu tạo, đa dạng về nội dung, theo quy cách nhất định). Tác giả Lê Trung Vũ còn lưu ý
rằng đã gọi là diễn xướng thì thường phải có diễn (múa, động tác, âm nhạc) và xướng
(nói, ngâm ngợi, ca hát).

Bên cạnh đó, tìm hiểu về diễn xướng, tác giả Nguyễn Hữu Thu quan niệm: “Thuật
ngữ diễn xướng là để chỉ chung việc thể hiện, trình bày những sáng tác văn nghệ của con


24
người gồm nhiều yếu tố hợp thành (…) diễn xướng là tất cả những phương thức sinh hoạt
văn nghệ mang tính chất ngun hợp của lồi người từ lúc sơ khai cho đến thời đại văn
minh hiện nay” [23]. Nguyễn Hữu Thu liệt kê ra 13 yếu tố cấu thành diễn xướng như: con
người (xét về mặt sáng tạo), tác phẩm (tiểu phẩm truyền miệng trong dân gian), địa điểm
(các kiểu diễn trường), thời gian (mùa hay dịp), động tác (đi đứng, cử chỉ, nhảy múa),
ngơn ngữ (nói năng, ngâm, bình, xướng, kể)… và nhấn mạnh vào yếu tố con người –
xuất phát điểm của nghệ thuật biểu diễn.
Bàn về khái niệm này, nhà nghiên cứu Hoàng Tiến Tựu cho rằng: “Nói diễn xướng
dân gian là hình thức sinh hoạt văn nghệ của nhân dân…, là cái nôi sinh thành của nền
văn nghệ dân tộc” là đúng nhưng chưa đủ và nhất là chưa rõ. Bởi nhân dân đã làm ra
nhiều hình thức văn nghệ khác nhau. Vậy thì diễn xướng dân gian là hình thức văn nghệ
nào của nhân dân? Nghệ thuật sân khấu dân gian có thuộc phạm trù diễn xướng dân gian
không hay thuộc về nghệ thuật sân khấu? Các hình thức sáng tác dân gian khác ít mang
tính chất diễn xướng hơn như tục ngữ, câu đố, ca dao, truyện kể… có phải là thành phần
của diễn xướng không hay diễn xướng dân gian chỉ bao gồm những hình thức văn nghệ
đậm tính diễn xướng như các thể loại ca vũ và trò diễn dân gian?”. Theo ơng, thuật ngữ
diễn xướng dân gian có thể và cần được hiểu với hai nghĩa rộng và hẹp khác nhau. Với
nghĩa rộng, diễn xướng dân gian là tất cả mọi hình thức biểu diễn (hay diễn xướng) và ít
hoặc nhiều đều mang tính chất tổng hợp tự nhiên, (hay tính chất nguyên hợp) mà lâu nay
ta quen gọi là văn học dân gian; cịn nghĩa hẹp nó chỉ bao gồm các thể loại diễn (như trò
diễn, trò tế lễ dân gian...). Hoàng Tiến Tựu đã chia diễn xướng dân gian thành 4 loại: nói,
kể, hát, diễn tương ứng với 4 phương thức phản ánh chủ yếu của văn học dân gian là suy
lý, tự sự, trữ tình, kịch [25].
Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) đã định nghĩa diễn xướng một cách ngắn
gọn là: “Trình bày các sáng tác dân gian bằng lời lẽ, âm thanh, nhịp điệu” [16].

Tác giả Tơ Ngọc Thanh trong bài viết “Trình diễn dân gian Việt Nam” đặt vấn đề
sử dụng thuật ngữ “trình diễn” thay cho thuật ngữ “diễn xướng” bởi theo ông “Thuật
ngữ diễn xướng” dễ dẫn đến liên tưởng về các loại hình nghệ thuật như âm nhạc, múa,


×