Lời nói đầu
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô có tầm ảnh
hởng vô cùng quan trọng đến toàn bộ đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Thông
qua chính sách này, Ngân hàng trung ơng, Chính phủ chính sách thể đa ra các
biện pháp nhằm ổn định giá cả, tăng trởng kinh tế và cải thiện tình trạng công ăn
việc làm. Để chính sách tiền tệ phát huy một cách tối đa hiệu quả của nói, việc sử
dụng các công cụ của chính sách này hợp lý trong từng giai đoạn khác nhau của
quá trình phát triển kinh tế xã hội giữ vai trò chủ chốt.
Tuy nhiên trong khuôn khổ của một bài đề án môn học, em chỉ xin đề cấp
một vài nét về các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ - đặc biệt là hoạt
động trên thị trờng mở của Ngân hàng Trung ơng. Vì vậy trong quá trình trình
bày em mong đợc các thầy cô giáo cho những chỉ dẫn để em có thể hiểu sâu hơn
về vấn đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!.
1
Phần I: Giới thiệu chung
I. Chính sách tiền tệ.
Tiền tệ là một khái niệm dùng để chỉ những gì đợc chấp nhận làm môi giới
trung gian trong trao đổi và là phơng tiện thanh toán các khoản nợ. Từ khi ra đời
cho đến nay, tiền tệ đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế xã hội
của tất cả các quốc gia trên thế giới. Lịch sử phát triển của tiền tệ đã trải qua
nhiều hình thái khác nhau nhng tựu chung lại chúng có cùng một bản chất. Đi
kèm với quá trình hình thành và phát triển của tiền tệ hoạt động tài chính ngân
hàng cũng đã ra đời và phát triển không ngững và ngày càng khẳng định vai trò
không thể thiếu đợc của hoạt động tiền tệ. Ngày nay hệ thống ngân hàng và đặc
biệt là Ngân hàng Trung ơng thông qua một cơ chế điều chỉnh tiền tệ gọi là
chính sách tiền tệ đã có khả năng kiểm soát đợc các vấn đề về tiền tệ. Các nhà
kinh tế học cũng cha đa ra đợc một định nghĩa chính xác về thế nào là chính sách
tiền tệ, tuy nhiên chính sách tiền tệ cũng có thể đợc coi là những biện pháp mà
Ngân hàng Trung ơng, ngân hàng có quyền lực cao nhất trong toàn bộ hoạt động
ngân hàng và tài chính, sử dụng để đạt những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định.
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô để quản lý và điều
tiết lợng tiền cung ứng. Ngân hàng Trung ơng thông qua các công cụ của chính
sách tiền tệ để thực hiện chức năng là Ngân hàng quốc gia và quản lý vĩ mô của
mình.
Chính sách tiền tệ là một hệ thống bao gồm các công cụ trực tiếp và gián
tiếp nhằm tác động đến hệ thống mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của
chính sách tiền tệ đó là ổn định giá cả, tăng trởng kinh tế và công ăn việc làm đầy
đủ. ở Việt Nam sau hơn 10 năm đổi mới chuyển nền kinh tế từ quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trờng đã có những bớc tiến vô cùng quan trọng. Nói đến nền
kinh tế thị trờng tức là nói đến một hệ thống thị trờng đợc phát triển đầy đủ nh thị
2
trờng hàng hoá và dịch vụ, thị trờng công nghệ, thị trờng sức lao động, thị trờng
khoa học kỹ thuật công nghệ ... và đặc biệt là thị trờng tài chính và tiền tệ, một thị
trờng có ảnh hởng đến toàn bộ nền kinh tế, nó sẽ liên kết chặt chẽ các thị trờng
với nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ, bền vững. Ngân hàng Trung ơng và hệ
thống các ngân hàng sẽ tham gia vào việc đề ra những mục đích những biện pháp,
những công cụ hữu hiệu nhất để tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ phát huy hiệu
quả. Tiền tệ và lu thông tiền tệ đợc coi là những mạch máu của nền kinh tế, đó là
một thứ dầu bôi trơn để bộ máy kinh tế hoạt động thật hiệu quả. Chính vì những
lý do trên mà chính sách tiền tệ là một chính sách đặc biệt quan trọng. Vậy những
công cụ của chính sách tiền tệ là gì? Làm thế nào để đạt đợc những mục tiêu đã
đặt ra?
Để đạt đợc mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ những mục tiêu trung
gian đợc coi là những nấc thang đa dần dần tác động của Ngân hàng Trung ơng
thông quan hàng loạt các công cụ của chính sách này. Công cụ của chính sách
tiền tệ đợc phân ra làm hai loại: Công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp. Cả hai
công cụ này đều có đặc điểm chung đó là có thể tác động đến mục tiêu trung gian
và mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ. Đó là lãi suất, đó là khối lợng tiền
cung ứng, đó là khối lợng dự trữ bắt buộc đó là lãi suất trên thị trờng tiền tệ liên
ngân hàng tất cả các mục tiêu đó đều đợc lựa chọn vì chúng có u điểm là có thể
đo lợng đợc, có thể kiểm soát đợc và quan trọng hơn đó là chúng đều có mối liên
hệ chặt chẽ với mục tiêu cuối cùng. Hệ thống mục tiêu này bao gồm nhiều chỉ
tiêu khác nhau. Vì vậy để đạt đợc nó cần có những công cụ hỗ trợ đắc lực và hiệu
quả. Trong từng giai đoạn khác nhau của nền kinh tế có thể các mục tiêu này sẽ
tạm thời thay thế cho nhau. Vì vậy việc linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ sao cho phù hợp nhất với các mục tiêu là vô cùng quan
trọng và Ngân hàng Trung ơng sẽ là ngời ra quyết định cuối cùng đối với các
công cụ này. Hiện nay, công cụ trực tiếp và gián tiếp của chính sách tiền tệ đó là:
Hạn mức tín dụng, nghiệp vụ lãi chiết khấu, dự trữ bắt buộc và hoạt động của
3
Ngân hàng Trung ơng trên thị trờng tự do này còn gọi là nghiệp vụ thị trờng mở.
Trong điều kiện thế giới khi nền kinh tế thị trờng đã phát triển đa số các nớc tiên
tiến thờng sử dụng các công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy
nhiên, Việt Nam là một nớc mới chuyển sang nền kinh tế thị trờng, sự phát triển
của hệ thống thị trờng cha đợc đầy đủ và hoàn thiện vì vậy việc sử dụng các công
cụ này trong điều hành chính sách tiền tệ gặp nhiều khó khăn về khách quan cũng
nh chủ quan đặc biệt là trong giai đoạn giao thời nh hiện nay.
II. Công cụ của chính sách tiền tệ
1. Công cụ trực tiếp Hạn mức tín dụng
Công cụ của chính sách tiền tệ là các hoạt động đợc thực hiện trực tiếp bởi
Ngân hàng Trung ơng nhằm tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lợng tiền
trong lu thông và lãi suất. Hạn mức tín dụng là một loại công cụ trực tiếp đó là lãi
suất d nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ơng bắt buộc các tổ ch chính sách tín dụng
phải tôn trọng khi cấp tín dụng cho nền kinh tế đây là công cụ tác động trực tiếp
vào khối lợng tiền trong lu thông với công cụ này Ngân hàng Trung ơng có thể
kiểm soát đợc khối lợng tiền trong thời kỳ hoạt động tài chính đợc điều tiết chặt
chẽ, khi đó các công cụ gián tiếp cha có điều kiện để áp dụng. Trong trờng hợp
khẩn cấp với sức ép lạm phát tăng cao, lợng tiền cung ứng cần đợc khống chế trực
tiếp và ngay lập tức, Ngân hàng Trung ơng kiểm soát tất cả các khoản cho vay lớn
của các ngân hàng trung gian, hạn chế cho vay tiêu dùng, cho vay trả chậm, cho
vay cầm cố... Tuy nhiên, hạn mức tín dụng chỉ là một giải pháp mang tính chất
đối phó tình thế trớc những biến động trớc mắt. Hiệu quả điều tiết của công cụ
này không cao bởi tính chất hành chính và thiếu linh hoạt của nó. Bên cạnh đó
việc qui định hạn mức tín dụng đối với từng loại Ngân hàng trung gian là không
giống nhau, điều này tuỳ thuộc vào định hớng phát triển và mục tiêu điều hành
của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ vì vậy đôi khi tác dụng của nó lại đi ngợc
4
lại với chiếu hớng của thị trờng tín dụng làm cho mức lãi suất biến động bất lợi
cho hoạt động kinh tế, giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng trung gian và
các tổ chức tín dụng trong thị trờng.
Với những hạn chế nh vậy, Hạn mức tín dụng chỉ đợc các Ngân hàng
Trung ơng sử dụng khi cha có điều kiện để sử dụng các công cụ khác nh các công
cụ gián tiếp. ở Việt Nam hệ thống thị trờng tài chính tiền tệ cha phát triển vai trò
của các Ngân hàng Trung ơng vẫn còn bị hạn chế, mặt khác việc tự do hoá tài
chính tiền tệ luôn luôn vấp phải sự can thiệp và điều tiết của Chỉnh phủ. Vì vậy
hạn mức tín dụng đã từng là công cụ điều tiết có hiệu quả của Ngân hàng Trung -
ơng trong thời kỳ lạm phát. Trong điều kiện phát triển hiện nay, công cụ này ngày
càng tỏ rõ những mặt yếu kém do mức tín dụng đợc Ngân hàng Trung ơng đa ra
là không có căn cứ và sự lỏng lẻo trong công tác quản lý hạn mức này. Do đó,
công cụ trực tiếp sẽ dần dần đợc thay thế bằng các công cụ gián tiếp để chính
sách tiền tệ đợc thực thi một cách có hiệu quả.
2. Công cụ gián tiếp.
a. Dự trữ bắt buộc.
Nh chúng ta đã biết, hoạt động tài chính ngân hàng là một hoạt động vô
cùng cần thiết và quan trọng, đặc biệt trong nền kinh tế thế giới ngày càng phát
triển nh ngày nay. An toàn trong kinh doanh tiền tệ sẽ bảo đảm cho hoạt động này
đợc thông suốt. Để đảm bảo cho khả năng thanh khoản bảo đảm cho những rủi ro
bất thờng trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Ngân hàng Trung ơng đã qui
định bắt buộc với toàn bộ ngân hàng trung gian một khoản dự trữ gọi là dự trữ bắt
buộc dới dạng tiền gửi hoặc tiền mặt ở Ngân hàng Trung ơng. Mỗi ngân hàng
trung gian sẽ mở một tài khoản ở Ngân hàng Trung ơng, điều này có thể giúp cho
việc thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau giữa ngân hàng trung gian
và Ngân hàng Trung ơng, việc chi trả các khoản phí giao dịch ... Dự trữ bắt buộc
5
bị tác động trực tiếp bởi tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đây là tỷ lệ phần trăm tính trên tổng
sốd tiền các loại tại một thời gian nào đó. Dự trữ bắt buộc đợc sử dụng lần đầu
tiên ở Mỹ vào năm 1913, sau những cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài vào những
năm 30, nó dần dần đợc sử dụng phổ biến ở những nớc khác và lúc này Ngân
hàng Trung ơng đã nhận ra rằng dự trữ bắt buộc không chỉ có thể đảm bảo khả
năng thanh toán và an toàn cho các ngân hàng trung gian mà nó còn có thể là
công cụ để điều tiết trong nền kinh tế. Thông qua việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt
buộc Ngân hàng Trung ơng có thể tác động vào nguồn dự trữ, vốn khả dụng của
các ngân hàng và do vậy nó sẽ làm tăng hay giảm lợng tiền cung ứng trong lu
thông.
Mặc dù lịch sử ra đời của dự trữ bắt buộc là từ những năm đầu của thế kỷ
20, nhng ở nhiệm vụ mới chỉ bắt đầu làm quen với khái niệm này vào năm 1990.
Tháng 5/1990, sau khi hai Pháp lệnh ngân hàng đợc ban hành thì các ngân hàng
bắt đầu thực hiện qui chế dự trữ bắt buộc. Theo Pháp lệnh Ngân hàng nhà nớc
Việt Nam, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đợc tính trên số d tiền gửi của các tổ chức, các cá
nhân ở các ngân hàng, tuỳ theo từng thời kỳ khác nhau mà tỷ lệ này sẽ đợc qui
định khác nhau trong phạm vi từ 10 35%. Trong giới hạn này dự trữ bắt buộc
không đợc trả lãi, còn nếu vì một lý do nào đó và nhằm một mục đích nhất định,
thống đốc Ngân hàng nhà nớc có thể ra quyết định nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên
cao hơn 35%, phần chênh lệch lớn hơn 35% sẽ đợc ngân hàng nhà nớc trả lãi.
Trên thực tế tỷ lệ này thờng là 10%, tuy nhiên việc áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
cũng khác nhau trong từng thời kỳ và với từng loại tiền gửi khác nhau. Ví dụ nh từ
tháng 5/1990 đến tháng 3/1994 tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% cho tất cả các loại
tiền gửi nhng theo Quyết định 261 QĐ/NH1 ngày 19/09/1995, tỷ lệ 10% chỉ
áp dụng cho loại tiền gửi 12 tháng trở xuống. Giữa 2 thời kỳ này từ tháng 5/1994
đến tháng 9/1995 tỷ lệ dự trữ bắt buộc có sự phân biệt cho 2 loại tiền gửi có kỳ
hạn từ 1 năm trở xuống và tiền gửi không kỳ hạn
(1)
. Hay giả nh năm 1999 là năm
6
vô cùng khó khăn đối với nền kinh tế nớc ta, mặc dù sau
1
cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ ở châu á ( từ năm 1997) các nớc này đã có những dấu hiệu hồi phục
nhanh chóng, nhng Việt Nam lại rơi vào tình trạng kinh tế suy thoái. Để thực hiện
mục tiêu nới lỏng tiền tệ nhằm kích cầu tạo đà phát triển kinh tế, ngân hàng nhà
nớc đã thực hiện việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng 1999
(2)
Tổ chức tín dụng
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc (%)
1/1/99 1/3/99 1/6/9
9
1/7/99 1/10/99
1. NHTM quốc doanh, NHTMCP đô thị 10 7 6 6 5
Chi nhánh NH nớc ngoài, NH liên doanh và
công ty tài chính
NHNN và phát triển nông thôn Việt Nam 10 7 6 5 3
2. NHTMCP nông thôn, Ngân hàng hợp tác,
QTND trung ơng, QTDND khu vực
0 5 4 1 1
3. KTD có số d tiền gửi phải tính DTBB dới
500 triệu đồng, QTDN cơ sở, HTX tín dụng,
NH phục vụ ngời nghèo
0 0 0 0 0
Nh vậy rõ ràng công cụ dự trữ bắt buộc là công cụ ảnh hởng rất mạnh đến
lợng tiền cung ứng do vậy việc qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc dựa trên những cơ sở
và yếu tố nào để bảo đảm rằng tỷ lệ đó là thích hợp nhất. Trớc tiên điều đó phải
xuất phát từ mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu của chính sách tiền tệ sẽ
qui định mức độ cung ứng tiền, quy định cách quản lý điều tiết tiền, đây là yếu tố
quyết định nhất đến việc qui định này. Mục tiêu của chính sách tiền tệ trớc tiên sẽ
là điều chỉnh cơ cấu và khối lợng tiền trong lu thông sao cho hợp lý nhất và từ đó
cách quản lý tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tỷ lệ đó sẽ đợc xác định một cách tối u và
hiệu quả.
1
Tạp chí KH và đào tạo Ngân hàng số 3 ( 5+ 6/2000 )
2
7
Thứ đến đó là qui mô hoạt động của các tổ chức tín dụng khi sử dụng dự
trữ bắt buộc trong điều tiết của Ngân hàng Trung ơng ngời ta coi đây là một thứ
thuế đánh vào các tổ chức tín dụng. Xét trên một khía cạnh nào đó dự trữ bắt buộc
đợc coi nh một khoản thuế là quan niệm có thể chấp nhận đợc, vì hầu hết các
khoản dự trữ bắt buộc đều không đợc trả lãi. Vì vậy nhằm tạo điều kiện cho các
ngân hàng nhỏ giảm mức độ gánh nặng của dự trữ bắt buộc, ngời ta thờng căn cứ
vào qui mô tiền gửi của các ngân hàng để định ra tỷ lệ dự trữ cho từng loại hình tổ
chức tín dụng. Hiện nay các tổ chức tín dụng thực hiện dự trữ bắt buộc theo Quyết
định số 51/1999/QĐ-NHNN1 của Ngân hàng nhà nớc Việt Nam ngày
10/02/1999. Nhóm các Ngân hàng thơng mại quốc doanh, ngân hàng thơng mại
cổ phần đô thị. Chi nhánh ngân hàng nớc ngoài, ngân hàng liên doanh và công ty
tài chính đợc áp dụng tỷ lệ 5% trên tổng số d tiền gửi dới 12 tháng. Cũng với loại
tiền gửi này tỷ lệ áp dụng cho các tổ chức tín dụng còn lạ là 1% và 0%
(1).1
Ngày nay các công cụ điều hành chính sách tiền tệ đã đợc củng cố và mở
rộng, hoàn thiện và phát huy vai trò kiểm soát tiền tệ của Ngân hàng nhà nớc. Vì
vậy dự trữ bắt buộc không còn là công cụ mang lại hoạt động cao nhất, trong việc
điều hành chính sách tiền tệ từ đó việc qui định tỷ lệ dự trữ bắt buộc thực chất đó
là việc xác lập một tỷ lệ sao cho nó có thể kết hợp với các khác thật nhịp nhàng
trong điều tiết lợng tiền cung ứng và mức lãi suất hợp lý trên thị trờng.
Ngoài ra chúng ta cũng cần xét đến tính ổn dịnh của các loại tiền gửi. Vì
sao? Vì rằng mặc dù dự trữ bắt buộc đợc sử dụng với mục tiêu chính là công cụ
của chính sách tiền tệ song ở một chừng mực nào đó nó vẫn mang một ý nghĩa về
thanh khoản. Do cách tính dự trữ bắt buộc là tỷ lệ phần trăm qui định trên số d
tiền gửi bình quân ngày trong một thời kỳ nào đó cho nên khi cần thiết các ngân
hàng có nhu cầu sử dụng tiền thì họ vẫn có thể để số dự trữ bắt buộc của mình
trên tài khoản ở Ngân hàng Trung ơng bằng 0. Tiền gửi của khách hàng với hệ
thống ngân hàng trung gian có thể coi là có thể rút bất kỳ lúc nào. Vì vậy không
1
Tạp chí Khoa học và đào tạo Ngân hàng số 3 ( 5 + 6/2000 )
8
thể tách rời giữa dự trữ và khả năng bảo đảm thanh khoản của các ngân hàng và
cũng vì vậy tính ổn định của các loại tiền gửi cũng là yếu tố cần xem xét khi các
định mức dự trữ cần thiết.
Trên đây là một số căn cứ cần thiết để các Ngân hàng Trung ơng có thể dựa
vào đó để đa ra tỷ lệ dự trữ áp dụng cho cả hệ thống ngân hàng. Từ khi dự trữ bắt
buộc đợc đa vào sử dụng Ngân hàng nhà nớc Việt Nam cũng đã đa ra nhiều quyết
định, chính sách về vấn đề này. Cách quản lý dự trữ bắt buộc trong hệ thống Ngân
hàng Việt Nam cũng có những đổi thay đáng ghi nhận. Từ chỗ việc quản lý một
cách cứng nhắc khoản dự trữ bắt buộc trên tài khoản riêng tại Ngân hàng nhà nớc,
các tổ chức tín dụng không đợc phép sử dụng kể cả những khi cần đến nay cách
quản lý của chúng ta đã linh hoạt hơn nhiều. Các tổ chức tín dụng có quyền sử
dụng dự trữ bắt buộc vào hoạt động kinh doanh của mình. Ngân hàng nhà nớc
quản lý dự trữ theo đơn vị thời gian. Do đó công cụ dự trữ bắt buộc là công cụ của
chính sách tiền tệ đợc Ngân hàng nhà nớc Việt Nam sử dụng có hiệu quả. Tuy
nhiên, khi xã hội ngày càng phát triển càng có nhiều loại công cụ mới ra đời
nhằm đáp ứng những điều kiện hiện nay tốt hơn. Tuy rằng những công cụ đó
không thể thay thế hoàn toàn đợc dự trữ bắt buộc nhng nó cũng đã phần nào khắc
phục đợc những hạn chế của công cụ này nh tác động của công cụ dự trữ bắt buộc
đến khối lợng tiền cung ứng là rất mạnh, chỉ cần một phần trăm thay đổi tỷ lệ dự
trữ bắt buộc tính trên tổng số d tiền gửi bình quân ngày mức dự trữ sẽ thay đổi
đáng kể và dẫn đến sự thay đổi theo cấp số nhân của lợng tiền cung ứng. Điều này
làm cho công cụ dự trữ bắt buộc trở nên thiếu linh hoạt vì nếu cứ thay đổi thờng
xuyên sẽ gây nên sự rối loạn mới ổn định cho hoạt động của các Ngân hàng. Đi
kèm theo đó là khoản chi phí cho các biến động cũng tăng theo. Vì vậy công cụ
này thờng đợc sử dụng kết hợp với các công cụ khác nhằm điều chỉnh lợng vốn
khả dụng của ngân hàng khi cần thiết.
b. Chính sách tái chiết khấu
9
Về thực chất chính sách tái chiết khấu là toàn bộ các qui định và điều kiện
cho vay của Ngân hàng Trung ơng đối với các ngân hàng thơng mại là một hệ
thống có hoạt động cung cấp một lợng vốn lớn đáp ứng nhu cầu của xã hội bằng
cách đi huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân c. Họ sẽ nhận tiền gửi và lấy
khoản tiền đó cho ngời có nhu cầu cần vay ngời ta gọi đó là hoạt động tín dụng
đối với nền kinh tế. Tuy nhiên khi tiến hành kinh doanh trong điều kiện cơ chế thị
trờng không phải ngân hàng nào cũng có thể hoạt động một cách trôi chảy do
điều kiện cạnh tranh giữa ngân hàng này và ngân hàng khác. Nhiều khi có những
biến động bất thờng mà các ngân hàng cha hoặc không thể xoay sở kịp vốn hoặc
dự trữ để đáp ứng nhu cầu của khách hàng lúc đó các ngân hàng này buộc phải đi
tìm nguồn vốn bổ sung từ các ngân hàng khác hoặc từ Ngân hàng Trung ơng để
bảo đảm kinh doanh. Trên cơ sở các ngân hàng thơng mại yêu cầu mình cho vay
khoản tiền nào đó, ngân hàng trung ơng sẽ xem xét và đa ra quyết định có cho các
Ngân hàng thơng mại vay hay không. ở Mỹ, quỹ dự trữ liên bang (Fed) cấp cho
các ngân hàng 3 loại cho vay chiết khấu. Tín dụng điều chỉnh, tín dụng thời vụ và
tín dụng mở rộng. Cho vay tín dụng điều chỉnh, một loại thông dụng nhất nhằm
giúp các ngân hàng giải quyết vấn đề khả năng hoàn trả ngắn hạn do tiền gửi bị
tạm thời rút ra. Tín dụng điều chỉnh đợc cấp bằng một cú điện thoại sẽ đợc hoàn
trả khá nhanh chóng vào cuối ngày làm việc sau đối với các ngân hàng lớn.
Tín dụng thời vụ đợc cấp để đáp ứng các nhu cầu thời vụ của một số ít ngân hàng
đang nghỉ và của những vùng nông nghiệp hoạt động theo thời vụ. Tín dụng mở
đợc cấp cho các ngân hàng bị khó khăn nghiêm trọng về khả năng hoàn trả do
tiền gửi bị rút ra thì kh
1
ông yêu cầu phải hoàn trả nhanh chóng ngay
(1)
.
Chính sách tái chiết khấu do Ngân hàng Trung ơng qui định với mục đích
kiểm soát đợc vốn mình cho vay, tránh cho khoản vốn vay đó không để bị sử
dụng sai mục đích. Vì mỗi một khoản vay sẽ làm cho lợng vốn khả dụng của các
ngân hàng thơng mại tăng lên và tơng ứng là mức cung tiền trong lu thông cũng
1
Tiền tệ, ngân hàng, thị trờng tài chính Federic S.Mishkin
10
sẽ tăng lên. Nh vậy khả năng kiểm soát tiền tệ sẽ gặp khó khăn nếu Ngân hàng
Trung ơng không hạn chế các khoản vay đó. Ngoài ra chính sách này cũng có
hiệu ứng thông báo đối với các ngân hàng khi Ngân hàng Trung ơng đa ra mức lãi
suất tái chiết khấu của mình. Nhìn vào mức lãi suất và điều kiện tái chiết khấu,
các ngân hàng có thể dự đoán đợc mục tiêu sắp tới, hớng điều hành của chính
sách tiền tệ trong thời gian tới, nó sẽ tự điều chỉnh hoạt động của mình để tránh
những khó khăn có thể vấp phải trong tơng lai. Chính sách tái chiết khấu không
những thể hiện đợc vai trò của Ngân hàng Trung ơng trong việc điều tiết lợng tiền
cung ứng mà nó còn thể hiện vị trí không thể thiếu đợc của Ngân hàng Trung ơng
trong hệ thống ngân hàng đó là cứu cánh cho vay cuối cùng. Khi cho vay thông
qua tái chiết khấu Ngân hàng Trung ơng là ngời cuối cùng có thể cung cấp dự trữ
cho hệ thống ngân hàng khi các sự phá sản của ngân hàng đe doạ thoát khỏi sự
kiểm soát do đó mà ngăn chặn xảy ra những cuộc sụp đổ ngân hàng và tài chính.
ở Việt Nam chính sách tái chiết khấu cũng đã đợc sử dụng trong điều hành
chính sách tiền tệ. Tuy nhiên nó không đợc sử dụng nh là một công cụ hữu hiệu
của chính sách tiền tệ mặc dù pháp luật về ngân hàng và các tổ chức tín dụng đã
có những qui định hớng dẫn trong điều 57 về chiết khấu tái chiết khấu, cầm cố th-
ơng phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Nguyên nhân chủ chốt của vấn đề
này đó là ở Việt Nam cha hội đủ những điều kiện để có thể tiến hành hoạt động
này. Trớc tiên đó là hoạt động chiết khấu thơng phiếu của các ngân hàng thơng
mại còn hạn hẹp từ khi có quyết định số 198/QĐ-NH5 ngày 16/09/1994 của
Thống đốc Ngân hàng nhà nớc ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn cũng đã có quy
định về chiết khấu chứng từ có giá nhng cho đến nay nghiệp vụ này của ngân
hàng thơng mại hầu nh không đáng kể, chủ yếu chỉ là mua các tín phiếu, trái
phiếu ngắn hạn của nhà nớc cha đến hạn
(1)
. Trong khi đó thơng phiếu công cụ
tài chính quan trọng nhất trong sản xuất kinh doanh lại là hình thức công cụ tài
chính cha phát triển ở Việt Nam. Chúng ta mới chỉ có trái phiếu kho bạc, trái
phiếu ngắn hạn vì vậy phát triển hình thức tín dụng mới này còn gặp nhiều khó
11
khăn. Để khắc phục điều này, đa dạng hoá các công cụ tài chính để làm cơ sở cho
tín dụng ngân hàng sẽ là một bớc đột
1
biến làm thay đổi hoạt động của hệ thống
ngân hàng. Bên cạnh vấn đề công cụ tài chính, một yếu tố nữa không kém phần
quan trọng đó là từ khi có quyết định 198 về chứng từ có giá cho đến nay khi Luật
ngân hàng và các tổ chức tín dụng đợc thi hàng 01/10/1998 thì các qui định và h-
ớng dẫn nghiệp vụ còn chung chung. Đặc biệt là cha có tiêu chí xác định phân
loại các chứng từ có giá để có thể áp dụng vào nghiệp vụ này. Mặt khác kinh tế n-
ớc ta chủ yếu là sản xuất nhỏ cha đạt đến đợc nền sản xuất lớn hiện đại và qui mô
vừa mới tiếp cận với cơ chế thị trờng qua mời năm đổi mới trong khi đó nghiệp vụ
này là rất cần thiết với nền kinh tế trong thời kỳ phát triển. Vì vậy những bớc
chuẩn bị về luật pháp cũng nh quá trình phát triển kinh tế là điều kiện để nghiệp
vụ này đợc mở rộng và phát triển trong một thời gian không xa.
Với những u điểm nh vậy, chính sách tái chiết khấu liệu có còn điều gì hạn
chế hay không ? với khả năng định hớng và thông báo trớc, chính sách tái chiết
khấu đa ra các quy định về lãi suất chiết khấu và điều kiện chiết khấu, nó có tác
dụng không những về kiểm soát tiền tệ mà còn có tác dụng hớng dẫn thị trờng đôi
khi còn vì những mục đích chính trị xen lẫn vào. Nh thế thì chỉ có những loại giấy
tờ có giá có những tiêu chuẩn phù hợp với định hớng và chính sách đã đề ra thì
mới đợc tái chiết khấu và nếu trong một thời gian nào đó có sự thay đổi đặc biệt ở
mức lãi suất thì việc cung ứng tiền tệ không những không đi đúng hớng mà còn
rơi vào tình trạng khó có thể kiểm soát đợc. Hơn nữa công cụ này có khả năng
điều tiết các mục tiêu trung gian nhng khi sử dụng có Ngân hàng Trung ơng
không kiểm soát hoàn hảo đợc lợng tiền cung ứng. Đó là công cụ mang tác động
một chiều, nó phụ thuộc vào mức độ phụ thuộc vốn của các ngân hàng thơng mại
vào Ngân hàng Trung ơng, Ngân hàng Trung ơng không thể chủ động đợc trong
việc cấp phát vốn vì chỉ khi nào ngân hàng thơng mại thực sự cần vốn họ mới xin
tái chiết khấu, lúc Ngân hàng Trung ơng mới có quyền ra quyết định của mình.
1
. Tạp chí Ngân hàng số 14. Tháng 7/1998.
12
Để khắc phục nhợc điểm này cần kết hợp với việc sử dụng công cụ dự trữ bắt
buộc trong việc thực hiện tốt vai trò kiểm soát của Ngân hàng Trung ơng.
c. Nghiệp vụ thị tr ờng mở.
Nghiệp vụ thị trờng mở là hoạt động của Ngân hàng Trung ơng trên thị tr-
ờng mở thông qua việc mua bán các chứng khoán hoạt động này có ảnh hởng trực
tiếp đến dự trữ của các ngân hàng thơng mại và ảnh hởng gián tiếp đến mức lãi
suất trên thị trờng. Đây đợc coi là công cụ linh hoạt và có hiệu quả nhất của chính
sách tiền tệ đã đợc hầu hết các nớc trên thế giới, nhất là các nớc phát triển sử
dụng vô cùng hiệu quả. Vậy Việt Nam nghiệp vụ này đợc áp dụng nh thế nào? Tại
sao đến bây giờ Việt Nam mới đa nghiệp vụ này vào hoạt động.
Chúng ta đã biết sau Pháp lệnh Ngân hàng nhà nớc, hệ thống ngân hàng hai
cấp đã cho phép Ngân hàng nhà nớc đóng vai trò Ngân hàng Trung ơng và từ đây
đã ra đời một hệ thống chính sách tiền tệ đợc rút đúc từ kinh nghiệm của nhiều n-
ớc trên thế giới. Thật vậy, chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nớc thời gian qua
đã góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, tuy
nhiên trong việc vận hành các công cụ của chính sách tiền tệ chúng ta còn gặp
nhiều trở ngại trớc hết là sự am hiểu về một phơng pháp điều hành mới còn hạn
chế trong khi nền kinh tế chuyển đổi còn thiếu những điều kiện để điều hành
chính sách tiền tệ theo đúng nghĩa gốc của mỗi công cụ. Chẳng hạn chính sách tín
dụng chúng ta cho vay theo hạn mức truyền thống tiền đến cho vay theo chỉ định
là chủ yếu với cách tính và trả lãi sau hàng tháng (khác với cho vay chiết khấu là
hình thức cho vay trả lãi trớc ). Chiết khấu giấy tờ có giá mới bắt đầu tập dợt trên
thị trờng sơ cấp đối với tín phiếu kho bạc, tín phiếu Ngân hàng nhà nớc và tín
phiếu các ngân hàng thơng mại. Trên thị trờng thứ cấp nghiệp vụ này còn nằm
trên bản thảo, nên cha có kinh nghiệm. Quá trình dự thảo các văn bản pháp qui
liên quan đến các công cụ của chính sách tiền tệ còn nhiều vấn đề cần trao đổi
rộng rãi.
13
Về cho vay tái cấp vốn, nên cho vay trả lãi trớc ( cho vay chiết khấu ) hay
cho vay trả lãi sau hàng tháng nh lâu nay. Cho vay trả lãi trớc có một u điểm là
giảm đợc sự lạm dụng vay để mua chứng khoản trả lãi trớc. Nhu cầu vốn tạm thời
để điều chỉnh cân đối hàng ngày của các ngân hàng xử lý bằng loại cho vay nào,
có tiếp tục cho vay thanh toán bù trừ không.
Về chiết khấu giấy tờ có giá, có nên chiết khấu nh một công cụ riêng biệt
hay đợc bao gồm trong chính sách tái cấp vốn hoặc giai đoạn đầu của nghiệp vụ
thị trờng mở?
Về nghiệp vụ thị trờng mở, hoạt động trên thị trờng tài chính nói chung hay
chỉ trên thị trờng tiền tệ, công cụ để giao dịch trên nghiệp vụ này là giấy tờ có giá
( GTCG) nói chung hay chỉ GTCG ngắn hạn. Nói một cách khác chính sách tiền
tệ chú ý đến khả năng thanh khoản hay tính thời hạn của công cụ tài chính. Nếu
mối quan tâm nhằm vào tính thời hạn ( ngắn hạn ) thì trên thực tế nhiều công cụ
tài chính dài hạn ở nhiều trờng hợp có khả năng chuyển đổi nhanh hơn các công
cụ ngắn hạn, sẽ bị loại bỏ khỏi nghiệp vụ thị trờng mở (chứng khoán chính phủ
chẳng hạn ). Trong khi đó nhiều GTCG ngắn hạn rất khó chuyển đổi không phù
hợp với chính sách tiền tệ nhạy bén buộc phải mua, bán trên thị trờng mở. ở các
nớc Ngân hàng Trung ơng quan tâm vào khả năng thanh khoản của các công cụ
tài chính hơn là thời hạn. Một chứng khoán thanh khoán cao có thể chuyển đổi đ-
ợc ngay nhờ kỹ thuật hợp đồng mua bán lại trong khi đó một chứng khoán ngắn
hạn bị ế thì không có kỹ thuật nào để xử lý. ở Việt Nam trong khi các công cụ tài
chính còn hiếm hoi Luật Ngân hàng nhà nớc giới hạn phạm vi giao dịch của
nghiệp vụ thị trờng mở trên thị trờng tiền tệ thì trớc hết nghiệp vụ này bớc đầu gặp
khó khăn do thiếu các công cụ tài chính (vì trái phiếu kho bạc nhà nớc chủ yếu có
thời hạn dài trên một năm) sau tiếp có thể giảm hiệu quả của nó. Thành viên tham
gia thị trờng mở bao gồm tất cả hệ thống tài chính, phi tài chính và t nhân hay chỉ
có duy nhất hệ thống tài chính ( điều này rất quan trọng vì nghiệp vụ thị trờng mở
có hiệu quả hay không phụ thuộc vào hai yếu tố một là thành viên tham gia, hai là
14
công cụ tài chính ). Phơng thức mua, bán là gì ( mua, bán hẳn, hợp đồng mua, bán
lại ...) thanh toán mua, bán bằng hình thức nào ( bằng chuyển khoản, bằng séc,
bằng điện tử... ) Vì vậy em xin sơ lợc đề xuất các giai đoạn tổ chức, vận hành
nghiệp vụ thị trờng mở nh sau:
15
Các bớc hoàn thiện nghiệp vụ thị trờng mở
Phân tổ
Giai đoạn đầu
(có thể áp dung)
Giai đoạn hoàn thiện
1. Thành viên tham gia - Chỉ bao gồm các định chế
tài chính
- Hệ thống tài chính
- Phi tài chính (các công ty)
- T nhân
2. Các công cụ tài chính áp
dụng
- Chứng khoán chính phủ
ngắn hạn
- Tín phiếu NHNN ngắn hạn
- Chứng khoán chính phủ
ngắn hạn
- Chứng khoán chính phủ dài
hạn (bao gồm các cơ quan
thuộc chính phủ)
3. Lãi chiết khấu áp dụng - Lãi suất cố định - Lãi suất đấu thầu
4- Kỹ thuật thị trờng mở - Mua, bán hẳn - Mua, bán hẳn
- Mua bán theo hợp đồng
mua lại
5- Thời gian hoạt động - 1 tuần, tháng... - Hàng ngày, khi cần thiết
Ta cần lu ý:
1- Mua hoặc bán chứng khoán tận tay t nhân là cách can thiệp vào lợng tiền
cung ứng trực tiếp và nhanh nhất.
2- Khả năng thanh khoản của chứng khoán quyết định tính linh hoạt của thị
trờng mở chứ không phải thời hạn của chứng khoán, do đó nghiệp vụ thị trờng mở
hoạt động trên thị trờng chứng khoán nói chung chứ không chỉ thu hẹp trên thị tr-
ờng tiền tệ.
Sau đây em xin nêu một vài suy nghĩ và kiến nghị sau đây:
1- Để phù hợp với thông lệ quốc té đồng thời là điều kiệnh thực tế của Việt
Nam hiện nay đề nghị sửa lại Điều 9 và Điều 21 Luật NHNN. Có nh vậy mới tạo
đợc tiền đề cho nghiệp vụ TTM hoạt động có hiệu quả. Cụ thể là cộng cụ mua,
bán trên nghiệp vụ này bao gồm GTCG nói chung chứ không chỉ GTCG ngắn
hạn, hay nói cách khác nghiệp vụ TTM hoạt động trên phạm vi cả thị trờng vốn và
thị trờng tiền tệ, nhất là hiện nay trong điều kiện nền kinh tế mới chuyển đổi
16