Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.76 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC HUẾ

BÁO CÁO MÔN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ 1
CHỦ ĐỀ

CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ
Thực hiện: NHÓM 12

Giáo viên hướng dẫn: Trần Thị Khánh Trâm
Nhóm Tài chính tiền tệ 1 (N01)


MỤC LỤC
I.PHẦN MỞ ĐẦU
II.NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1.Tổng quan về các công cụ của chính sách tiền tệ
2.1.1.Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ
2.1.2.Đặc trưng của chính sách tiền tệ
2.1.3.Mục tiêu của chính sách tiền tệ
2.2.Thực trạng các công cụ của chính sách tiền tệ
2.2.1.Chính sách chiết khấu, tái chiết khấu
2.2.2.Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
2.2.3.Nghiệp vụ thị trường mở
2.2.4.Quản lý hạn mức tín dụng
2.2.5.Quản lý lãi suất
2.2.6.tỷ giá hối đoái
2.3.Nhận xét chung về các công cụ của chính sách tiền tệ
2.3.1.Đánh giá về các công cụ của chính sách tiền tệ
2.3.2.Một số giải pháp, kiến nghị
III. PHẦN KẾT LUẬN




I.PHẦN MỞ ĐẦU
Kinh tế thị trường về thực chất là một nền kinh tế có quan hệ mật thiết hay có thể gọi
đó là một nền kinh tế tiền tệ. Trong đó, chính sách tiền tệ luôn giữ một vai trò quan trọng,
đó là một trong những công cụ quản lí kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của nhà nước bên
cạnh các chính sách tài khóa, chính sách phân phối thu nhập, chính sách kinh tế đối
ngoại.
Như chúng ta đã biết, Ngân hàng Trung Ương là một cơ quan thuộc bộ máy nhà
nước, được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện chức năng quản lí nhà
nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định giá trị
đồng tiền, duy trì sự ổn định và an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Do đặc
thù như vậy, nên Ngân hàng Trung Ương nắm giữ một trong những công cụ quan trọng
nhất để quản lí nền kinh tế vĩ mô, đó là chính sách tiền tệ. Ngân hàng Trung Ương sử
dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay thắt chặt lại trong việc cung ứng tiền
tệ, để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc làm của quốc gia đến mức mong
muốn. Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất của Ngân hàng Trung Ương,
các hoạt động khác của Ngân hàng Trung Ương đều nhằm thực thi chính sách tiền tệ thật
tốt, để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Đối với những nước đang phát triển như Việt Nam
hiện nay, việc sử dụng chính sách tiền tệ một cách có hiệu quả là vô cùng quan trọng và
hoạt động này có tầm ảnh hưởng rất lớn đến con đường phát triển kinh tế của nước ta.
Vậy, việc nghiên cứu chính sách tiền tệ và các công cụ chủ yếu của chính sách này trong
giai đoạn hiện nay là rất cần thiết, đó cũng là lí do nhóm em lựa chọn đề tài này.
II.NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VỀ CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH
SÁCH TIỀN TỆ
2.1.Tổng quan về các công cụ của chính sách tiền tệ
2.1.1.Khái niêm, vị trí của chính sách tiền tệ
* Khái niệm chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó ngân hàng Trung ương sử
dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát các điều kiện tiền tệ của nền kinh tế

nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ, tạo nền tảng thúc đẩy sự tăng trườngu kinh tế và
duy trì các mục tiêu xã hội hợp lý.
1.Chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng: Là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền
trong nền kinh tế nhằm phân bổ một cách có hiệu quả các nguồn tài nguyên, thực hiện
các mục tiêu tăng trưởng, cân đối kinh tế, trên cơ sở đó ổn định giá trị đồng tiền.
2.Chính sách tiền tệ theo nghĩa hẹp: Là chính sách bảo đảm sao cho khối lượng tiền cung


ứng tăng thêm trong một năm tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế và chỉ số lạm phát
nhằm ổn định giá trị của đồng tiền, góp phần đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
3.Chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương:Là tổng thể tất cả các biện pháp, công cụ
mà NHTW sử dụng nhằm điều tiết khối lượng tiền tệ, tín dụng, ổn định tiền tệ, góp phần
đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
4.Chính sách tiền tệ quốc gia: Là tổng thể các biện pháp của Nhà nước pháp quyền nhằm
cung ứng đầy đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, trên cơ sở đó không ngừng
ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.
Dù quan niệm Chính sách tiền tệ theo nghĩa nào thì Chính sách tiền tệ đều nhằm mục tiêu
cuối cùng là ổn định tiền tệ, góp phần đạt được các mục tiêu của chính sách kinh tế.
Trong một khoảng thời gian nhất định, tuỳ theo điều kiện cụ thể của nền kinh tế, Chính
sách tiền tệ có thể được hoạch định theo hai hướng:
– Chính sách tiền tệ mở rộng: Theo hướng này, Chính sách tiền tệ nhằm tăng lượng tiền
cung ứng, khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh và tạo việc làm. Trong
trường hợp này, Chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái kinh tế và thất nghiệp.
– Chính sách tiền tệ thắt chặt: Theo hướng này, Chính sách tiền tệ nhằm giảm lượng tiền
cung ứng, hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá cao của nền kinh tế. Trường hợp
này, Chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát kìm hãm sự phát triển “quá nóng” của nền
kinh tế.
*Vị trí của chính sách tiền tệ
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một
trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông

tiền tệ. Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác: chính
sách tài khóa, chính sách thu nhập, chính sách đối ngoại,…
2.1.2.Đặc trưng của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là một bộ phận hữu cơ cấu thành chính sách tài chính của quốc
gia.
Mức độ tiền tệ hóa cao hay thấp còn thể hiện trình độ phát triển kinh tế của một
nước.Vì vậy tiền tệ đã trở thành một yếu tố rất quan trọng trong một nền kinh tế. Chính
sách tiền tệ là môt bộ phận trung tâm của các chính sách kinh tế - tài chính quốc gia.
Chính sách tiền tệ là công cụ thuộc tầm vĩ mô
Khối lượng tiền tệ là đối tượng mà một số NHTƯ xem là yếu tố cần tác động chính,
từ đó tác động đến lãi suất, đầu tư, ảnh hưởng đến lãi suất và lưu thông hàng hóa. Vì vậy,
chính sách tiền tệ là một chính sách thuộc tầm vĩ mô.
NHTƯ là người đề ra và vận hành chính sách tiền tệ
NHTƯ hướng đến thay đổi lượng tiền cung ứng và lưu thông sao cho phù hợp với
mục tiêu. Vì vậy, chủ thể nào cung ứng tiền thì chủ thể đó phải trực tiếp vạch ra chính
sách tiền tệ
2.1.3.Mục tiêu của chính sách tiền tệ


1.Ổn định giá trị đồng tiền
NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước
mình.Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên 2 mặt: Sức mua đối nội của đồng
tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại(tỷ giá của đồng
tiền nước mình so với ngoại tệ).Tuy vậy ,CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không
có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được,để có một
tỷ lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên.
2. Tạo công ăn việc làm
CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các
nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp
của nền kinh tế .Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát

tăng lên.
3. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính
sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn
định giá trị đồng bản tệ là rất quantrọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính
phủ. Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà.
*Mối quan hệ giữa các mục tiêu : Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không tách rời.
Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau
thậm chí triệt tiêu lẫn nhau.Vậyđể đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thìNHTW
trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
2.2.Thực trạng các công cụ của chính sách tiền tệ
2.2.1 Chính sách chiết khấu, tái chiết khấu:
a) Chiết khấu, tái chiết khấu giấy tờ có giá của các ngân hàng:
Là nghiệp vụ ngân hàng nhà nước mua ngắn hạn các giấy tờ có giá còn thời hạn thanh
toán, mà các giấy tờ có giá này đã được các ngân hàng giao dịch trên thị trường sơ cấp
hoặc mua lại trên thị trường thứ cấp
Ngân hàng nhà nước thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu của ngân hàng nhà
nước đối với các ngân hàng nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội và thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia
Căn cứ định hướng phát triển kinh tế- xã hội của Chính phủ và mục tiêu của chính sách
tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ, Thống đốc ngân hàng nhà nước quyết định lĩnh vực
ngân hàng nhà nước ưu tiên chiết khấu, tái chiết khấu cho các ngân hàng
b) Đối tượng áp dụng:
Ngân hàng nhà nước thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu với các ngân hàng
được thành lập và hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng
Các trường hợp không được ngân hàng nhà nước chấp nhận chiết khấu, gồm:
-Ngân hàng đã sử dụng hết hạn mức chiết khấu


-các giấy tờ có giá không đủ điều kiện theo quy định của Quy chế chiết khấu, tái chiết

khấu của ngân hàng nhà nước với các ngân hàng
-Giấy đề nghị chiết khấu gửi ngân hàng nhà nước có nội dung không phù hợp với quy
định, người ký không đúng thẩm quyền
c) Lãi suất chiết khấu:
Là lãi suất do ngân hàng nhà nước áp dụng để tính số tiền thanh toán khi thực hiện chiết
khấu giấy tờ có giá. Lãi suất chiết khấu do ngân hàng nhà nước xác định và công bố, phù
hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ
Từ 10/7/2017 theo văn bản 1424/QĐ-NHNN lãi xuất tái chiết khấu là 4,250%
d) Hình thức chiết khấu:
-Chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá: theo hình thức này, ngân hàng
nhà nước mua hẳn giấy tờ có giá của các ngân hàng theo giá chiết khấu
-Chiết khấu có kỳ hạn: ngân hàng nhà nước chiết khấu các giấy tờ có giá, đồng thời yêu
cầu ngân hàng cam kết mua lại toàn bộ giấy tờ có giá đã chiết khấu sau một thời gian
nhất định. Kỳ hạn chiết khấu tối đa là 91 ngày
e) Các loại giấy tờ có giá được chiết khấu:
-Tín phiếu kho bạc
-Trái phiếu kho bạc
-Tín phiếu ngân hàng nhà nước
-Các loại giấy tờ có giá khác được Thống đốc Ngân hàng nhà nước qui định trong từng
thời kỳ
f) Điều kiện để giấy tờ có giá được sử dụng trong giao dịch chiết khấu, tái chiết
khấu tại ngân hàng nhà nước:
Phải đầy đủ các điều kiện sau:
-Thuộc danh mục các giấy tờ có giá được sử dụng trong nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết
khấu giấy tờ có giá do Thống đốc ngân hàng nhà nước quy định
-Được phát hành bằng đồng Việt Nam (VNĐ) và có thể chuyển nhượng được
-Trường hợp chiết khấu toàn bộ thời hạn còn lại của giấy tờ có giá: Thời hạn còn lại tối
đa của giấy tờ có giá phải là 91 ngày
-Trường hợp chiết khấu có kỳ hạn: Thời hạn còn lại của giấy tờ có giá phải dài hơn thời
hạn ngân hàng nhà nước chiết khấu

g) Hạn mức chiết khấu:
Hạn mức chiết khấu được xác định theo quý, là số dư tối đa mà ngân hàng nhà nước thực
hiện chiết khấu đối với các giấy tờ có giá cho một ngân hàng tại mọi thời diểm trong quý
Căn cứ tổng hạn mức mức chiết khấu và mục tiêu ưu tiên đầu tư tín dụng trong từng thời
kỳ, ngân hàng nhà nước phân bố hạn mức chiết khấu đối với từng ngân hàng


Nhân hàng nhà nước chỉ công bố và thông báo hạn mức chiết khấu cho các ngân hàng có
đề nghị thông báo hạn mức chiết khấu gửi tới ngân hàng nhà nước đúng thời gian quy
định
2.2.2 Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
a. Khái niệm:
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng nhà nước về tỷ lệ giữa tiền mặt và
tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh
khoản
Theo quy chế dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ban hành theo quyết định số
581/QĐ-NHNN ngày 9/9/2003 của Thống đốc ngân hàng nhà nước “số tiền dự trữ bắt
buộc được gửi tại ngân hàng trung ương, không hưởng lãi, không được dùng để đầu tư,
cho vay và thông thường được tính theo một tỷ lệ nhất định trên tổng số tiển gửi của
khách hàng để đảm bảo sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Các ngân hàng có thể dự trữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhưng
không được phép dự trữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng
thương mại phải vay thêm tiền mặt để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
b. Tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
 Tác động đến vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng
Khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc thay đổi, nó trực tiếp tác dụng đến nguồn vốn khả dụng của mỗi
ngân hàng. Với tổng số tiền gửi huy động được, tỷ lệ dự trữ bắt buộc càng thấp thì phần
chênh lệch còn lại (vốn khả dụng của bản thân ngân hàng) càng cao, khả năng cho vay
của các ngân hàng càng lớn và ngược lại.
Bên cạnh đó, mỗi động tác cáp tín dụng cho một đối tượng nào đó thông qua chuyển

khoản ngân hàng (hoạt động này mở ra một nguồn vốn mới cho một ngân hàng kế tiếp)
sự tiếp tục của quá trình này chính là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng làm cho
tổng nguồn vốn có thể cho vay của toàn hệ thóng được nhân lên nhiều lần so với số tiền
gửi ban đầu, mức độ được nhân lên chính là hệ số nhân tiền
Qua đó cho thấy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc có quan hệ chặt chẽ với nguồn vốn khả dụng của
ngân hàng. Tuy nhiên, vốn khả dụng chỉ thể hiện được tiềm năng tín dụng, còn thực sự có
làm cho khối lượng tín dụng tăng lên hay không lại phụ thuộc vào thái độ sẵn sàng cấp
tín dụng của các ngân hàng và nhu cầu tín dụng của nền kinh tế
 Tác động đến lãi suất thị trường tiền
Dự trữ bắt buộc có thể tác động đến lãi suất bằng 2 cách
C1:do dự trữ bắt buộc có thể mở rộng hay thu hẹp tiềm năng tín dụng cho nên lãi suất thị
trường cũng vì thế mà có thể giảm xuống hoặc tăng lên
C2: hiệu ứng của tác động trên càng tăng lên khi phần dự trữ bắt buộc của các ngân hàng
ở ngân hàng nhà nước không được tính lãi. Khi dự trữ bắt buộc tăng lên thì lãi thu được
từ hoạt động cho vay giảm xuống làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng thương mại
c. Phương pháp tính dự trữ bắt buộc:


 Nguyên tắc dự trữ bắt buộc
-Số dư bình quân tài khoản tiền gửi thanh toán của tổ chức tín dụng tại
ngân hàng nhà nước không thấp hơn tiền dự trữ bắt buộc trong kỳ
-Số dư tài khoản tiền gử thanh toán của tổ chức tín dụng tại ngân hàng
nhà nước hàng ngày trong kỳ duy trì dự trữ bắt buộc có thể thấp hơn
hoặc cao hơn tiền dự trữ bắt buộc của kỳ đó
 Xác định mức dự trữ bắt buộc
Mức dự trữ bắt buộc = tỷ lệ DTBB x số dư bình quân tài khoản thuộc đối tượng DTBB
kỳ xác định

d. Chức năng, vai trò của dự trữ bắt buộc
Chức năng ban đầu của dự trữ bắt buộc là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán trước nhu

cầu rút tiền mặt của khách hàng và do đó hạn chế rủi ro thanh khoản cho cả hệ thống. Tuy
nhiên ngày nay dự trữ bắt buộc còn chức năng và vai trò như sau:
 Bình ổn lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng
 Điều tiết vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng
 Kiểm soát tăng trưởng tiền tệ
 Tạo thu nhập cho ngân hàng nhà nước
e. Ưu, nhược điểm của công cụ dự trữ bắt buộc
 Ưu điểm:
-Dự trữ bắt buộc tôn trọng sự cạnh tranh giữa các ngân hàng vì nó được áp dụng
không phân biệt với những ngân hàng có điều kiện kinh doanh như nhau
-Ngân hàng nhà nước chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng thông qua
việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc
-Dự trữ bắt buộc là công cụ đầy quyền lực của ngân hàng nhà nước, tác động
nhanh và mạnh đến lượng tiền cung ứng. Bởi lẽ chỉ cần một sự thay đổi nhỏ về tỷ
lệ dự trữ bắt buộc thì mức dự trữ dư thừa và lãi suất cho vay đối với nền kinh tế sẽ
thay đổi và dẫn đến thay đổi theo cấp số nhân của khối lượng tiền cung ứng
-Ngoài ra, dự trữ bắt buộc còn được sử dụng để thiết lập mối quan hệ giữa việc tạo
tiền của hệ thống ngân hàng với nhu cầu tái cấp vốn tại ngân hàng nhà nước vì
bằng việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc các ngân hàng phải tìm đến nguồn vốn từ ngân
hàng nhà nước
 Nhược điểm:
-Do dự trữ bắt buộc là công cụ quyền lực mạnh nên nó thiếu tính linh hoạt. Vì chỉ
cần một sự thay đổi dù lớn hay nhỏ về tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng gây ảnh hưởng
đến hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng


-Có thể khiến cho một số ngân hàng có dự trữ vượt mức quá thấp rơi vào tình
trạng mức “khả năng thanh toán ngay”. Đồng thời, việc thay đổi thường xuyên tỷ
lệ dự trữ bắt buộc khiến cho các ngân hàng rơi vào tình trạng bất ổn trong việc
quản lý thanh khoản, làm phát sinh tăng chi phí.

-Ngân hàng nhà nước sẽ khó thực hiện những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ
-Dự trữ bắt buộc còn được coi là một vô hình đối với các ngân hàng thương mại vì
các ngân hàng phải giữ lại một bộ phận tiền gửi cho yêu cầu dự trữ bắt buộc mà
không được sử dụng đểkiếm lời trong khi vẫn phải trả lãi huy động cho bộ phận
này
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc hiện nay

Loại TCTD

Các NHTM Nhà nước
(không
bao
gồm
NHNN&PTNT), NHTMCP
đô thị, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, ngân hàng liên
doanh, công ty tài chính,
công ty cho thuê tài chính
Ngân hàng nông nghiệp và
phát tiển nông thôn
NHTMCP nông thôn, ngân
hàng hợp tác, quỹ tín dụng
nhân dân Trung ương
TCTD có số dư tiền gửi
phải tính dự trữ bắt buộc
dưới 500 triệu đồng,
QTDND cơ sở, ngân hàng
chính sách xã hội

Tiền gửi VNĐ

Không kỳ
Từ
hạn

tháng
dưới
12
lên
tháng

Tiền gửi ngoại tệ
Không kỳ
12
Từ 12
hạn

trở
tháng trở
dưới
12
lên
tháng

3%

1%

8%

6%


1%

1%

7%

5%

1%

1%

7%

5%

0%

0%

0%

0%

2.2.3.Nghiệp vụ thị trường mở
a. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động ngân hàng trung ương mua vào hoặc bán ra
những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường. Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ
có giá, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của các tổ chức

tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung ứng tiền tệ và tác động gián tiếp đến lãi suất thị
trường.


b. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
- Tác động về mặt lượng- tác động vào dự trữ hệ thống ngân hang
Hành vi mua bán GTCG trên thị trường mở của NHTW có khả năng tác động ngay lập
tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua ảnh hưởng tiền của các ngân hàng tại
NHTW ( nếu các NHTM là đối tác tham gia OMO) và tiền gửi của khách hang tại hệ
thống ngân hang (nếu các khách hang là đối tác tham gia OMO)
Sơ đồ: Cơ chế tác động của OMO đến dự trữ ngân hàng
NHTM
bán
GTCG

-

Dự trữ
NH
giảm

Dự trữ
mở rộng
cho vay

Khối
lượng
TD giảm

MS

giảm

-Tác động về mặt giá – tác động qua lãi suất
Hành vi mua GTCG của NHTM trên thị trường mở có thể ảnh hưởng gián tiếp đến mức
lãi suất thị trường thông qua hai con đường sau:
Thứ nhất: khi dự trữ của ngân hàng bị ảnh hưởng sẽ tác động đến cung cầu vốn NHTW
trên thị trường tiền tệ lên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung ương thay đối sẽ
dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Tại một mức lãi suất thị trường xác định
tổng cầu AD của nền kinh tế, và do đó tốc độ tang trưởng kinh tế sẽ được quyết định:
Thứ hai: việc mua bán GTCG sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại
GTCG trên thị trường và giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi tỉ lệ sinh lời của
chúng cũng thay đổi. Nếu khối lượng chứng khoán này chiếm tỉ trọng lớn trong các giao
dịch trên tị trường tài chính thì sự thay đổi tỉ lệ sinh lời của nó sẽ tác động trở lại lãi suất
thị trường vì thế mà tác động đến tổng cầu AD và sản lượng.
Sơ đồ: cơ chế tác động của OMO qua lãi suất
Cung TPKB tăng

Giá TPKB giảm

LS thị trường tăng
Đầu tư giảm

NHTW bán TPKB

Dự trữ ngân hàng
giảm

Cung của quý cho
vay


LS ngắn hạn

LS thị trường tăng

c. Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
- Các nghiệp vụ thị trường mở: có hai loại nghiệp vụ thị trường mở đó là nghiệp
vụ thị trường mở năng động nhằm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ. Và nghiệp vụ thứ
hai là nghiệp vụ thị trường thụ động nhằm bù lại những chuyển động của nhân tố khác tới
cơ số tiền tệ.
- Các loại giao dịch hoàn lại( hay các giao dịch mua bán hẳn): gồm các nghiệp vụ
mua bán GTCG của NHTW trên thị trường theo phương thức mua đất, bán đoạn trên cơ


sở giá thị trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu vì vậy ảnh
hưởng của nó đối với dự trữ của ngân hàng là dài hạn.
- Các giao dịch có hoàn lại(giao dịch có kì hạn): tồn tại dưới hai dạng. Thứ nhất
mua bán theo hợp đồng mua lại. Thứ hai mua bán theo hợp đồng đảo ngược.
- Nghiệp vụ giao dịch ngoại tệ: trong nghiệp cụ này khi tham gia giao dịch NHTW
kí hai hợp đồng và lấy ngoại tệ làm đối tượng trao đổi; hợp đồng 1 mua bán ngoại tệ với
tỷ giá giao ngay; hợp đồng 2 bán hoặc mua ngoại tệ với tỷ giá có kì hạn.
d. Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở
Có hai phương thức giao dịch song phương và đấu thầu. Có hai loại đấu thầu: khối
lượng và lãi suất.
Phương thức giao dịch song phương:là phương thức mà NHTW với người giao
dịch giao dịch thẳng với nhau hoặc giao dịch thông qua nhà mô giới,đại lí chứng khoán
mà không mua bán thông qua hình thức đấu thầu.
Phương thức đấu thầu: + Đấu thầu khối lượng:là phương thức đấu thầu với lãi suất
được NHTW công bố trước. NHTW công bố khối lượng tiền cần mua hoặc cần bán bằng
phương thức đấu thầu và ấn định mức lãi suất.
+ Đấu thầu lãi suất:các thành viên tham gia tự đăng kí số tiền ứng với mỗi mức

lãi suất do tự mình lựa chọn.
e. Hàng hóa của nghiệp vụ thị trường mở
- Tín phiếu kho bạc(TB)
- Chứng chỉ tiền gửi(CD)
- Thương phiếu(CP)
- Trái phiếu chính phủ
- Trái phiếu chính quyền địa phương
- Các hợp đồng mua lại
f. Những bên tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở
- Các NHTM
- Các tổ chức tài chính phi ngân hàng
- Các doanh nghiệp sản suất kinh doanh lớn
- Các hộ gia đình
- Các nhà giao dịch chuyên nghiệp
- NHTW
- Kho bạc nhà nước
* Thực trạng phát triển nghiệp vụ thị trường mở tại Việt Nam
OMO được xem là còn khá mới ở Việt Nam để NHNN điều hành chính sách tiền
tệ. Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào tháng 7 năm 2000. OMO đang dần trở
thành kênh chủ đạo để NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông góp
phần quan trọng trong điều hòa vốn khả dụng của các NHTM. Thực tiễn điều hành OMO
thời gian gần đây cho thấy, NHNN đã giúp các NHTM gia tăng lượng vốn khả dụng
thông qua việc điều hành thị trưởng mở theo hướng chủ yếu là chào mua GTCG với kì
hạn 7 ngày và 28 ngày. Sau một thời gian hoạt động, OMO đã đạt được những kết quả
như sau: Thứ nhất các cơ chế và quy trình OMO đã được không ngừng cải tiến và hoàn


thiện các GTCG được sử dụng trong OMO được mở rộng theo luật sửa đổi bổ sung một
số điều của luật NHNN năm 2003. Quy trình thanh toán từng bước được rút ngắn tần suất
giao dịch cũng được từng bước tăng cường. Thủ tục đấu thầu ngày càng được cải thiện.

Thứ hai OMO được kết hợp chặt chẽ và đồng bộ với các công cụ khác nhằm phát tín hiệu
điều hành CSTT và thực hiện mục tiêu CSTT. Thứ ba kì hạn mua bán giấy tờ có giá ngắn
và chưa đa dạng điều này đã hạn chế sự lựa chọn về kì hạn của các thành viên thị trường
mặc dù nhu cầu về khối lượng và thời gian là khác nhau. Bên cạnh đó NHNN chỉ thực
hiện giao dịch theo một chiều nhất định.
Nguyên nhân: Thứ nhất: thị trường tiền tệ ở Việt Nam còn chưa thực sự phát triển
các kênh truyền dẫn tác động CSTT chưa hoàn thiện làm hạn chế hiệu quả các công cụ
CSTT. Thứ hai: cơ sở hạ tầng cho hoạt động OMO vẫn còn nhiều bất cập. Thứ ba: nhiều
TCTD vẫn chưa quan tâm và chưa nhận thức đầy đủ tính hiệu quả của công cụ này. Thứ
tư: hàng hóa của OMO chưa thực sự đa dạng.
Giải pháp:- Bổ sung thêm hàng hóa giao dịch trên thị trường mở
-Đa dạng hóa các kì hạn giao dịch và tiến tới giao dịch nhiều kì hạn trong một
phiên bản.
-Tăng tần suất giao dịch trên thị trường mở( hai phiên trên ngày)
-Cải tiến nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng
-Nâng cao năng lực cán bộ xây dựng và điều hành OMO
-Mở rộng các thành viên và công nhận chữ kí điện tử trên OMO
2.2.4.Quản lý hạn mức tín dụng
* Khái niệm :
Là việc NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG quy định tổng mức dư nợ của các NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI không được vượt quá một lượng nào đó trong một thời gian nhất
định (một năm) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình.Việc định ra hạn
mức tín dụng cho toàn nền kinh tế dựa trên cơ sở là các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (tốc độ tăng
trưởng, lạm phát tiêu thụ..)sau đó NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG sẽ phân bổ cho các
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI và NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI không thể cho vay
vượt quá hạn mức do NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG quy định .
* Cơ chế tác động:
Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng, việc
quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với
qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.

* Đặc điểm:
Giúp NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG điều chỉnh ,kiểm soát được lượng tiền cung
ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao
trong những giai đoạn phát triển quá nóng,btỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế. Song
nhược điểm của nó rất lớn: triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI, làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nền kinh tế, dễ phát sinh nhiều
hình thức tín dụng ngoàI sự kiểm soát của NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG và nó sẽ trở
nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .
*Việc sử dụng công cụ quản lý hạn mức tín dụng trong những năm qua


Đây là công cụ được coi là cần thiết ở Việt Nam trong những năm đầu của thời kỳ
đổi mới hiệu quả của nó đã thể hiện trong việc chống lạm phát: Những năm 1990-1991
do lạm phát còn ở tỷ lệ cao (67,6%/tháng). Để khống chế lạm phát Ngân hàng Nhà nước
chủ trương thi hành chính sách tiền tệ thắt chặt ngay từ đầu năm để giảm bớt lượng tiền
cung ứng. Dựa trên một số chỉ tiêu vĩ mô dự kiến năm 1992 là: tăng trưởng kinh tế
(4,5%); chỉ số lạm phát (30%/năm) Ngân hàng Nhà nước đưa ra hạn mức tín dụng đối
với tất cả hệ thống Ngân hàng Trung ương là 34,5% (mức tăng so với năm trước). Bằng
nhiều biện pháp kết hợp, năm đó chúng ta đã đạt được kết quả thực tế khả quan, mức tăng
trưởng kinh tế tăng gấp 2 lần so với dự kiến (8,65%), mức lạm phát thấp hơn dự kiến rất
nhiều (17,6%), tiền tệ đi dần vào ổn định.
Ở thời kỳ đầu công cụ hạn mức tín dụng chỉ áp dụng cho 4 NHTMQD (NH Công
thương, NH Ngoại thương, NH Nông nghiệp, NH Đầu tư phát triển) nhưng sau vài năm
đổi mới do quy mô mở rộng tín dụng của các NHTM quá nhanh, số lượng NHTM ngày
càng nhiều nên NHNN quyết định áp dụng hạn mức tín dụng cho hầu hết các NHTM.
Tính đến cuối năm 1997 có 26 NHTM trong nước phải áp dụng hạn mức tín dụng còn các
NH nước ngoài và các NH liên doanh tuy chiếm thị phần tín dụng đáng kể (10-15% thị
trường tín dụng trong nước) nhưng vẫn chưa phải áp dụng hạn mức tín dụng.
Những năm sau đó từ 1995-1997 NHNN vẫn tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ thắt
chặt để kiểm soát lạm phát từ đó đưa ra tỷ lệ hạn mức tín dụng ở mức vừa phải cho các

NHTM. Song kết quả cho thấy hiện tượng phổ biến là hầu hết các NHTM đều cho xu
hướng vượt quá chi tiêu hạn mức tín dụng được giao, cụ thể:
Tình hình thực hiện hạn mức tín dụng 1995-1998

Năm
Danh
mục
Tăng so
với
năm
trước

1995
KH
giao
21%

Thực
hiện
37,8%

1996
KH
giao
25%

Thực
hiện
29%


1997
KH
giao
21%

Thực
hiện
26,4%

1998
KH
giao
4%

Thực
hiện
4,8%

Hiện tượng trên xuất phát từ 2 nguyên nhân cơ bản sau:
Thứ nhất, tốc độ huy động vốn nhàn rỗi bình quân hằng năm của các NHTM tăng nhanh
(khoảng 26% đến 37% năm) vì vậy các NHTM tất yếu phải thực hiện đầu tư tăng trưởng
tín dụng đối với nền kinh tế vì con đường để đầu tư qua thị trưởng tiền tệ, thị trường vốn
là khó khăn đối với chúng ta lúc bấy giờ.
Thứ hai, do diễn biến lãi suất đang có xu hướng giảm trần lãi suất cho vay, trong khi đó
để huy động nguồn vốn nhàn rỗi các NHTM phải tăng lãi suất huy động (do tâm lý người
dân không muốn gửi), điều đó làm cho chênh lệch giữa lãi suất cho vay với lãi suất huy
động giao động ở mức 0,15% đến 0,25% tháng, thấp hơn so với trước đây 0,35 đến


0,45% tháng. Với chênh lệch như vậy để đảm bảo hoạt động kinh doanh đủ bù đắp chi

phí hoạt động thì buộc các NHTM phải tăng dư nợ đối với nền kinh tế.
Hiện tượng trên cũng góp phần giải thích tại sao trong những năm 1995-1997 mặc
dù lạm phát được kiềm chế ở mức thấp (bình quân 6,9% năm) nhưng nền kinh tế vẫn đạt
tốc độ tăng trưởng cao 9,28% năm.
Tuy nhiên từ năm 1998 đến nay, công cụ hạn mức tín dụng đã mất dần vai trò của nó
trong việc hạn chế sự gia tăng của tổng phương tiện thanh toán vì lạm phát có xu hướng
giảm và thấp dần; mặc khác nhu cầu vốn của nền kinh tế ngày càng tăng và cần phải mở
rộng tín dụng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Do đó từ quý II/1998 NHNN đã
không áp dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên để điều hành chính sách tiền
tệ (mặc dù có thể coi nó như một giải pháp tình thế khi cần thiết).
Công cụ này sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn khi thị trường tiền tệ ổn định, thị trường vốn
phát triển và thị trường mở đi vào hoạt động có hiệu quả.
2.2.5.Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là tương quan giữa sức mua của đồng nội tệ và đồng ngoại tệ, hay có
thể nói là giá cả của đồng tiền này đo bằng một đồng tiền khác. Tỷ giá vừa phản ánh sức
mua của đồng nội tệ, vừa biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại tệ. Đến lượt mình, tỷ giá hối
đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, có tác động mạnh mẽ đến xuất
nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động nhạy
bén và mạnh mẽ đến sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hoá, tình trạng tài chính tiền tệ, cán
cân thanh toán quốc tế, vốn đầu tư và dự trữ của quốc gia.
Về thực chất thì tỷ giá không phải là công cụ chính sách tiền tệ bởi lẽ tỷ giá không
làm tăng giảm khối lượng tiền trong lưu thông, mà chỉ góp phần thay đổi cơ cấu khối
lượng tiền. Tuy nhiên tại nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có nền kinh tế đang phát
triển, có mức độ đôla hoá cao, thì tỷ giá được xem là một công cụ bổ trợ quan trọng cho
điều hành chính sách tiền tệ.
NHTW can thiệp vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ giá hối đoái bằng cách mua
hoặc bán một lượng ngoại tệ.
Khi tỷ giá giảm mạnh thì NHTW đưa tiền mặt ra mua ngoại tệ, dẫn đến giá trị ngoại
tệ lên cao, đồng bản tệ giảm giá trị làm cho tỷ giá được cải thiện, nhưng sẽ làm tăng
lượng tiền trong lưu thông.

Khi tỷ giá hối đoái tăng thì NHTW đưa ngoại tệ ra bán, dẫn đến giá trị ngoại tệ giảm,
làm cho tỷ giá được cải thiện nhưng sẽ làm giảm lượng tiền trong lưu thông.
Kết quả của sự can thiệp của NHTW vào thị trường hối đoái nhằm ổn định tỷ giá hối
đoái, để giữ vững sức mua đối ngoại của đồng tiền bản tệ sẽ làm cho tiền lưu thông tăng
lên hoặc giảm đi.
Ôn định sức mua đối ngoại của tiền tệ.
Trong nền kinh tế mở, xu hướng toàn cầu hóa của nền kinh tế-tài chính thế giới diễn


ra rất nhanh chóng và sâu sắc. Trước tình hình đó, các nước trên thế giới đều hướng về
các thị trường tài chính quốc tế để theo dõi sự biến động của các ngoại tệ mạnh, nhằm
tránh các tác động tiêu cực của các biến động trên thị trường tài chính, thông qua hệ
thống tỷ giá hối đoái. Một sự biến động của tỷ giá ít hay nhiều, đều ảnh hưởng hoạt động
kimh tế trong nước tùy theo mức độ hướng ngoại cuae nền kinh tế.
Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của dự trữ ngoại hối, thị trường hối đoái và
chính sách hối đoái, tình hình giá cả trong nước. Do đó, một chính sách tiền tệ nhằm ổn
định kinh tế trong nước, cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm ổn định tỷ giá hối
đoái.
Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động kinh tế của một nước, đặc biệt là
hoạt động xuất nhập khẩu.
Một tỷ giá hối đoái quá thấp (bản tệ có giá trị cao hơn ngoại tệ) có tác dụng khuyến
khích nhập khẩu, gây bất lợi cho xuất khẩu vì hàng hóa xuất khẩu quá đắt, khó bán cho
nước ngoài. Điều này sẽ khiến sản xuất trong nước hướng về xuất khẩu, gây bất lợi cho
những cuộc chuyển dịch ngoại tệ từ nước ngoài vào trong nước, làm cho khối lượng dự
trữ ngoại hối giảm.
Một tỷ giá hối đoái quá cao (bản tệ có giá trị thấp hơn so với ngoại tệ) sẽ gây bất lợi
cho nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu, hàng hóa xuất khẩu sẽ rẻ hơn để cạnh tranh trên
thị trường quốc tế. Nhờ vậy, khối lượng ngoại tệ có khuynh hướng chuyển vào trong
nước khá hơn, khối lượng dự trữ ngoại tệ có cơ hội tăng.
Nhiệm vụ của NHTW là sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để can thiệp giữ

cho tỷ giá hối đoái không tăng không giảm quá đáng kể, làm cân bằng các tình trạng bất
ổn định của nền kinh tế cả trong và ngoài nước.
2.2.6.Công cụ quản lý lãi suất
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa số lợi tức thu được so với tổng số cho vay.
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong điều
khiển mức cung ứng cho nền kinh tế, bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm
khối lượng tiền tệ trong lưu thông. Sự biến động của lãi suất có thể kích thích hoặc kìm
hãm sản xuất. Do vậy, lãi suất là một công cụ quan trọng của NHTW trong thực hiện
chính sách tiền tệ.
Để thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, NHTW thường điều chỉnh hạ lãi suất để kích
thích NHTM và tổ chức sử dụng tiền vay của NHTW để tăng cường tín dụng cho nền
kinh tế.
Để thực hiện chính sách tiền tệ hạn chế, NHTW điều chỉnh tăng lãi suất để hạn chế
quy mô tín dụng của các NHTM cho nền kinh tế.
Đây là công cụ linh hoạt được NHTW sự dụng để điều hành chính sách tiền tệ quốc
gia. Như vậy, để thực hiện chính sách tiền tệ như đã xây dựng. NHTW của các nước sử


dụng các công cụ trên để điều chỉnh tiền tệ quốc gia nhằm thực hiện các mục tiêu của
chính sách kinh tế đã định.
Ở Việt Nam hiện nay, NHNN Việt Nam công bố lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp
vốn và quy định lãi suất cơ bản, làm cơ sở cho các NHTM xác định lãi suất cho vay, từ
lãi suất này sẽ tác dụng điều chỉnh lãi xuất cho vay, lãi xuất chiếc khấu, lãi xuất tiền gửi
của các NHTM.
2.3.Nhận xét chung về các công cụ của chính sách tiền tệ
2.3.1.Đánh giá về các công cụ của chính sách tiền tệ
a.Kết quả đạt được
Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của
nhà nước. NHTW sử dụng chính sách tiền tệ nhằm điều chỉnh cung ứng tiền cho nền kinh
tế ổn định tiền tệ thúc đẩy tang trưởng kinh tế tạo việc làm.

-Trước năm 1999, là quá trình vừa đổi mới,vừa điều chỉnh hoạt động thích ứng với cơ chế
thị trường.Qúa trình phân phối của nguồn lực kinh tế đã từng bước căn bản sử dụng công
cụ tiền tệ thay cho công cụ hiện vật
-Đến hết năm 1999,căn bản khắc phục xong hiệu ứng trễ của cuộc khủng hoảng kinh tế
khu vực từ mức 9,2% năm 1998 xuống còn 0.1% năm 1999 tiếp đó là kiềm chế và kiểm
soát lạm phát( năm 2000 -0,6%; năm 2001 -0,2% đến năm 2004 là 9,5%)
-Bắt đầu từ năm 2000 đã đổi mới căn bản cơ chế điều hành tỉ giá hối đoán từ chổ công bố
tỉ giá chính thức theo tín hiệu thị trường với từng khoảng thời gian có hiệu lực tương đối
dài. Đẩy mạnh hơn quá trình tự do hóa lãi suất và đến tháng 6 năm 2002 đã thực hiện cơ
chế lãi suất thoải thuận và tự do hóa hoàn toàn lãi suất.
-Từ năm 2001 đến nay, xây dựng và phát triển mạnh mẽ đề án cơ cấu lại các NHTMNN
thành lập ngân hàng chính sách xã hội tách ra khỏi ngân hàng nhà nước đã căn bản cơ
cấu lại tài chính đẩy mạnh cơ cấu lại nghiệp vụ và tuến tới cơ cấu lại sở hữu.
b.Hạn chế
Công cụ tái cấp vốn: việc điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn đối với giá trị nội tệ không kịp
thời và chưa hợp lí dẫn đến xu hướng chuyển từ nội tệ sang ngoại tệ tăng nhanh. NHNN
chỉ chủ động được trong việc cung ứng vốn bị động trong việc thu hút vốn.
-Công cụ tỉ lệ dự trữ bắt buộc: không bám sát vào thực tế nên không tác dụng rõ rệt với
việc điều khiển lượng tiền cung ứng.
-Công cụ lãi suất: thụ động vốn của các NHTM
-Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: số phiên giao dịch ít; hàng hóa được mua bán không
nhiều; nghiệp vụ mua bán chủ yếu mua đứt bán đoạn, nghiệp vụ mua bán có kì hạn ít
được sử dụng.
2.3.2 Một số giải pháp, kiến nghị
Để giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong điều hành chính sách tiền tệ hiện nay, NHNN
cần thực hiện một số giải pháp sau:


Thứ nhất: Điều hành linh hoạt và đồng bộ công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát tiền tệ
hợp lý, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai: Điều hành chính sách lãi suất theo hướng giảm dần phù hợp với diễn biến kinh
tế vĩ mô, điều kiện thị trường tiền tệ để giảm lãi suất cho vay, tháo gỡ khó khăn chi phí
vay vốn của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Thứ ba: Xây dựng phương án và thực hiện linh hoạt các biện pháp kiểm soát tín dụng,
phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và tình hình hoạt động của các TCTD.
Thứ tư: Phối hợp với bộ, ngành, địa phương quyết kiệt triển khai nhiều giải pháp nhằm
tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp, người dân vay vốn ngân hàng một
cách hiệu quả.
Thứ năm: Tập trung các biện pháp xử lý và giảm nợ xấu.
Thứ sáu: Điều hành linh hoạt tỷ giá, thu hẹp phạm vi hoạt động ngoại hối kết hợp với xử
phạt nghiên các vi phạm trong hoạt động ngoại hối, góp phần ổn định thị trường ngoại
hối, hạn chế tình trạng đô la hóa, ổn định tỷ giá.
Thứ bảy: Tăng cường công tác thanh tra, giám soát hoạt động của các TCTD nhằm đảm
bảo an toàn hệ thống.
Thứ tám: Công tác báo cáo thống kê được củng cố đáp ứng nguồn thông tin, số liệu cho
công tác phân tích, dự báo phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành.
Thứ chín: Hoạt động thông tin, truyền thông được đổi mới, chủ động cung cấp thông tin
cho các cơ quan thông tin, báo chí về tiền tệ, hoạt động ngân hàng để định hướng dư luận
và tạo lòng tin cho doanh nghiệp, công chúng với các giải pháp của NHNN.
Bên cạnh đó, thời gian qua NHNN đã đưa ra 6 giải pháp quan trọng sau đây:
Tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường
NHNN đã ban hành Chỉ thị chỉ đạo toàn hệ thống tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và
đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2013 theo sát các chỉ đạo của Chính
phủ tạiNghị quyết số 01/NQ-CP ngày 7/01/2013 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều
hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm
2013 vàNghị quyết số 02/NQ-CP ngày 7/01/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn
cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.
Cụ thể, NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện các giải pháp tín dụng,
lãi suất đã triển khai trong năm 2012 để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ
thị trường, chuyển dịch cơ cấu tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu,

công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao.
Phối hợp với Bộ Xây dựng dự thảo Thông tư quy định chi tiết cho vay hỗ trợ nhà ở theo
Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ.
Triển khai Đề án cơ cấu lại các TCTD giai đoạn 2011-2015, khẩn trương hoàn thiện Đề
án xử lý nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng và Đề án thành lập Công ty quản lý tài
sản Việt Nam; quản lý chặt chẽ việc thành lập mới các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài và mở rộng mạng lưới của các TCTD theo hướng thận trọng hơn đảm bảo sự phát
triển an toàn, lành mạnh của hệ thống TCTD.
Định hướng tổng phương tiện thanh toán khoảng 14-16%, tín dụng tăng 12%


NHNN đưa ra định hướng điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, linh hoạt, gắn
kết chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm kiểm soát lạm phát thấp hơn, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế cao hơn năm 2012, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; sử dụng chủ động,
linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng, tổng
phương tiện thanh toán hợp lý, đáp ứng yêu cầu thanh toán của nền kinh tế; điều hành lãi
suất và tỷ giá phù hợp với diễn biến tiền tệ và các cân đối vĩ mô, đặc biệt là diễn biến lạm
phát.
Theo đó, NHNN đưa ra định hướng tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán tăng
khoảng14-16%, tín dụng tăng khoảng 12%, tùy theo diễn biến và tình hình thực tế điều
chỉnh phù hợp. Để kiểm soát tăng trưởng tín dụng theo định hướng 12% trong năm 2013,
NHNN tiếp tục thông báo tăng trưởng tín dụng cho từng TCTD để đảm bảo việc mở rộng
tín dụng đi đôi với việc đảm bảo chất lượng và an toàn tín dụng cũng như hoạt động của
TCTD.
Điều hòa lưu thông tiền mặt
NHNN tập trung đảm bảo công tác điều hòa lưu thông tiền mặt, đáp ứng khả năng thanh
toán, chi trả trong dịp TếtQuý Tỵ, triển khai tốt công tác an toàn kho quỹ. Trên cơ sở cơ
cấu mệnh giá trong lưu thông, NHNN đưa tiền ra lưu thông với cơ cấu hợp lý, đảm bảo
đáp ứng nhu cầu sử dụng của người dân; việc điều chuyển tiền mặt phục vụ Tết Quý Tỵ
đã được hoàn thành ngay trong tháng 01/2013. Công tác an toàn kho quỹ được triển khai

kịp thời, kỹ lưỡng đảm bảo an toàn tuyệt đối kho quỹ ngân hàng trước, trong và sau Tết.
Mua lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối
NHNN điều hành linh hoạt các kênh cung ứng tiền để kiểm soát tiền tệ hợp lý. Trong
điều kiện cung cầu ngoại tệ cải thiện, xu hướng găm giữ ngoại tệ giảm, NHNN đã mua
một lượng lớn ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, đồng thời ổn định tỷ giá (qua
đó không làm VND mạnh lên, gây khó khăn cho xuất khẩu); song song với mua ngoại tệ
giữ ổn định tỷ giá, NHNN tiếp tục thực hiện trung hòa lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ
thông qua nghiệp vụ phát hành tín phiếu NHNN, giảm áp lực cung tiền tới lạm phát. Bên
cạnh đó, NHNN cũng thực hiện thu nợ đối với các khoản cho vay tái cấp vốn đến hạn.
Điều hành linh hoạt qua thị trường mở
NHNN điều hành chủ yếu thông qua nghiệp vụ thị trường mở để hỗ trợ thanh khoản cho
các TCTD một cách nhanh nhạy và kịp thời, nhất là vào dịp giáp Tết Quý Tỵ khi nhu cầu
rút tiền của Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm xã hội thường tăng cao. Trong 2 tháng đầu
năm, NHNN chào mua giấy tờ có giá với khối lượng hợp lý, phù hợp với tình hình vốn
khả dụng của các TCTD; kỳ hạn 7 ngày và mở rộng lên cả kỳ hạn 14 ngày vào giáp Tết
để tránh đáo hạn ngay sau Tết. Nhờ vậy, thị trường diễn biến ổn định, thanh khoản hệ
thống đảm bảo, không còn là tác nhân gây ra xáo trộn về lãi suất thị trường.
Theo dõi sát tình hình lãi suất của TCTD
Về điều hành lãi suất, sau khi điều chỉnh giảm 1%/năm vào cuối năm 2012, NHNN giữ
nguyên lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng ở mức
10%/năm, lãi suất tái cấp vốn ở mức 9%/năm và lãi suất tái chiết khấu ở mức 7%/năm.
Ngoài ra, NHNN theo dõi sát và tăng cường giám sát tình hình chấp hành quy địnhlãi
suất tối đa đối với tiền gửi bằng VND của tổ chức, cá nhân tại các TCTD.


Một là, cần kiên định mục tiêu đã đặt ra.
Hai là sự phối kết hợp giữa các công cụ một cách đồng bộ, linh hoạt, đúng thời điểm, chủ
động dẫn dắt thị trường, nhờ đó đã nhận được sự đồng thuận và chia sẻ của các chuyên
gia trong việc tổ chức, sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ. NHNN lựa chọn
công cụ hiệu quả để sử dụng phù hợp trong thực tiễn

Ba là, trong điều hành chính sách tiền tệ không chủ quan với lạm phát, luôn nâng cao vị
thế của VND. Bên cạnh đó là sự kết hợp các công cụ của chính sách tiền tệ.
Bốn là, giải pháp điều hành tốt nhưng phải đi đôi với công tác thanh tra, giám sát.
Thứ năm, làm tốt công tác truyền thôn
III.PHẦN KẾT LUẬN
Sự phát triển các công cụ chính sách tiền tệ là một quá trình phức tạp thường đòi hỏi một
thời gian khá dài để hoàn thành. Nhưng các vấn đề liên quan đến chính sách tiền tệ hiếm
khi được giải quyết triệt để, đặc biệt đối với nền kinh tế đang trong quá trính chuyển đổi
như Việt Nam. Sự đan xen phức tạp của chính sách tiền tệ với các chính sách kinh tế vĩ
mô khác trong bối cảnh nền kinh tế đang khó khăn hơn trước có thể đưa đến những thay
đổi về ngắn hạn kèm theo những thỏa hiệp nhân nhượng tình thế trong điều hành chính
sách. Tuy nhiên về trung, dài hạn, mục tiêu cuối cùng và mục tiêu trung gian của chính
sách tiền tệ vẫn phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Đặc biệt là việc hoàn thiện chính sách
tiền tệ sẽ lệ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận và vận dụng hệ thống các công cụ thực thi
chính sách tiền tệ của NHNN, gắn liền với quá trình tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới, hiện đại
hóa công nghệ ngân hàng hiện nay.
Cùng với những khó khăn hiện nay, chính sách tiền tệ ở Việt Nam còn đứng trước
thử thách ngày càng gia tăng với nguy cơ tụt hậu trước một thế giới đang bước vào thời
kỳ tăng trưởng nhanh. Do đó, chính sách tiền tệ phải đảm bảo đạt được những ưu việt
nhất định để giải quyết mối tương quan giữa mục tiêu ổn định và tăng trưởng, xây dựng
một nền kinh tế phát triển cao, lâu bền.



×