Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Đánh giá ảnh hưởng của sức khỏe răng miệng tới chất lượng cuộc sống của trẻ 3 5 tuổi ở thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (819.89 KB, 82 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 1948, Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã đưa ra định nghĩa về sức
khỏe “ Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tinh thần và xã
hội và không chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật” [1] để
khẳng định mối liên quan mật thiết giữa sức khỏe với chất lượng cuộc sống.
Ngày nay, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, chất lượng cuộc sống
ngày càng được quan tâm hơn. Ngày sức khỏe răng miệng thế giới năm 2018
với khẩu hiệu “ Nghĩ về răng miệng, nghĩ về sức khỏe” đã lan tỏa mạnh mẽ
nhận thức về tầm quan trọng của sức khỏe răng miệng với chất lượng cuộc
sống. Trong những năm gần đây, không ít nghiên cứu về vấn đề này đã được
thực hiện. Nghiên cứu của Dimperg L (2015) đã chỉ ra những khó khăn trong
việc ăn, nhai, nói, cười và một số rối loạn về thể chất, tinh thần chính là hậu
quả của tình trạng răng miệng kém [2], điều đó cho thấy sức khỏe răng miệng
không chỉ liên quan đến sức khỏe toàn thân mà hơn thế còn là yếu tố quan
trọng tác động tới chất lượng cuộc sống của con người [3]. Chất lượng cuộc
sống cũng đã được công nhận là một tham số hợp lệ trong đánh giá bệnh nhân
ở mọi lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ, bao gồm cả sức khoẻ răng miệng [2].
Trẻ em, đặc biệt lứa tuổi mầm non là đối tượng dễ chịu sự tác động.
Mặc dù việc chăm sóc răng miệng nói chung và cho trẻ em nói riêng ngày
càng được quan tâm nhưng tỷ lệ bệnh răng miệng ở trẻ dưới 6 tuổi vẫn còn ở
mức báo động [4]. Tỷ lệ sâu răng ở 5 tỉnh thành Việt Nam theo nghiên cứu
của Trương Mạnh Dũng và Vũ Mạnh Tuấn là 81,6%, tỷ lệ trẻ có vấn đề về
vùng quanh răng tới 91,2% [5]. Răng miệng kém tác động tiêu cực tới cuộc
sống của trẻ nghiêm trọng hơn các nhóm tuổi khác trong xã hội. Những vấn
đề răng miệng gây đau đớn, khó chịu, ảnh hưởng tới việc ăn nhai, học tập,
giao tiếp, sinh hoạt, sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ [2], không chỉ
khi còn nhỏ mà còn kéo dài tới nhiều năm tháng về sau. Việc giữ được sự



2

nguyên vẹn của bộ răng sữa còn đóng góp quan trọng cho sự hình thành và
phát triển của cung răng vĩnh viễn, là tiền đề giúp trẻ có được sức khỏe răng
miệng lành mạnh khi trưởng thành.
Trên thế giới đã có các nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá mối
liên quan giữa sức khỏe răng miệng và chất lượng cuộc sống (SKRM –
CLCS) trên trẻ nhỏ ở nhiều nhóm tuổi [6] . Nhóm tuổi dưới 6 đã có một vài
nghiên cứu về vấn đề này nhưng chưa nhiều [7],[8]. Tại Việt Nam, mối liên
quan giữa SKRM-CLCS đã bước đầu được quan tâm và đánh giá ở người
trưởng thành và người cao tuổi tuy nhiên vẫn chưa có nghiên cứu nào trên
nhóm tuổi mầm non. Thành phố Thái Nguyên là vùng có hàm lượng fluor
trong nước thấp, chưa được fluor hóa nước máy, vẫn tồn tại nhiều vấn đề răng
miệng ở trẻ em. Với những tính cấp thiết trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu:
"Đánh giá ảnh hưởng của sức khỏe răng miệng tới chất lượng cuộc sống
của trẻ 3-5 tuổi ở Thái Nguyên" nhằm mục tiêu:
1.

Mô tả đặc điểm dịch tễ học bệnh sâu răng và bệnh quanh răng trên trẻ 3
– 5 tuổi ở Thái Nguyên.

2.

Xác định mối liên quan của sức khỏe răng miệng với chất lượng cuộc
sống của nhóm đối tượng trên.


3

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN
1.1. Bệnh sâu răng trẻ em
1.1.1. Đặc điểm của răng sữa
Chiều dày lớp men răng sữa mỏng hơn và đều đặn hơn răng vĩnh viễn.
Xét về mặt mô học, men răng sữa khác răng vĩnh viễn ở một số điểm. Ở răng
sữa, lớp men nói chung dày bằng một nửa so với răng vĩnh viễn (men răng vĩnh
viễn: 1 - 2 mm, men răng sữa: 0,5 - 1 mm). Việc sắp xếp các trụ men ở răng vĩnh
viễn và răng sữa là tương tự nhau ở hai phần ba về phía mặt nhai thân răng. Sự
khác biệt nằm ở khu vực một phần ba phía cổ răng, các trụ men răng sữa sắp xếp
theo hướng từ đường nối men ngà về phía mặt nhai trong khi răng vĩnh viễn thì
ngược lại [10 ]. Nồng độ canxi, phospho ở răng vĩnh viễn nhiều hơn răng sữa, tỷ
lệ canxi/phospho trong thành phần hóa học men răng sữa thấp hơn men răng
vĩnh viễn (răng sữa: Ca/P = 1,03; răng vĩnh viễn: 1,55 – 1,7) [10].
Chiều dày lớp ngà răng sữa ở hố rãnh tương đối dày hơn.
Tỷ lệ buồng tủy răng sữa (so với thân răng) lớn hơn và sừng tủy lên
cao hơn về phía mặt nhai (nhất là phía gần).
Hình thể
- Gờ cổ răng răng sữa nhô cao (nhất là mặt ngoài)
- Cổ răng răng sữa thắt lại rõ rệt
- Tỉ lệ chân răng sữa dài và mảnh hơn (so với kích thước thân răng)
- Chân răng sữa tách ra ở gần cổ răng hơn, và có xu hướng dài hơn,
thanh mảnh hơn, choãi rộng hơn. Vì vậy chân răng sữa dễ bị gãy khi nhổ.
Kích thước răng cửa và nanh sữa nhỏ hơn so với răng cửa và răng nanh
vĩnh viễn tương ứng, kích thước răng hàm sữa lớn hơn so với răng hàm vĩnh
viễn tương ứng.


4

Màu sắc: Răng sữa có màu trắng như sữa, răng vĩnh viễn có màu trắng

hơi vàng (màu ngà răng).
Tuổi mọc: Răng sữa mọc từ 6 tháng tới 3 tuổi, răng vĩnh viễn mọc từ 6
tuổi đến 25 tuổi.
1.1.2. Định nghĩa sâu răng và sâu răng sớm ở trẻ nhỏ
Sâu răng là bệnh nhiễm khuẩn tổ chức cứng của răng được đặc trưng bởi
sự hủy khoáng của thành phần vô cơ và sự phá hủy thành phần hữu cơ tiến tới
hình thành lỗ sâu. Tổn thương là quá trình phức tạp bao gồm các phản ứng
hóa lý liên quan đến sự di chuyển các ion bề mặt giữa răng và môi trường
miệng đồng thời là quá trình sinh học giữa các vi khuẩn có trong mảng bám
với cơ chế bảo vệ của vật chủ [11].
Định nghĩa sâu răng sớm ở trẻ em (ECC): Sâu răng sớm ở trẻ em (ECC)
từng được biết đến với tên gọi Sâu răng bú bình (Baby Bottle Tooth Decay,
Nursing Bottle mouth, Night bottle mouth), sâu răng do chăm sóc (Nursing
caries) ... Sâu răng sớm ở trẻ em (ECC) là tình trạng xuất hiện một hoặc nhiều
tổn thương sâu răng (có thể đã hình thành lỗ hoặc chưa), mất răng (do sâu),
mặt răng đã được hàn (do sâu) trên bất kỳ răng sữa nào ở trẻ 71 tháng tuổi
hoặc nhỏ hơn (Hiệp hội răng trẻ em Hoa Kỳ - AAPD, 2008) [12]
1.1.3. Bệnh căn, bệnh sinh sâu răng
Sâu răng nói chung cũng như ECC đều có những yếu tố bệnh căn, bệnh
sinh tương tự nhau. Tuy nhiên, với ECC có một số yếu tố như răng khiếm
khuyết, lây nhiễm Streptococcus. mutans từ người chăm sóc, cách chăm sóc
trẻ không đúng làm tăng nguy cơ mắc bệnh.


5

Hình 1.1. Sơ đồ nguyên nhân và các yếu tố liên quan đến sâu răng
(theo Fejerkor 1990) [13]
 Yếu tố răng
Sâu răng xảy ra trên răng đã hiện diện trong miệng và phụ thuộc vào

cấu trúc, sức đề kháng của răng. Ở trẻ em, khi bộ răng sữa đã mọc lên đầy đủ,
khoảng hở giữa các răng thu hẹp lại, diện tiếp xúc giữa các răng rộng cùng
với cấu trúc men và ngà răng mỏng hơn, ít cứng bằng răng vĩnh viễn, buồng
tủy rộng nên có nguy cơ sâu răng cao hơn răng vĩnh viễn, và khi sâu răng xảy
ra dễ tiến triển đến gây tổn thương tủy răng.

 Chế độ ăn
Vi khuẩn gây sâu răng sau khi nhiễm vào môi trường miệng, tự nó sẽ
không sâu răng được. Có sự liên quan rõ ràng giữa sâu răng và sự lên men
đường [14]. Trẻ em mắc sâu răng sớm có tiền sử tiêu thụ thường xuyên và kéo
dài đường từ đồ uống. Đường mía (sucrose) có khả năng gây sâu răng cao hơn
các loại đường khác do dễ bị lên men. Vi khuẩn Streptococcus mutans và
Lactobacillus chuyển hóa các loại đường như sucrose, glucose và fructose tạo


6

thành acid hữu cơ gây hủy khoáng men và ngà răng. Tỷ lệ xuất hiện sâu răng
liên quan đến độ đậm đặc, độ dính, cách thức và tần suất ăn hơn tổng lượng
đường tiêu thụ. Với ECC, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra có mối liên quan đang kể
giữa sâu răng và cho ăn bằng bình khi ngủ [15].

 Vi khuẩn trong mảng bám răng
Vi khuẩn liên quan đến sâu răng có 2 loại là vi khuẩn sinh acid làm hủy
khoáng bề mặt men răng và vi khuẩn phân giải protein làm tiêu tổ chức hữu
cơ của men, ngà răng sau khi bị hủy khoáng. Các loài vi khuẩn đặc hiệu gây
sâu răng là: Streptococcus mutans, Lactobacillus, Actinomyces.
Nghiên cứu về đặc điểm sinh học của sâu răng sớm ở trẻ nhỏ cho thấy:
Streptococcus mutans thường xuyên vượt quá 30% của hệ vi khuẩn ở mảng
bảm răng [13]. Mức độ dày đặc vi khuẩn này có liên quan với tổn thương hủy

khoáng, tổn thương đốm trắng, bề mặt răng gần tổn thương cho thấy sâu răng
sớm ở trẻ nhỏ là bệnh truyền nhiễm và Streptococcus mutans đóng vai trò
quan trọng trong bệnh căn [16].
Lactobacillus cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự tiến triển tổn
thương sâu răng, nhưng nó không đóng vai trò là nhân tố khởi phát của quá
trình sâu răng [17].

 Thời gian
Sâu răng chỉ phát triển khi phản ứng sinh acid kéo dài và lặp đi lặp lại
trong một khoảng thời gian, thời gian tiếp xúc giữa acid và men răng càng dài
thì hủy khoáng càng nhiều và sẽ gây sâu răng.

 Nước bọt
Nước bọt là chất lỏng, quánh có vai trò quan trọng bảo vệ khỏi sâu răng.
Ngoài khả năng làm sach tự nhiên nhờ dòng chảy và tốc độ lưu chuyển nước bọt
trong miệng. Nước bọt còn chứa bạch cầu và kháng thể nên còn có tác dụng
chống nhiễm trùng, các ion khoáng như Ca2+, PO43-…


7

Yếu tố chống lại sự thay đổi pH của nước bọt là hệ thống phosphate và
acid carbonic/ bicarbonate. Hệ thống đệm quan trọng nhất là acid carbonic/
bicarbonate. Nồng độ acid ion bicarbonate dao động từ 1 mµ khi không bị
kích thích đến 60 mµ khi tốc độ dòng chảy ở mức cao. Khả năng đệm của
bicarbonate có thể được diễn giải là:
CO2 + H2O  H2CO3  HCO3- + H+
Ngày nay, dựa trên y học bằng chứng việc kiểm tra lưu lượng nước bọt
cũng đã được Hiệp hội nha khoa Hoa Kỳ (ADA) đưa vào tiêu chí khi đánh giá
nguy cơ sâu răng cho bệnh nhân [18].

Có nhiều quan niệm khác nhau về quá trình hình thành của sâu răng.
Hiện nay, người ta cho rằng trên bề mặt men răng bình thường luôn tồn tại
quá trình cân bằng động giữa hủy khoáng và tái khoáng, khi pH trên bề mặt
men răng thấp thì hủy khoáng sẽ chiếm ưu thế và hình thành các tổn thương
sâu răng đầu tiên.
Quá trình hủy khoáng diễn ra khi pH giảm xuống dưới pH tới hạn. pH
tới hạn của hydroxyapatide là 5,5 và fluorapatide là 4,5. Sự tiếp xúc thường
xuyên với sucrose là yếu tố quan trọng nhất giữ cho pH ở mức thấp, bề mặt
răng liên tục bị tấn công bởi acid.
Quá trình tái khoáng ngược với quá trình hủy khoáng, khi pH trung
tính, có đủ ion Ca2+ và PO43- trong môi trường miệng, tái lập lại một phần tinh
thể apatite bị hòa tan.


8

Yếu tố bảo vệ
+ Nước bọt, dòng chảy nước bọt
+ Khả năng kháng axít của men
+ Fluor có ở bề mặt men răng
+ Trám bít hố rãnh
+ Độ Ca2+, PO43- quanh răng
+ pH>5,5
+ Vệ sinh răng miệng tốt

Yếu tố gây mất ổn định
+ Mảng bám vi khuẩn
+ Chế độ ăn đường nhiều lần
+ Nước bọt thiếu, giảm dòng chảy
nước bọt

+ Axít từ dạ dày trào ngược
+ pH<5
+ Vệ sinh răng miệng kém

Không sâu răng

Sâu răng

Hình 1.2. Sơ đồ cán cân các yếu tố bảo vệ và yếu tố mất ổn định
với sâu răng [19]
1.1.4. Chẩn đoán bệnh sâu răng
Theo tiêu chuẩn của WHO (1997) về việc khám phân loại sâu răng:
Rãnh trũng trên mặt nhai, ngoài, trong mắc thám trâm lúc khám, ấn
thám trâm vào với lực vừa phải có các dấu chứng sâu răng khác như: đáy lỗ
sâu mềm, có vùng đục xung quanh chỗ mất khoáng, có thể dùng thám trâm
cạo đi phần ngà mềm ở vùng xung quanh [20]
Năm 2005, WHO công nhận hệ thống phân loại và chẩn đoán, ghi
nhận sâu răng theo Hệ thống phát hiện và đánh giá sâu răng quốc tế
(International Caries Detection and Assessment System- ICDAS II) là
phương pháp chính thức


9

Bảng 1.1. Tiêu chuẩn phát hiện sâu thân răng nguyên
phát và sâu răng thứ phát theo hệ thống đánh giá, phát
hiện sâu răng quốc tế ICDAS II (2005) [21]
M
ã


Sâu răng nguyên phát

Sâu răng thứ phát

số
0 Lành mạnh
Mặt răng đã hàn, không có sâu thứ phát.
1 Đốm trắng đục(sau thổi khô 5 giây) Đốm trắng đục (sau thổi khô 5 giây)
Đốm trắng đục, vàng hoặc nâu lan rộng
2 Đổi màu trên men (răng ướt)
đến miếng hàn khi răng ướt
3 Vỡ men định khu (không thấy ngà) Lỗ sâu ngay viền miếng hàn <5mm
Sâu vỡ men, cement nhưng không thấy
4 Bóng đen ánh lên từ ngà
ngà. Có bóng mờ từ ngà.
Sâu vỡ men, cement lan rộng >5mm nhưng
5 Xoang sâu thấy ngà
không thấy ngà. Có bóng mờ từ ngà.
Xoang sâu thấy ngà lan rộng (>1/2 Lỗ sâu lan rộng cả chiều sâu, độ rộng và
6
mặt răng)
thấy rõ ngà răng.
AAPD (2008) đã phân loại sâu răng sớm thành hai loại trong đó sâu
răng sớm trầm trọng (S-ECC) được định nghĩa:
Trẻ dưới 3 tuổi: có bất kỳ một tổn thương sâu răng mặt nhẵn nào.
Trẻ 3 - 5 tuổi: một hoặc hơn lỗ sâu, mất, trám trên mặt nhẵn nhóm răng
trước hàm trên, hoặc chỉ số sâu, mất, trám bề mặt răng lớn hơn hoặc bằng 4
với trẻ 3 tuổi, lớn hơn hoặc bằng 5 với trẻ 4 tuổi, lớn hơn hoặc bằng 6 với trẻ
5 tuổi [12].
Tổn thương sâu răng sớm có tính chất phát triển nhanh ở nhiều răng,

trên các mặt răng bình thường ít bị sâu (mặt nhẵn, mặt ngoài răng cửa hàm
trên). Trong đa số trường hợp, các răng cửa hàm trên bị tổn thương sớm nhất
và nặng nề nhất sau đó đến các răng hàm sữa thứ nhất hàm trên và hàm dưới,


10

đôi khi răng nanh dưới cũng bị ảnh hưởng, răng cửa hàm dưới thường chỉ tổn
thương trong sâu răng sớm trầm trọng [14].
1.1.5. Tình hình phân bố sâu răng sữa
 Phân bố sâu răng theo khu vực
Mặc dù tỷ lệ sâu răng đang có chiều hướng giảm ở các nước phương
Tây nhưng sâu răng ở trẻ mầm non vẫn là một vấn đề nghiêm trọng ở các
nước đang phát triển, thậm chí cả các nước phát triển [22].
Tỷ lệ ECC khác nhau tùy thuộc vào 1 số yếu tố như chủng tộc, văn hóa,
sắc tộc, tình trạng kinh tế xã hội, cách sống, chế độ ăn, vệ sinh răng miệng
giữa các quốc gia và khu vực. Tỷ lệ ECC ở các quốc gia phát triển nhất thế
giới từ 1 tới 12 % [23], dao động từ 11,4 % ở Thụy Điển tới 7 – 19% ở Italy
[24]. Tại Mỹ, ước tính tỷ lệ ECC là 3 – 6%, tương đương với các quốc gia
phát triển khác [25]. Ở những quốc gia kém phát triển hơn và những khu vực
khó khăn tại các nước phát triển, tỷ lệ ECC có thể lên tới 70% [26]. ECC có
tỷ lệ rất cao ở các nước Trung Đông như Palestin (76%), các tiểu vương quốc
Ả Rập (83%) [27],[28]. Điều tra răng miệng toàn quốc tại một số quốc gia
cho kết quả rất khác nhau: Hy Lạp (36%), Brazil (45,8%), Ấn Độ (51,9%),
Israel (64,7%) [29],[30]. Trong một phân tích hệ thống, Ismail và Sohn chỉ ra
tỷ lệ sâu răng có sự chệnh lệch rất lớn từ 2,1% ở Thụy Điển tới 85,5% ở vùng
nông thôn Trung Quốc[31].
Tại Đông Nam Á tỷ lệ trẻ nhiễm ECC dao động từ 25% tới 95%, chỉ
số smtr từ 0,9 – 9,0. Tỷ lệ sâu răng trung bình là 76% với smtr = 5,1 [32].
Tại Việt Nam, tỷ lệ sâu răng trẻ em vẫn ở mức rất cao. Nguyễn Thúc

Quỳnh Hoa nghiên cứu trên 941 trẻ 3 – 5 tuổi năm học 2002 - 2003 cho thấy tỷ
lệ sâu răng là 83,74% với smtr là 5,56 ± 4,33, trong đó 11,6% trẻ bị mất răng
và chủ yếu ở nhóm 5 tuổi [33]. Nghiên cứu của Trương Mạnh Dũng (2010) tại
5 tỉnh thành của Việt Nam cho thấy 81,6% trẻ từ 4 - 8 tuổi có sâu răng sữa với


11

chỉ số smtr là 4,7 và 95,3% trong số đó là không được điều trị; riêng nhóm 5
tuổi chỉ số dmft ở mức độ trầm trọng hơn (smtr = 5,4) [5].

 Phân bố sâu răng theo tuổi
Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng tỷ lệ ECC tăng lên theo tuổi. Nghiên
cứu của Ramos Gomet và cộng sự, ECC cao nhất ở trẻ 3 – 4 tuổi và ở bé trai
chiếm tỷ lệ cao hơn bé gái [34]. Ferro và cộng sự khi nghiên cứu trên 1006 trẻ
mầm non ở Italia cho kết quả sự phân bố ECC theo tuổi lần lượt như sau: <3
tuổi (17,2%), 3 tuổi (13,28%), 4 tuổi (18,95%), 5 tuổi (26,9%) [35]. Kết luận
này cũng tương tự như trong nghiên cứu về tỷ lệ ECC rút ra từ các nghiên cứu
dịch tễ học tại Trung Quốc từ năm 1987 tới năm 2013 trên trẻ 1 – 6 tuổi lần
lượt như sau: 0,3%; 17,3%; 40,2%; 54,4%; 66,1% và 70,7% [36].

 Phân bố sâu răng theo giới
Trong các nghiên cứu về sâu răng sữa, tỷ lệ sâu răng ở trẻ nam thường
cao hơn nữ, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p<0,05) [37].
Năm 2014, Darshana nghiên cứu trên 500 trẻ 3 – 6 tuổi tới từ các trường mẫu
giáo công lập và tư thục tại thành phố Mysore, Ấn Độ cho thấy tình trạng sâu
răng giữa trẻ nam và nữ có sự khác biệt đáng kể, smtr ở trẻ nam là 3,46±3,1; trẻ
nữ là 2,91±2,9 [38]. Trong một nghiên cứu khác cũng được thực hiện tại Ấn
Độ, cũng cho kết quả tỷ lệ sâu răng trên trẻ nam (57,3%) cao hơn so với trẻ nữ
(51,5%) [39].


 Phân bố sâu răng sữa theo răng và mặt răng
Các răng cửa giữa hàm trên và răng hàm sữa thường là những răng dễ bị
ảnh hưởng bởi sâu răng hơn các răng sữa khác. Nghiên cứu của Vinnay Kumar
(2014) cho thấy răng hàm sữa thứ nhất của cả hai hàm dễ bị ảnh hưởng bởi sâu
răng nhất (46,56% với Rhs1 hàm trên và 51,3% với Rhs1 hàm dưới). Răng cửa
giữa hàm dưới và răng cửa bên hàm trên có tỷ lệ sâu răng thấp nhất [40]. Theo
Jiang Y khi nghiên cứu trên 2829 trẻ 2 – 5 tuổi tại Trung Quốc, răng cửa giữa


12

hàm trên dễ bị ảnh hưởng bởi sâu răng nhất [41]. Nghiên cứu của Đỗ Minh
Hương trên 1184 trẻ mầm non tại Thái Nguyên, nhóm răng bị tổn thương
nhiều nhất là nhóm răng hàm hàm dưới và nhóm răng cửa hàm trên. Khoảng
10% số trẻ có tổn thương sâu răng phá hủy toàn bộ thân răng cửa hàm trên,
chỉ còn lại chân răng chưa được điều trị; tỷ lệ này đối với nhóm răng hàm sữa
thứ hai là 2%. Cũng trong nghiên cứu này, sâu răng có thể xảy ra trên tất cả
các mặt răng theo thứ tự từ cao xuống thấp: mặt nhai, mặt gần - mặt xa, mặt
ngoài - mặt trong [42].
 Phân bố sâu răng theo mức độ tổn thương
Nghiên cứu tại Colombia (2010) báo cáo tỷ lệ sâu răng trên trẻ 3 – 5 tuổi
là 88,9%, trong đó có 51,7% tổn thương đã hình thành lỗ sâu (tương ứng từ mã
3) [43]. Năm 2015, trong một nghien cứu trên trẻ em tại Brazil, tác giả Silvania
sử dụng chỉ số ICDAS II để đánh giá sâu răng trên trẻ 3 – 6 tuổi. Các mã số từ
0 – 6 được chia thành các điểm cắt. Điểm cắt 1 (mã 0 và mã 1: lành mạnh; mã
2 – 6: sâu răng) tỷ lệ sâu răng là 68,8%. Điểm cắt 2 (mã 0 – 2: lành mạnh; mã 3
– 6: sâu răng) tỷ lệ sâu răng là 67,9%. Điểm cắt 3 (mã 0 – 3: lành manh; mã 4 –
6: sâu răng) tỷ lệ sâu là 60,6% [44].
1.2. Bệnh vùng quanh răng ở trẻ em

1.2.1. Đặc điểm vùng quanh răng trẻ em
Trong từ điển Y khoa, vùng quanh răng (Periodotium) xuất phát từ
tiếng Hy –lạp, peri là xung quanh, odons nghĩa là răng. Trong Y văn,
Periodontium để chỉ vùng xung quanh răng, có chức năng hỗ trợ, nâng đỡ cho
răng. Vùng quanh răng ở trẻ em cũng như người lớn gồm có 4 thành phần cơ
bản: lợi, xương ổ răng, dây chằng quanh răng và cement. Vùng quanh răng ở
bộ răng sữa khác với người trưởng thành ở một số điểm:
Lợi đỏ hơn, mềm hơn và không có lấm tấm da cam. Bimstein và cộng
sự (2003) nghiên cứu mô tả sự khác nhau giữa lấm tấm da cam ở trẻ em và


13

người lớn chỉ ra rằng lấm tấm da cam xuất hiện sau 3 tuổi và không có sự
thay đổi đặc biệt nào theo tuổi hay giới hay vị trí cung răng [45]. Màu đỏ là
do biểu mô mỏng hơn, ít sừng hóa, và được tưới máu nhiều hơn, có thể gây
nhầm lẫm với tình trạng viêm nhẹ. Hơn nữa, sung huyết máu tại chỗ đi kèm
với sự mọc răng sữa làm nhú lợi tròn đi và sưng phồng, khe lợi sâu tới 3mm.
Mô lợi ở trẻ nhỏ ít sợi Collagen và giàu mạch máu hơn [46]. Lớp Keratin ở
lợi trẻ em rất dày, trung bình khoảng 27µm, trong khi ở người lớn chỉ là 23
µm. Theo thời gian, độ dày của lớp Keratin này giảm đi, làm tăng nguy cơ tấn
công của vi khuẩn vào mô quanh răng [47].
Dây chằng quanh răng rộng hơn, một phần do lớp cement và lớp
xương vỏ mỏng hơn, các bó sợi collagen ít hơn và được tưới máu nhiều hơn.
Lớp cement mỏng hơn ỏ vùng quanh răng trẻ em.
Xương ổ răng: ít bè xương hơn, tủy xương rộng và ít vôi hóa hơn.
Mạch máu nuôi dưỡng và mạch lympho cũng nhiều hơn, các đặc điểm này tăng
cường tốc độ tiến triển của bệnh quanh răng ở trẻ em so với người lớn. Trên
phim X – quang, khoảng cách từ đường ranh giới men – cement đến mào xương
ổ răng trẻ bình thường ở răng nanh sữa và răng hàm sữa từ 0 – 2mm.

Trong suốt quá trình mọc răng vĩnh viễn, biểu mô liên kết di chuyển về
phía chóp từ rìa cắn hoặc mặt nhai hướng về đường ranh giới men – cement.
Khi liên kết biểu mô ở trên đường phồng lớn nhất của thân răng, khe lợi sâu 6
– 7 mm nên rất thuận lợi cho tích tụ mảng bám. Khi các răng đã mọc hoàn
toàn, biểu mô bám dính và lợi viền tiếp tục di chuyển về phía chóp. Sự ổn
định của lợi đạt được vào khoảng 12 tuổi với các răng cửa, răng nanh, răng
hàm nhỏ, răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới. Mô lợi của các răng còn lại tiếp
tục co dần xuống đến khoảng 16 tuổi [48].
Bệnh quanh răng là bệnh rất phổ biến, tỷ lệ mắc rất cao. Theo tài liệu
tham khảo của Hiệp hội Nha chu Hoa Kỳ (AAP), hầu hết tổn thương vùng


14

quanh răng ở trẻ em là ở mô lợi, tức là viêm lợi đơn thuần, hiếm khi tổn thương
lan đến dây chằng quanh răng, xương ổ răng [49].
Vì vậy, trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng tôi chỉ đề cập đến bệnh
viêm lợi ở trẻ em.
1.2.2. Sinh bệnh học viêm lợi
Nguyên nhân gây viêm lợi rất đa dạng [50]:
Do vi khuẩn ở mảng bám răng
Do nhiễm virus, nấm: herpes virus, varicella-zoster virus,… nấm
candida…
Do thay đổi nội tiết tố: ở tuổi dậy thì, phụ nữ mang thai và nuôi con bú,
chu kỳ kinh nguyệt…
Vật lý, hóa học: bỏng khi ăn thức ăn quá nóng, tiếp xúc với các hóa
chất như thủy ngân, chì, các axit,... làm rộp và đổi màu lợi.
Một số nguyên nhân khác: bệnh hệ thống (bệnh Lupus ban đỏ, Bệnh
máu…), do thuốc (Aspirin, Dilantin Phenyltonic…), suy dinh dưỡng (thiếu
ascorbic acid,...), chấn thương (sang chấn ở lợi như thức ăn cứng, va đập vào

lợi, thức ăn dắt vào kẽ răng, khớp cắn sâu...)...
Trong đó, nguyên nhân chính là do vi khuẩn ở mảng bám răng [49].
Mảng bám răng là một màng vi khuẩn có cấu trúc phức tạp, sự hình
thành và phát triển của nó đòi hỏi những điều kiện về môi trường sinh thái
thích hợp như nhiệt độ, các chất nuôi dưỡng và vi khuẩn.
Màng vi khuẩn hình thành qua hai giai đoạn, đầu tiên là sự hình thành
màng vô khuẩn có nguồn gốc từ nước bọt, sau đó vi khuẩn thường trú sẽ
nhanh chóng xâm nhập và phát triển thành màng vi khuẩn. Thành phần vi
khuẩn trong màng thay đổi dần theo thời gian.
Hai giờ đầu là màng vô khuẩn, ngày thứ nhất, thứ hai có cầu khuẩn và
trực khuẩn Gram dương, ngày thứ 3, 4 có thoi xoắn trùng phát triển, ngày thứ


15

7 có vi khuẩn thể sợi Gram âm và ngày thứ 21 có 45 - 75% là vi khuẩn Gram
âm trong mảng bám.
Khi mảng bám răng có nhiều lớp vi khuẩn thì vi khuẩn Gram âm và
yếm khí tăng lên. Trung bình 1mm³ mảng bám răng có 108 vi khuẩn. Oxy là
một chất quyết định sinh thái học vì các vi khuẩn có khả năng khác nhau để
phát triển và nhân lên ở các nồng độ oxy khác nhau.
Theo vị trí, có mảng bám trên lợi và mảng bám dưới lợi.
Mảng bám trên lợi là mảng bám được thành lập trên bề mặt răng phía
trên đường viền lợi. Các thức ăn được hoà tan trong nước bọt là nguồn dinh
dưỡng quan trọng cho mảng bám trên lợi. Mặc dù hệ vi khuẩn trong viêm lợi
do mảng bám chưa được mô tả thật đầy đủ, nhưng nghiên cứu chỉ ra rằng tỉ vệ
một số vi khuẩn như Actinomyces, Capnocytophaga, Leptotrichia và
Selenomonas trong mảng bám trên lợi ở trẻ em cao hơn người trưởng thành.
Đây có thể là những chủng vi khuẩn quan trọng gây bệnh trên trẻ [51].
Mảng bám dưới lợi là sự tập hợp vi khuẩn trong rãnh lợi hay trong túi

quanh răng. Thành phần vi khuẩn của mảng bám dưới lợi và mảng bám trên
lợi khác nhau đáng kể. Giống như màng sinh học, mảng bám vi khuẩn dưới
lợi rất bền dai và khó loại bỏ
Viêm lợi xuất hiện rất sớm, khi mảng bám răng hình thành được 7
ngày, mảng bám chính là yếu tố kích thích gây ra viêm lợi.
Ở thời kỳ răng sữa, lợi có khả năng đề kháng tốt với viêm gây ra do
mảng bám. Matsson đã tiến hành một thử nghiệm về mức độ tiến triển của
viêm lợi trong 21 ngày trên 6 trẻ (4 – 5 tuổi) và 6 sinh viên nha khoa (23 – 29
tuổi), nhận thấy rằng: viêm lợi dễ tiến triển ở người lớn hơn trẻ em. Sau 21
ngày mảng bám không được lấy bỏ, mức độ tiết dịch lợi và tỷ lệ những vị trí
có chảy máu lợi ở trẻ em thấp hơn. Bên cạnh đó, bạch cầu trong dịch lợi ở trẻ
tập trung nhiều hơn để đáp ứng lại với vi khuẩn trong mảng bám [52].


16

1.2.3. Chẩn đoán viêm lợi
Không có sự khác biệt về đặc điểm viêm lợi của trẻ em và người trưởng
thành, cả về mặt lâm sàng và mô bệnh học [50]. Viêm lợi có những triệu
chứng điển hỉnh sau:
Chảy máu lợi: có thể chảy máu mạn hay cấp tính, chảy máu do nguyên
nhân toàn thân
Thay đổi về màu sắc: Từ màu hồng đổi sang màu đỏ, đỏ sẫm, đỏ xanh
xám. Lợi trở nên đỏ hơn khi có sự gia tăng số lượng mạch máu, giảm độ sừng
hoá. Lợi nhạt khi giảm lượng mạch máu (trong trường hợp bị xơ hóa) tăng độ
sừng hóa ở bề mặt biểu mô.
Thay đổi về vị trí của lợi: Bờ lợi, nhú lợi sưng phù có thể lên đến phần
lồi của thân răng tạo túi giả hoặc lợi bị tụt.
Thay đổi mật độ của lợi
Lợi bình thường thì chắc và đàn hồi. Viêm mạn, viêm cấp đều làm thay

đổi tình trạng ấy. Trong viêm mạn, lợi có vẻ chắc hơn là viêm cấp. Đôi khi lợi
săn cứng như da thú nếu có sự xơ hóa.
Theo khuyến cáo của Viện hàn lâm nha chu Hoa Kỳ (AAP), việc chẩn
đoán sớm bệnh là vô cùng quan trọng cho thành công của điều trị. Do đó, trẻ
cần nhận được thăm khám tổng thể vùng quanh răng, cần đặc biệt lưu ý khi
trẻ có những biểu hiện viêm nhiễm nặng, vì đó có thể là triệu chứng sớm của
một bệnh hệ thống.
1.2.4. Dịch tễ học bệnh quanh răng
Viêm lợi là thể thường gặp nhất trong số các bệnh vùng quanh răng ở trẻ
em. Tỷ lệ và mức độ bệnh có sự chệnh lệch giữa các quốc gia phát triển và
quốc gia đang phát triển. Báo cáo của trong hội nghị tại Giơ – ne – vơ năm
1978 của WHO, trẻ em có viêm lợi chiếm tới hơn 80%. Trong đó, các nước
châu Á, châu Phi có tỷ lệ và mức độ trầm trọng của bệnh cao hơn nhiều khi so


17

sánh với Mỹ và các nước Bắc Âu [53]. Trong một báo cáo của AAP, tỷ lệ viêm
lợi trẻ em từ 40% - 60 %. Năm 1998, Rui Vicente Opperman từ một phân tích
tổng quan hệ thống về dịch tễ học bệnh quanh răng trên người châu Mỹ Latinh đưa ra tỷ lệ trẻ viêm lợi rất cao 90% – 100%, với GI trung bình = 1,24
[54]. Kết quả này cũng tương đồng với nghiên cứu của Sutthavong trên 157
trẻ mầm non tại Thái Lan với tỷ lệ trẻ mắc viêm lợi là 95,5 % [55]. Gần đây,
một nghiên cứu trên trẻ 2 – 5 tuổi tại Kolkata, Ấn Độ năm 2016 cho thấy :
Giá trị trung bình chỉ số lợi GI = 1,189±0,12 ; độ sâu túi lợi = 2,77±0,55[56].
Chảy máu là một trong những triệu chứng cơ bản của viêm lợi, nghiên cứu tại
Srilanka năm 2014 trên 784 trẻ 48 – 72 tháng tuổi cho thấy tỷ lệ chảy máu sau
thăm dò là 52,9%. Sự có mặt mảng bám răng làm tăng tỷ lệ chảy máu lợi
[57]. Nghiên cứu về tỉ lệ và mức độ trầm trọng bệnh chỉ ra rằng viêm lợi có
thể chiếm tỷ lệ 2% - 34% ở trẻ 2 tuổi và 18 – 38% khi trẻ 3 tuổi. Bệnh thường
khởi phát tại thời điểm 5 tuổi và đạt đỉnh điểm khi trẻ dậy thì [58].

Đánh giá mối liên quan giữa viêm lợi và một số yếu tố nguy cơ như vệ
sinh răng miệng, béo phì hoặc có nguy cơ béo phì trên trẻ 4 – 5 tuổi cho thấy
viêm lợi cao nhất ở nhóm có cả mảng bám răng và béo phì hoặc có nguy cơ
béo phì. Có sự liên quan giữa mảng bám và nguy cơ béo phì (p = 0,001) [59].
Không chỉ xảy ra viêm lợi đơn thuần, ở trẻ cũng có thể gặp các tổn
thương phá hủy mô quanh răng với mức độ tăng dần theo tuổi. Năm 2012,
Vivek Sigh Chauhan và cộng sự đã đưa ra con số báo động, hiện tượng mất
bám dính và tiêu xương một hoặc nhiều vị trí có thể gặp ở 1% – 9% trẻ 5 – 11
tuổi, 1%– 46% ở trẻ 12 – 14 tuổi [60].
Tại Việt Nam, Điều tra SKRM toàn quốc lần thứ 2 của viện Răng hàm
mặt phối hợp với trường Đại học nha khoa Australia (2002) : Tỷ lệ trẻ em bị
viêm lợi ở mức cao từ 42,7% - 71,4%, gặp ở tất cả các nhóm tuổi, trẻ em sống
ở nông thôn có tỷ lệ viêm lợi cao hơn so với các trẻ em cùng lứa tuổi sống ở


18

thành thị. Tỷ lệ trẻ em có cao răng cao và gia tăng theo tuổi [61]. Nghiên cứu
của Trương Mạnh Dũng và Vũ Mạnh Tuấn về thực trạng bệnh răng miệng
trên trẻ 4 – 8 tuổi, tại 5 tỉnh thành Việt Nam : 81,6 % có cặn bám răng, 81,1%
có cao răng, 11,9% có chảy máu lợi [5]. Nghiên cứu của Phùng Thủy Tiên
năm 2015 có tới 81,3 % trẻ 3 – 5 tuổi bị viêm lợi, trong đó vùng lục phân số 2
và số 5 có tỷ lệ viêm lợi cao nhất [62].
1.3. Mối liên quan SKRM – CLCS
1.3.1. Khái niệm về chất lượng cuộc sống (CLCS), sức khỏe ảnh hưởng tới
chất lượng cuộc sống (SK – CLCS), sức khỏe răng miệng ảnh hưởng tới
chất lượng cuộc sống (SKRM – CLCS)
WHO đã định nghĩa chất lượng cuộc sống “là nhận thức của một cá
nhân về vị trí, vai trò của họ trong cuộc sống dựa trên hệ thống văn hóa và
nguyên tắc nơi họ đang sống, liên quan tới mục tiêu, mong đợi, tiêu chuẩn và

mối quan tâm của bản thân người đó” [1]. Đơn giản hơn, CLCS là cảm nhận
chủ quan của một người hạnh phúc hay bất hạnh về những mối quan tâm khác
nhau trong cuộc sống. CLCS là một khái niệm rộng bao gồm sức khỏe thể
chất, trạng thái tâm lý, các mối quan hệ xã hội và mối liên quan của một cá
nhân với môi trường sống của họ.
Sức khỏe liên quan chất lượng cuộc sống (SK – CLCS ) là mức độ
khỏe mạnh của một người về thể chất, tinh thần và xã hội bị ảnh hưởng bởi
bệnh tật hay việc điều trị bệnh. Việc đo lường SK – CLCS là để tìm hiểu
CLCS trong bối cảnh sức khỏe và bệnh tật [63].
Sức khỏe răng miệng liên quan chất lượng cuộc sống (SKRM – CLCS)
là một khái niệm tương đối mới nhưng đã phát triển nhanh chóng trong 3 thập
kỷ qua. SKRM - CLCS là một phần của SK – CLCS, WHO định nghĩa đó là
“một cấu trúc đa chiều phản ánh sự thoải mái của một người khi ăn, ngủ và
tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lòng tự trọng, sự hài lòng của của họ đối


19

với sức khỏe răng miệng của mình” [64]. Đó là kết quả của sự tương tác giữa
tình trạng sức khỏe răng miệng, xã hội và những tác nhân bối cảnh [65] và
phần còn lại của cơ thể [66].
1.3.2. Mô hình lý thuyết SKRM – CLCS
Cuối những năm 60 của thế kỉ trước, khái niệm SK – CLCS ra đời
nhưng khái niệm SKRM – CLCS chưa được công nhận. Trước đây, các nhà
nghiên cứu đã từng bác bỏ liên quan của sức khỏe răng miệng tới sức khỏe
toàn thân nói chung. Davis khẳng định rằng ngoài bệnh ung thư vùng miệng
gây đau và đe dọa tính mạng, các bệnh về răng miệng khác không có bất kỳ
tác động nào lên đời sống xã hội và chỉ liên quan các vấn đề về thẩm mỹ [67].
Mãi đến cuối những năm 1970, các nhà khoa học mới dần nhận ra sự thiếu sót
khi chỉ đánh giá về mặt lâm sàng của tình trạng răng miệng, các chỉ số lâm

sàng của bệnh răng miệng thường gặp như sâu răng, bệnh quanh răng không
đủ để phản ánh những khái niệm mới về sức khỏe của WHO, đặc biệt là về
khía cạnh tinh thần, xã hội. Chính vì vậy, khái niệm SKRM – CLCS bắt đầu
được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Trong một đánh giá của Loker D, số bài
báo về chủ đề này đã tăng lên chóng mặt, năm 1990 chỉ có 2 bài báo thì sau
15 năm, từ năm 2005 – 2008 có tới 236 bài báo về vấn đề này [68].
Năm 2011, Sischo L đã đưa ra mô hình lý thuyết về SKRM – CLCS,
kết hợp các yếu tố sinh học, xã hội học, tâm lý học và văn hóa [69], dựa trên
cơ sở nghiên cứu của Wilson và Cleary (1995) [70] và nền tảng lý thuyết về
khoa học xã hội và dịch tễ của Barbosa và Gaviao (2008) [71]. Mô hình thể
hiện mối liên quan tình trạng sức khỏe, chức năng, biểu hiện răng miệng, tinh
thần với chất lượng cuộc sống, công nhận ảnh hưởng của yếu tố môi trường
hay yếu tố ngoại cảnh (văn hóa – xã hội, giáo dục, cấu trúc gia đình) và tiếp
cận trên phương diện chăm sóc sức khỏe răng miệng liên quan tới chất lượng
cuộc sống.


20

Đặc trưng của mỗi cá thể
Nhân chủng học, trạng thái tâm lý, tiền sử y khoa

Loại di truyền/ mức độ khiếm
khuyết

SKRM - CLCS

CLCS nói chung

Các triệu chứng

Trạng thái tốt về mặt chức năng
Tình trạng sức khỏe răng miệng

Môi trường
- Tiếp cận/ tận dụng – nguồn kinh phí, thu nhập
- Người chăm sóc
- Giaó dục, cấu trúc gia đình

Hình 1.3. Mô hình lý thuyết SKRM – CLCS của Sischo L [69]
1.3.3. Tầm quan trọng của đánh giá SKRM - CLCS
Việc đánh giá SKRM – CLCS có vai trò quan trọng về cả mặt lý thuyết
và lâm sàng. Hiện nay, các vấn đề về CLCS đang được coi là vấn đề đi đầu trong
chính sách y tế cộng đồng. SKRM có thể ảnh hưởng tới cuộc sống của tất cả mọi
người trong xã hội. Nhiều nghiên cứu cho thấy có thể đánh giá SKRM – CLCS
trên nhiều đối tượng khác nhau, bệnh nhân ung thư miệng , trẻ em sâu răng sớm
[8], thậm chí cả trẻ có những rối loạn về sọ mặt [72].
Đánh giá về SKRM – CLCS cho phép thay đổi từ những tiêu chuẩn y
khoa/ răng miệng truyền thống sang đánh giá và quan tâm tới những vấn đề
về xã hội, cảm xúc, tinh thần và thể chất trong việc xác định mục tiêu và kết
quả điều trị bệnh. Những nghiên cứu trong y khoa nói chung và nha khoa nói
riêng về SK – CLCS ngày càng được quan tâm hơn vì những lý do như: (1)
Vai trò của bệnh nhân đang ngày càng trở nên tích cực hơn trong việc điều trị,
(2) sự cần thiết của bằng chứng về nâng cao CLCS trở thành cơ sở cho những


21

tiếp cận trong thực hành y khoa. (3) trên thực tế, nhiều trường hợp điều trị cho
các bệnh mạn tính gặp thất bại, do đó việc đánh giá CLCS của bệnh nhân trở
thành một biến đầu ra có giá trị [73].

Cuối cùng, SKRM – CLCS quan trọng vì những tác động của nó tới sự
khác biệt trong tiếp cận và chăm sóc sức khỏe răng miệng. Những chênh lệch
về tình trạng sức khỏe răng miệng giữa các quốc gia, chủng tộc, các nền kinh
tế khác nhau đang là một vấn đề xã hội rất đáng lo ngại [74]. Sự chệch lệch
này có thể được giải thích do sự hạn chế về tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe. Tại các nước đang phát triển, chăm sóc nha khoa thường chỉ dừng ở
mức tối thiểu. Trong khi đó, ở các quốc gia phát triển, đôi khi việc điều trị bị
hạn chế do chi phí đắt đỏ và khó khăn trong việc di chuyển. Vì vậy, việc đánh
giá SKRM – CLCS rất có ý nghĩa trong việc đo lường sự ảnh hưởng của
những khác biệt về SKRM tới sức khỏe toàn thân cũng như CLCS.
1.3.4. Các phương pháp đánh giá SKRM – CLCS ở trẻ em
Để đánh giá SKRM – CLCS, có hai loại, đó là thang đo tổng quát và bộ
câu hỏi nhiều mục.
Thang đo tổng quát về SKRM – CLCS hay thang đo một chỉ báo, là
phương pháp đánh đánh giá dựa trên câu trả lời của cá nhân cho một câu hỏi
duy nhất. Câu trả lời đơn giản và phương pháp này có thể áp dụng cho tất cả
các phạm trù trong xã hội. Câu trả lời thực hiện chung chung, trên năm thang
điểm khác nhau, từ “hoàn toàn không đồng ý” tới “hoàn toàn đồng ý”. Theo
như phương pháp này, câu trả lời sẽ rất khác nhau vì mỗi người có những tiêu
chuẩn riêng về SKRM. Một người có thể cho rằng SKRM của mình tốt vì họ
không có đau răng, người khác lại cho rằng không bị nhổ răng là có SKRM
tốt. Đây là phương pháp đơn giản, có khả năng áp dụng rộng rãi, trong các
khảo sát quốc gia và các chương trình sức khỏe răng miệng cộng đồng [75].


22

Bộ câu hỏi nhiều mục đánh giá SKRM – CLCS dựa trên câu trả lời cho
nhiều câu hỏi trong một bộ câu hỏi. Các câu hỏi về nhiều khía cạnh cụ thể
trong SKRM – CLCS. Như các câu hỏi về cảm giác đau/ khó chịu, câu hỏi về

tinh thần, về sự hài lòng của bản thân…Vì vậy, phương pháp này có tính toàn
diện và được sử dụng rộng rãi hơn, áp dụng trong cả nghiên cứu dịch tễ lẫn
thực hành lâm sàng với mục đích: xác định vấn đề sức khỏe ưu tiên, hỗ trợ
các quyết định lâm sàng, giám sát các thay đổi/ đáp ứng điều trị [75].
Trong hơn 30 năm qua, thang đo SKRM – CLCS đã được sử dụng
trong rất nhiều nghiên cứu dịch tễ vì những đo lường đơn thuần về mặt lâm
sàng không thể phản ánh một cách đầy đủ những ảnh hưởng của các rối loạn
sức khỏe răng miệng [76]. Những thang đo này đã được thiết kế và thử
nghiệm trên các cộng đồng dân cư khác nhau nhằm xây dựng nên một bộ
công cụ có sự hài hòa giữa đối tượng nghiên cứu và mục tiêu của việc đo
lường. Hiện nay, bên cạnh những rất nhiều thang đo SKRM – CLCS dành cho
người trưởng thành đang được sử dụng rộng rãi như OHIP (Oral Health
Impact Profile), GOHAI (General Oral Health Assesment Index).. đã có
những bộ công cụ được thiết kế riêng cho trẻ em và các bậc phụ huynh để
đánh giá những vấn đề liên quan tới SKRM – CLCS trên trẻ em.
Broder dựa trên OHIP đã xây dựng một phiên bản để đánh giá SKRM
– CLCS cho trẻ em là COHIP (Child Oral Health Impact Profile). Bộ công cụ
này dành cho cả phụ huynh và trẻ em, đánh giá cả mặt tích cực và tiêu cực
của SKRM tác động tới CLCS, được coi như người khai phá lĩnh vực đánh
giá CLCS trên trẻ em [77].
Một bộ công cụ khác, OIDP (Oral Impact on Daily Performance ) được
phát triển ở Thái Lan, gồm 8 mục để đánh giá ảnh hưởng của SKRM lên khả
năng thực hiện các hoạt động hàng ngày của trẻ trên cả phương diện thể chất,
tinh thần và xã hội. Dựa trên bộ câu hỏi OIDP, Guerunpong đã phát triển bộ
câu hỏi dành riêng cho trẻ lứa tuổi 11 – 12 [78].


23

Một số bộ công cụ khác đang được sử dụng rộng rãi như Child Oral

Health Quality of Life (COHQoL) và Early Child Oral Health Impact Scale
(ECOHIS), cả COHQoL và ECOHIS đều được xây dựng dựa trên mẫu hình
của Locker [68]. COHQoL gồm những câu hỏi phù hợp với trẻ 6 – 14 tuổi,
mục đích để đánh giá quan điểm của trẻ về chính sức khỏe răng miệng của
mình (Child Perception Questionaire - CPQ) và quan điểm của phụ huynh về
ảnh hưởng của những rối loạn về SKRM tới CLCS của trẻ (Parent Perception
Questionaire - PPQ). ECOHIS gồm những câu hỏi ban đầu của COHQoL đã
được thử nghiệm và giữ lại những câu được nhận thấy phù hợp với trẻ 2 – 5
tuổi. Thang ECOHIS dành cho cả trẻ em và thành viên khác trong gia đình,
được thiết kế để đánh giá ảnh hưởng của sức khỏe răng miệng và những điều
trị nha khoa lên chất lượng cuộc sống của trẻ và gia đình.
Bảng 1.2. Tóm tắt đặc điểm một số bộ công cụ đánh giá ảnh hưởng của SKRM
– CLCS trên trẻ em
Thang đo

Quốc gia

Tuổi

Số câu hỏi

Lĩnh vực tác động
Triệu chứng về răng miệng,

COHIP

Hoa Kỳ

8 - 14


34

chức năng, cảm xúc, sự coi
trọng bản thân
Những hoạt động hàng ngày

Child-OIDP Thái Lan

11- 12

8

về thể chất – tinh thần – xã
hội
Các hoạt động, kinh tế, sự

COHQoL

Canada

CPQ11 - 14

New
Zealand

ECOHIS

Hoa Kỳ

MOHRQoL


Hoa Kỳ

6 - 14

14

xung đột trong gia đình,

cảm xúc của phụ huynh
37 (có cả Triệu chứng về răng miệng,
11- 14 phiên bản 8 giới hạn chức năng, trạng thái
và 16)
cảm xúc, quan hệ xã hội
Phụ huynh (4) Chức năng, tâm lý, trạng
2-5
Trẻ (9)
thái xã hội
2- 5
Phụ huynh Cảm giác đau, chức năng,
(10)
sinh hoạt, tinh thần, thẩm


24

Trẻ (23)

mỹ


Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng thang đo MOHRQoL
(Michigan Oral Health – Related Quality of Life) được thiết kế bởi giáo sư
Inglehart từ Đại học Michigan. Ban đầu, thang đo MOHRQoL được xây dựng
để đánh giá SKRM – CLCS ở trẻ từ 4 tuổi trở lên. Thang đo gốc gồm 7 câu
hỏi về 3 vấn đề: cảm giác đau/ khó chịu (“Bây giờ cháu có đang bị đau răng
không?” “Hôm qua cháu có đau răng không?” “ những lúc ăn thức ăn nóng
hoặc lạnh cháu có đau răng không?”); chức năng (“cháu có thấy đau khi nhai
không?” “cháu có thấy đau khi cắn không?”), ảnh hưởng tinh thần (“cháu có
vui với hàm răng của mình không?” “cháu có nụ cười đẹp không?”). Kết quả
từ một nghiên cứu thử nghiệm trên 203 trẻ em tuổi từ 4 tới 16 cho thấy 183
trẻ có thể trả lời những câu hỏi này. Độ tin cậy của thang MOHRQoL là 0,54,
các câu hỏi có độ hiệu lực rõ ràng [79].
Với mục đích sử dụng cho trẻ lứa tuổi nhỏ hơn, để đánh giá khả năng
trả lời câu hỏi của trẻ, bộ câu hỏi MOHRQoL được bổ sung thêm 2 câu hỏi
mở đầu. (“ năm nay cháu bao nhiêu tuổi?” và “ cháu có biết nha sĩ làm công
việc gì không?”). Chỉ khi trẻ trả lời cả 2 câu hỏi này một cách rõ ràng, người
phỏng vấn mới tiếp tục hỏi trẻ những câu hỏi sau.
Bên cạnh bộ câu hỏi dành cho trẻ, tác giả cũng xây dựng bộ câu hỏi
dành cho phụ huynh. Thang câu hỏi cho phụ huynh được sử dụng khi trẻ quá
nhỏ để tự trả lời câu hỏi hoặc trẻ có những vấn đề sức khỏe đặc biệt không thể
trả lời câu hỏi trực tiếp. Bên cạnh đó, bộ câu hỏi này còn có giá trị ở khả năng
đánh giá nhận thức của phụ huynh về sự sút giảm SKRM – CLCS ở trẻ [8].
Thêm nữa, sử dụng thang đo MOHRQoL – P, có thể giúp người nghiên cứu
tìm hiểu xem trẻ và phụ huynh có cùng đồng ý về vấn đề được hỏi hay không.
Một ưu điểm nữa của bộ câu hỏi này là khi được hỏi về vấn đề SKRM –
CLCS của con, phụ huynh sẽ có sự lưu tâm hơn về tầm quan trọng của SKRM


25


với CLCS của con mình [80].
Bảng 1.3. Thang MOHRQoL – bộ câu hỏi dành cho trẻ em [8]
Câu hỏi mở đầu
Cháu bao nhiêu tuổi?
Cháu có biết nha sĩ (bác sĩ răng) thường làm việc gì không?
Tiếp tục với thang đo MOHRQoL nếu trẻ trả lời rõ ràng cả hai câu hỏi trên
Phần phỏng vấn trẻ về răng miệng của trẻ
a. Bây giờ cháu có đang bị đau răng không?



Không

b. Những lúc ăn thức ăn nóng hoặc lạnh cháu có





Không □

đau răng không?
c. Những lúc ăn bánh hay kẹo cháu có đau răng




Không □

không?

d. Cháu có bị đau khi nhai hoặc cắn không?




Không □

e. Cháu có bị đau khi há miệng to không?




Không □

f.

Cháu có nghe thấy tiếng ồn (lục cục) ở đây (chỉ




Không □

vào vùng khớp thái dương hàm) khi cháu há



miệng to rồi ngậm lại không?
g. Cháu có bị đau bên mặt nào khi cháu nhai thức




Không □

ăn cứng hoặc dai không?
h. Đã lần nào trong đêm khi đang ngủ cháu bị thức




Không □

i.

dậy vì đau răng không?
Đã lần nào cháu phải ngừng chơi (đồ chơi, trò




Không □

j.

chơi…) vì đau răng không?
Cháu có bao giờ bị đau răng khi đang ở trường





Không □

không?
k. Cháu có bao giờ đang ở trường bị đau răng mà




Không □

phải về nhà không?
Ở trường cháu có khi nào không học được vì bị




Không □

đau răng không?



l.


×