Tải bản đầy đủ (.docx) (112 trang)

So sánh tu từ trong gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của lưu quang vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.87 KB, 112 trang )

1

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA NGỮ VĂN
----



----

NGUYỄN THỊ KIỀU NHUNG

SO SÁNH TU TỪ TRONG GIÓ VÀ TÌNH YÊU
THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI CỦA LƯU
QUANG VŨ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Đà Nẵng, tháng 4 / 2018


2

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KHOA NGỮ VĂN
----



----

SO SÁNH TU TỪ TRONG GIÓ VÀ TÌNH YÊU


THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI CỦA LƯU
QUANG VŨ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HỌC

Người hướng dẫn:
PGS. TS. Bùi Trọng Ngoãn

Người thực hiện:
NGUYỄN THỊ KIỀU NHUNG
(Khóa 2015 – 2019)

Đà Nẵng, tháng 4 / 2018


3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong khóa luận là trung thực và chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác. Nếu không đúng như trên, tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm

Đà Nẵng, ngày 20 tháng 4 năm 2018
Tác giả luận án

Nguyễn Thị Kiều Nhung


4

TRANG GHI ƠN
Chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ của PGS. TS. Bùi Trọng
Ngoãn trong quá trình hoàn thành khóa luận này. Chân thành cảm ơn quý
thầy cô trong khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng đã
giảng dạy nhiệt tình trong suốt quá trình học tập tại trường và quý thầy cô
trong Hội đồng chấm khóa luận.
Trong quá trình học tập và thực hiện khóa luận này luôn có sự giúp đỡ và
chia sẻ của các bạn và gia đình. Tôi xin chân thành cảm ơn.


5
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................
NỘI DUNG ................................................................................................................
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN ĐỐI TƯỢNG
NGHIÊN CỨU ..........................................................................................................
1.1. Khái niệm so sánh tu từ và phân loại...................................................................
1.1.1. Khái niệm so sánh tu từ ...................................................................................
1.1.2. Phân loại so sánh tu từ .....................................................................................
1.1.2.1. Theo quan điểm của Cù Đình Tú ..................................................................
1.1.2.2. Theo quan điểm của Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa .........................
1.1.2.3. Theo quan điểm của Hữu Đạt .....................................................................
1.1.2.4. Theo quan điểm của Bùi Trọng Ngoãn .......................................................
1.2. Lưu Quang Vũ và tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi ..................
1.2.1. Lưu Quang Vũ – nhà thơ, nhà văn tài hoa mà bạc mệnh ..............................
1.2.2. Tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi ..........................................
CHƯƠNG 2 KHẢO SÁT VỀ SO SÁNH TU TỪ TRONG GIÓ VÀ TÌNH YÊU
THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI CỦA LƯU QUANG VŨ ....................................
2.1. So sánh tu từ “A như B” ....................................................................................
2.1.1. Dạng đầy đủ: “A – cơ sở so sánh – từ chức năng – B” .................................
2.1.1.1. Khi cơ sở so sánh là cụm từ ........................................................................

2.1.1.2. Khi cơ sở so sánh là từ ................................................................................
2.1.2. Dạng sơ giản: “A – từ chức năng – B” ..........................................................
2.1.2.1. Từ chức năng là “như” ................................................................................
2.1.2.2. Từ chức năng khác ......................................................................................
2.1.3. Phân tích thành phần thuyết minh của B trong so sánh tu từ “A như B” ......
2.1.3.1. Thành phần thuyết minh của B khi có cơ sở so sánh ..................................
2.1.3.2. Thành phần thuyết minh của B khi không có cơ sở so sánh .......................
2.2. So sánh tu từ “A là B” .......................................................................................
2.2.1. Dạng sơ giản: “A – từ chức năng – B” ..........................................................
2.2.1.1. Từ chức năng “là” .......................................................................................
2.2.1.2. Từ chức năng là phó từ kết hợp với “là” .....................................................
2.2.2. Phân tích thành phần thuyết minh của B trong so sánh tu từ “A là B” .........
2.3. So sánh tu từ “A//B” (so sánh song hành) .........................................................
2.3.1. Dạng đầy đủ của so sánh song hành: “A – cơ sở so sánh – B” ....................
2.3.2. Dạng sơ giản của so sánh song hành: “A – B” ..............................................


6
2.3.3. Phân tích thành phần thuyết minh của B trong so sánh song hành ...............
2.4. Nhận xét chung ..................................................................................................
2.4.1. Cái được so sánh: A ......................................................................................
2.4.2. Cái dùng để so sánh: B ..................................................................................
2.4.3. Hiện tượng bao gộp nhiều cấu trúc so sánh ..................................................
2.4.4. Sự kết hợp giữa các biện pháp so sánh tu từ trong một đoạn thơ .................
CHƯƠNG 3 NĂNG LỰC BIỂU ĐẠT CỦA CÁC LOẠI SO SÁNH TU TỪ
TRONG GIÓ VÀ TÌNH YÊU THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI CỦA LƯU QUANG
VŨ ............................................................................................................................
3.1. Tầm tác động của biện pháp so sánh tu từ trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước
tôi của Lưu Quang Vũ với nội dung thể hiện của tập thơ ........................................


3.1.1. Một tình yêu mãnh liệt, một cảm xúc dạt dào dành cho đất nước, nhân dân và
thời đại với sự tiếp sức của phép so sánh tu từ ........................................................
3.1.2. Một thế giới tình yêu nhiều cung bậc được bổ trợ bằng phép so sánh tu từ . 45
3.1.2.1. Những cung bậc cảm xúc trong tình yêu được diễn tả bằng so sánh tu từ . 45
3.1.2.2. Hình ảnh và những cảm nhận về người yêu diễn đạt thông qua so sánh tu
từ......................................................................................................................
3.2. So sánh tu từ đối với tư duy nghệ thuật của Lưu Quang Vũ .............................
3.2.1. Tư duy nghệ thuật được thể hiện qua cái được so sánh (A) trong thơ Lưu Quang
Vũ........................................................................................................................

3.2.2. Tư duy nghệ thuật được thể hiện qua cái dùng để so sánh (B) trong thơ Lưu
Quang Vũ ..................................................................................................................
3.2.3. Tư duy nghệ thuật thể hiện qua kiểu liên tưởng trong thơ Lưu Quang Vũ ...
3.3. So sánh tu từ đối với phong cách ngôn ngữ thơ Lưu Quang Vũ .......................
3.3.1. Cái nhìn giàu tính phát hiện ..........................................................................
3.3.2. Hình ảnh thơ gợi mở trí tưởng tượng và hình ảnh so sánh gắn với trạng thái
cảm xúc .....................................................................................................................
3.3.3. Cấu trúc so sánh tu từ phong phú ..................................................................
3.3.3.1. Cấu trúc bao gộp .........................................................................................
3.3.3.2. Cấu trúc kết hợp ..........................................................................................
3.3.4. So sánh tu từ trong thơ Lưu Quang Vũ sâu sắc trong năng lực biểu đạt ......
3.3.5. “Thơ tôi là mây trắng của đời tôi” ................................................................
KẾT LUẬN .............................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................
PHỤ LỤC ................................................................................................................


1

MỞ ĐẦU

1.

Lý do chọn đề tài

Lưu Quang Vũ được bước chân vào thế giới văn chương khi còn rất trẻ. Tập
thơ đầu tay Hương cây – Bếp lửa (in chung với Bằng Việt, 1968) được đón nhận
nồng nhiệt. Viết phê bình nghệ thuật văn học, viết truyện và 55 vở kịch bản đã đưa
tên tuổi Lưu Quang Vũ trở thành một tác giả lớn. Tuy nhiên, thơ mới là thể loại có
sức hấp dẫn Lưu Quang Vũ nhất. Các tác phẩm thơ ca của Lưu Quang Vũ đã khẳng
định tài năng của nhà thơ này và cũng được nghiên cứu trên nhiều phương diện. Gió
và tình yêu thổi trên đất nước tôi là tuyển thơ được chọn lọc từ các tập thơ đã công
bố và đặc biệt là sự xuất hiện của các bài thơ trong tập Cuốn sách xếp lầm trang mà
trước khi qua đời Lưu Quang Vũ chưa kịp xuất bản.
Sử dụng các biện pháp tu từ để làm nổi bật hình ảnh là thủ pháp quen thuộc
trong văn chương Việt Nam. Mặc dù quen thuộc song ở mỗi tác giả, các biện pháp
tu từ ấy bao giờ cũng là một sự sáng tạo bởi kiểu tư duy nghệ thuật và năng lực sử
dụng các phương tiện ngôn ngữ. Trong đó, biện pháp tu từ so sánh là một trong số
những biện pháp được Lưu Quang Vũ sử dụng khá nhiều và đó cũng là một yếu tố
ngôn ngữ giúp các tác phẩm thơ của ông trở nên sâu sắc hơn. Nghiên cứu về Lưu
Quang Vũ nói chung và thơ của Lưu Quang Vũ nói riêng thì đã có nhiều công trình
nghiên cứu song nhận thấy nghiên cứu về các biện pháp tu từ trong thơ Lưu Quang
Vũ cũng còn ít và chỉ tập trung ở bề mặt theo chiều rộng. Chính vì vậy, chúng tôi
chọn đề tài So sánh tu từ trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu
Quang Vũ nhằm đi sâu thêm về biện pháp so sánh tu từ và tác dụng tạo hình của nó
trong Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi để thấy được tài năng của tác giả cũng
như nhìn nhận, đánh giá thêm về giá trị của tác phẩm.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề


Nói đến Lưu Quang Vũ thập niên 70, 80 của thế kỉ XX, người ta chỉ biết đến
chủ yếu với các tác phẩm kịch và truyện, thơ ca của Lưu Quang Vũ được biết tới ít hơn
trong giai đoạn đó, chỉ có tập thơ đầu tay in chung với Bằng Việt Hương cây – Bếp lửa
(1968). Các tập thơ của Lưu Quang Vũ sau đó trở thành đề tài thu hút rất đông người
nghiên cứu, và các kết quả nghiên cứu này đã đem đến cái nhìn mới cùng với sự khám
phá những giá trị mới trong thơ Lưu Quang Vũ. Trong quá trình tìm hiểu


2
đề tài chúng tôi nhìn nhận được các vấn đề: Nói về tài năng và lao động nghệ thuật của
nhà thơ phải kể đến Lưu Quang Vũ tài năng và lao động nghệ thuật do Lưu Khánh Thơ
biên soạn. Trong cuốn sách này đã giới thiệu được nhiều bài viết của các nhà văn, nhà
phê bình nổi tiếng đã cho thấy được những đánh giá của giới phê bình về Lưu Quang
Vũ ở nhiều góc độ: Hoài Thanh, Lê Đình Kỳ, Vũ Quần Phương, Phạm Xuân Nguyên,
Anh Ngọc, Hoàng Sơn, … Bài viết đầu tiên về Lưu Quang Vũ là Một cây bút trẻ nhiều
triển vọng của Hoài Thanh. Bằng “đôi mắt xanh” của một nhà phê bình đã sống chết
với thơ từ thời tiền chiến, ông dự cảm về một Lưu Quang Vũ của tương lai: “Thơ văn ta
nói về tình quê hương đã có những lời thật thiết tha, đằm thắm…bao nhiêu tầng lớp nhà
thơ nói hoài vẫn không trùng, không cạn. Đến lượt mình, Lưu Quang Vũ đã góp tiếng
nói của anh. Một tiếng nói nhỏ nhẹ mà sâu”[28, tr.8], “Cảm xúc của anh thường nhuần
nhị, lời thơ cũng thời nhuần nhị. Ý có khi mượn chỗ này chỗ nọ nhưng giọng thì đúng
là giọng của anh” [28, tr.19] và kết lại Hoài Thanh cho rằng “ Năng khiếu của anh đã
rõ. Miễn anh đi đúng, nhất định anh sẽ đi xa ”[28, tr.22]. Theo Vũ Quần Phương, với
đông đảo công chúng rằng Lưu Quang Vũ được biết đến là một nhà viết kịch song thơ
mới là nơi Lưu Quang Vũ ký thác nhiều nhất trong bài Đọc thơ Lưu Quang Vũ: “…
Nhưng đọc hết các bản thảo anh để lại, tôi thấy thơ mới là nơi anh ký thác nhiều nhất
và tôi tin nhiều bài thơ của anh sẽ thắng được thời gian.”[28, tr.33]. Ông cũng đã phát
hiện ra cái khác biệt ở Lưu Quang Vũ với các nhà thơ cùng thời: “đặc biệt là một giọng
thơ rất đắm đuối”, “ đắm đuối là một đặc điểm của suốt đời Lưu Quang Vũ”, “cái giọng
say đắm, đắm đuối của Lưu Quang Vũ lúc ấy rất được mến chuộng”, “đắm đuối là bản

sắc cảm xúc của Lưu Quang Vũ” [28, tr.36-38]. Bích Thu đã thể hiện lòng thương cảm
và chia sẻ với nỗi đau của Lưu Quang Vũ trong những vần thơ viết về chiến tranh qua
Những bài thơ sống với thời gian. Chính những lời thơ đầy đau thương, mất mát,
những day dứt thể hiện ở nỗi đau tâm hồn và cay nghiệt của số phận là yếu tố khiến thơ
Lưu Quang Vũ sống mãi trong lòng bạn đọc. Ngoài ra còn nhiều các bài viết khác của
Vũ Thị Khánh, Doãn Châu, Tất Thắng, Định Nguyễn, Lưu Khánh Thơ… với những
suy nghĩ riêng, cảm nhận riêng của mỗi người nhưng đều thể hiện tình yêu đối với Lưu
Quang Vũ và công nhận tài năng của ông. (xem [28])

Thơ trẻ Việt Nam 1965 -1975 khuôn mặt cái tôi trữ tình, Bùi Bích Hạnh đã có
những nhìn nhận, đánh giá chung cho các nhà thơ giai đoạn 1965 – 1975, trong đó


3
nhắc đến Lưu Quang Vũ khá nhiều. Nói đến cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang
Vũ, cái tôi day trở, đa đoan thấm tình người và tình dân tộc để dù trải qua bao đổ vỡ
thì “cái tôi trữ tình trong thế giới nghệ thuật ấy vẫn đến được thềm cao của niềm tin,
vẫn lấy lại tin yêu từ trong cõi sống”. Lưu Quang Vũ cũng khẳng định những thành
công trong việc sử dụng các thủ pháp nghệ thuật “lạ hóa”, “tự do”, “cách điệu” của
thơ trẻ. (xem [8])
Tuy nhiên, có thể thấy rằng việc nghiên cứu thơ Lưu Quang Vũ ở phương
diện ngôn ngữ học mới chỉ dừng ở những bài viết riêng lẻ hoặc một số các luận văn,
luận án chứ chưa thực sự có công trình nào làm nổi bật được bản sắc thơ của Lưu
Quang Vũ. Có thể kể đến một số khóa luận tham khảo được: Ẩn dụ bổ sung trong
thơ Lưu Quang Vũ (2016) của Nguyễn Thị Thảo My; Các biện pháp tu từ theo quan
hệ liên tưởng trong tập thơ “Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi” của Lưu Quang
Vũ (2016) khóa luận tốt nghiệp của Đỗ Thị Thảo; Đặc điểm ngôn ngữ thơ tình Lưu
Quang Vũ (2012) luận văn thạc sỹ của Lê Lan Hương… là các nghiên cứu bao quát
ở góc nhìn ngôn ngữ vào thơ Lưu Quang Vũ.
So sánh tu từ là một biện pháp xuất hiện rất sớm trong ngôn ngữ văn chương,

vốn đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập đến. Trong việc nghiên cứu về
phép so sánh tu từ thì ở Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều nghiên cứu, có một số
các tác giả tiêu biểu: Đinh Trọng Lạc với Giáo trình Việt ngữ, 99 phương tiện và
biện pháp tu từ tiếng Việt, Phong cách học tiếng Việt; Hữu Đạt với Phong cách học
tiếng Việt hiện đại; Cù Đình Tú có Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt; Võ
Bình và Lê Anh Hiền có Phong cách học - thực hành tiếng Việt…Trong khi Đinh
Trọng Lạc khảo sát các câu so sánh ngang bằng tu từ học thì Hữu Đạt cũng có đề
nghị một số mô hình của cấu trúc so sánh ngang bằng, hơn kém và nhất, song tác
giả chưa phân tích sâu vào cơ chế hoạt động của các thành tố tạo nên câu so sánh.
Các luận văn, bài viết, đề tài nghiên cứu khoa học về so sánh tu từ trong văn học
cũng được nghiên cứu từ sớm. Song việc nghiên cứu về so sánh tu từ trong tập thơ
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ chưa được đi sâu, làm rõ
mà chỉ có một số luận văn và bài viết tìm hiểu về các biện pháp tu từ từ vựng, các
biện pháp tu từ cấu tạo theo quan hệ liên tưởng trong tuyển tập này.
Với những tìm tòi và nghiên cứu được, chúng tôi nhận thấy cần đi sâu hơn,
vận dụng lý thuyết so sánh tu từ để tìm hiểu thêm nghệ thuật trong Gió và tình yêu


4
thổi trên đất nước tôi. Đó không chỉ là để hiểu thêm về tập thơ về tác giả mà còn
nhằm mục đích tạo thêm những hướng đi mới nghiên cứu về thơ Lưu Quang Vũ.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: biện pháp so sánh tu từ .
Phạm vi nghiên cứu: trong tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi
của Lưu Quang Vũ xuất bản năm 2017 của nhà xuất bản Hội Nhà văn.
4.


Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ

Thực hiện đề tài nghiên cứu này nhằm đi sâu hơn vào một khía cạnh phong
cách nghệ thuật trong thơ Lưu Quang Vũ. Đồng thời, chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn
về giá trị của so sánh tu từ trong tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi.

Gắn liền với mục đích nghiên cứu là nhiệm vụ nghiên cứu, nhiệm vụ phải chỉ
ra được những điểm mới khi đánh giá tập thơ trên một bình diện mới. Theo đó, đúc
kết được giá trị của biện pháp so sánh tu từ tác động đến nhà thơ và được thể hiện
trong tác phẩm như thế nào.
5.

Phương pháp nghiên cứu

Trong khóa luận này, tôi sử dụng các thủ pháp:
-

Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại

-

Phương pháp so sánh, đối chiếu
Ngoài các thủ pháp nêu trên ra thì chúng tôi sử dụng phương pháp chủ yếu là

phương pháp phân tích và miêu tả.
6. Bố cục đề tài
Ngoài mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài bao gồm ba chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và tổng quan đối tượng nghiên cứu
Chương 2: Khảo sát về so sánh tu từ trong tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất
nước tôi của Lưu Quang Vũ

Chương 3: Năng lực biểu đạt của so sánh tu từ trong Gió và tình yêu thổi trên đất
nước tôi của Lưu Quang Vũ.


5
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm so sánh tu từ và phân loại
1.1.1. Khái niệm so sánh tu từ
Tu từ là một khái niệm được bắt nguồn từ tiếng La-tinh “figura” mang ý nghĩa
“bóng bẩy”, “lôi cuốn”, “có sức hấp dẫn”. Từ thời cổ Hy Lạp, người ta đã coi tu từ là
công cụ riêng của nghệ thuật viết văn cho tới nay nó là hình thức diễn đạt chung cho
mọi phong cách nhằm làm đẹp, làm hay, làm tăng sức biểu cảm cho ngôn ngữ.

Hữu Đạt nhận định: “So sánh là đặt hai hay nhiều sự vật, hiện tượng vào các
mối quan hệ nhất định nhằm tìm ra sự giống nhau và khác biệt giữa chúng” [3,
tr.363]. Với quan điểm của Hữu Đạt về so sánh cũng là quan điểm chung về so sánh
trong ngôn ngữ trong giới nghiên cứu Việt.
Như đã nói, so sánh tu từ xuất hiện từ rất sớm, tới nay trên thế giới và cả ở
Việt Nam có nhiều nghiên cứu về so sánh tu từ. Ở Việt Nam so sánh tu từ đã được
nhiều nhà ngôn ngữ nghiên cứu: Cù Đình Tú, Đinh Trọng Lạc, Hữu Đạt, Lê Anh
Hiền, Bùi Trọng Ngoãn… Thông qua một số các giáo trình của Cù Đình Tú (xem
[30]), Hữu Đạt (xem [3]), Đinh Trọng Lạc (xem [10;12]), Lê Anh Hiền, Võ Bình
(xem [2]), Bùi Trọng Ngoãn (xem [19]) chúng tôi thấy:
Trong Phong cách học – thực hành tiếng Việt,Võ Bình và Lê Anh Hiền có
viết: “So sánh là đối chiều hai hiện tượng, hai sự kiện, nhằm làm nổi bật đặc điểm
của hiện tượng, sự kiện này, nhờ những tính chất có dấu hiệu chung được biểu hiện
cụ thể ở hiện tượng, sự kiện kia. Đó là hình thức miêu tả sinh động, có khả năng
khắc họa hình ảnh và gây ấn tượng mạnh mẽ, chứ không phải là sự giải thích thuần

túy, có tính chất logic”.[2, tr.90]. Còn Đinh Trọng Lạc cho rằng: “So sánh tu từ (còn
gọi: so sánh hình ảnh) là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó người ta đối chiếu
hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan, không đồng nhất với nhau hoàn
toàn, mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh một lối tri
giác mới mẻ về đối tượng.” [12, tr.239]. Đó cũng là nhận định của hầu hết các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ hiện nay tại Việt Nam. Trong khi đề cập đến khái niệm so
sánh tu từ các nhà nghiên cứu cũng lưu ý cần phân biệt giữa so sánh tu từ và so sánh
logic, so sánh lí luận. Tập hợp từ nhiều nguồn, chúng tôi xác định:


6

So
Đối tượng

K

so sánh
Mục đích

C

so sánh

đi

cả

tiế
Phương


D

thức

so cá

sánh
Yêu

cầu C

so sánh

so

si





M

sử
Ví dụ

E

(L

Phép so sánh tu từ được hình thành dựa trên quy luật đối chiếu nét liên tưởng
tương đồng của hai hay nhiều đối tượng không cùng loại để gợi hình, gợi cảm. Còn
so sánh logic chỉ là sự đối chiếu nét giống nhau giữa hai vật cùng loại. Hiện nay có
nhiều cách gọi khác nhau tùy vào từng nhà nghiên cứu: phép so sánh tu từ, cách so
sánh tu từ, so sánh nghệ thuật, phương thức so sánh tu từ,… Nhưng dù với cách gọi
nào thì so sánh tu từ có cấu trúc hoàn chỉnh gồm 4 phần. Theo PGS. TS. Bùi Trọng
Ngoãn, cấu trúc 4 phần của so sánh tu từ được gọi tên như sau:
(1)

Cái được so sánh ( cái chưa biết, cái cần được giải thích): A

(2)
Cơ sở so sánh (nét tương đồng, vốn là thuộc tính, đặc trưng của cái
dùng để
so sánh có sự tương đồng với một khía cạnh nào đó của cái được so sánh)
(3)

Từ chức năng (từ dùng để so sánh)


7
(4)

Cái dùng để so sánh ( cái đã biết, dùng làm phương tiện thuyết giải, là cái

dùng làm chuẩn, lý tưởng thẩm mĩ): B
Trong giáo trình Phong cách học Tiếng Việt [19, tr.33] của Bùi Trọng Ngoãn
có ví dụ cụ thể sau:
Cái được so sánh
(1)

Mắt
Trong đó:
-

Cái được so sánh kí hiệu: A

-

Cái dùng để so sánh kí hiệu: B

- Lưu ý: Chỉ riêng Nguyễn Thái Hòa lại gọi cái được so sánh là (B) và cái dùng so
sánh là (A). Còn các nhà nghiên cứu ngôn ngữ khác đều thống nhất như trên.
Trong phép so sánh tu từ thì (A) và (B) là các yếu tố bắt buộc không thể
thiếu. Ta có thể viết gọn cấu trúc đầy đủ của so sánh tu từ:
A – cơ sở so sánh- từ chức năng - B
Theo mô hình trên, chúng ta có nhiều cách biến đổi khác nhau tạo ra các biến thể:
-

Lượt bớt cơ sở so sánh: A- từ chức năng - B
“Con mắt em liếc như là dao cau”
(Ca dao)

-

Lượt bớt, cơ sở so sánh và từ chức năng: A – B
“Gái thương chồng đang đông buổi chợ
Trai chưa vợ nắng quái chiều hôm”
(Ca dao)

-


Đảo trật tự: Từ chức năng – A – B
“Như hai dòng sông gặp gỡ đổi phù sa
Nhập luồng nước, hòa nhau màu sắc
Trao cảm thương hai bàn tay nắm chặt
Nghe máu mẹ cha chuyển giữ mỗi tay mình”
(Hơi ấm bàn tay – Lưu Quang Vũ)
Khi có cơ sở so sánh thì gọi là trường hợp so sánh nổi và những trường hợp

không có cơ sở so sánh thì được gọi là so sánh chìm. Ở những trường hợp so sánh
chìm người đọc phải dựa vào cái dùng để so sánh để tìm ra cơ sở so sánh. Ngoài ra,


8
một số trường hợp không có cơ sở so sánh thì cái dùng để so sánh sẽ được thuyết
minh:
“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra cánh đồng”
(Ca dao)
Ở trường hợp này, ta có “hạt vào đài các, hạt ra cánh đồng” là thuyết minh
cho “hạt mưa sa”. Dựa vào phần thuyết minh ta có thể suy ra được cơ sở so sánh là
sự nhỏ bé, số phận may rủi, không tự quyết định được, không thể biết trước được
sang hèn hay nghèo khổ.
Từ những kiến thức thu thập được, ngoài những hiểu biết chung về các khái
niệm, cấu tạo của phép so sánh tu từ thì việc phân loại phép so sánh tu từ cũng là
một yếu tố quan trọng để thực hiện nghiên cứu này.
1.1.2. Phân loại so sánh tu từ
Từ cấu trúc hoàn chỉnh của so sánh tu từ: A – cơ sở so sánh – từ chức năng
– B ngoài các biến thể như đã nói ở trên, mỗi nhà nghiên cứu lại có quan niệm phân
loại khác nhau trong nghiên cứu so sánh tu từ.

1.1.2.1. Theo quan điểm của Cù Đình Tú
Trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt hiện đại, Cù Đình Tú đã
căn cứ hai mặt hình thức và nội dung để phân loại. Dựa vào đó, Cù Đình Tú hình
thành các công thức so sánh sau:
-

A như (tựa như, giống như…) B
Đôi ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
(Ca dao)

-

A bao nhiêu B bấy nhiêu
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói trông mình bấy nhiêu
(Ca dao)

-

A là B
Từ “là” được sử dụng với ý nghĩa và giá trị tương đương với “như”.

(1): “Lũ đế quốc như là bầy dơi hốt hoảng”
(2): “Lũ đế quốc là bầy dơi hốt hoảng”


9
Qua hai ví dụ trên có thể nhận ra, (1) mang sắc thái giả định còn (2) có sắc
thái khẳng định. Điều đó cho thấy mặc dù “là” và “như” có ý nghĩa và giá trị tương

đương song sắc thái biểu cảm của chúng lại khác nhau. Cù Đình Tú cũng nhận định
rõ ràng: ““Như” có sắc thái giả định, “là” có sắc thái khẳng định” [30, tr.176]. Phó
giáo sư cũng nói thêm về so sánh giữa phán đoán logic khẳng định với công thức “S
là P” và cấu trúc “A là B”.
Về mặt nội dung, Cù Đình Tú chia thành hai loại so sánh: So sánh nổi và so
sánh chìm. Tác giả nhận thấy “các đối tượng nằm trong hai vế so sánh tu từ là khác
loại nhưng lại có một nét giống nhau nào đó, tạo thành cơ sở cho so sánh tu từ” [30,
tr.177]. Trong đó, so sánh tu từ nổi là các phép so sánh tu từ có nét giống nhau biểu
hiện ra bằng các từ ngữ cụ thể:
“Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”
(Ca dao)
Và, nét giống nhau khi không được phô bày ra bằng từ ngữ cụ thể mà người
đọc phải tự tìm ra được gọi là so sánh tu từ chìm: “Chủ nghĩa Lênin là cái cẩm nang
thần kì” (Hồ Chí Minh).
1.1.2.2. Theo quan điểm của Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hòa
Theo nguồn khảo cứu của chúng tôi, tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái
Hòa trong Phong cách học tiếng Việt gần đồng quan điểm với Cù Đình Tú, Nguyễn
Thái Hòa thể hiện quan điểm của bản thân về so sánh tu từ trong Phong cách học
tiếng Việt như sau:
Hình thức đầy đủ nhất của phép so sánh tu từ gồm bốn yếu tố đã kể:
A - cơ sở so sánh – Từ so sánh – B
Cùng với đó, Nguyễn Thái Hòa chia ra tùy từng trường hợp tạo ra các biến thể:
- Đảo ngược trật tự so sánh:
Chòng chành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng
(Ca dao)


trường hợp này nếu đúng theo mô hình chuẩn thì: “ai không chồng” chòng


chành như “nón không quai”, “thuyền không lái”. Việc đảo trật tự so sánh nhằm để
nổi bật tính chất của cơ sở so sánh – chòng chành.


10
- Bớt cơ sở so sánh:
Ai về ai ở mặc ai
Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh
(Ca dao)
-

Bớt từ so sánh:
“Gái thương chồng, đương đông buổi chợ…”
(Ca dao)

-

Thêm “bao nhiêu”, “bấy nhiêu”:

Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu (Ca dao)
-

Dùng “là” làm từ so sánh
Nguyễn Thái Hòa nói thêm, đây là loại so sánh ẩn dụ, gọi như vậy là vì “là”

có chức năng liên hệ so sánh ngầm mà không phải “là” trong kiểu câu tường giải
khái niệm:
Gió thổi là chổi trời
Nước mưa là cưa trời.

(Tục ngữ)
Mở rộng thêm trong Phong cách học tiếng Việt (1997), Đinh Trọng Lạc có
viết thêm về so sánh chìm (tức so sánh vắng yếu tố 2) và so sánh đối chọi (tức so
sánh sử dụng chỗ ngắt giọng).
1.1.2.3. Theo quan điểm của Hữu Đạt
Cho đến 2016 xuất hiện quan điểm của Hữu Đạt trong Phong cách học tiếng
Việt hiện đại, xem xét phép so sánh có thể dựa vào mặt cấu trúc hoặc ngữ nghĩa của
nó, ông chia ra 5 loại:
-

So sánh không có từ so sánh: A - B
“Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời cao biển rộng ruộng đồng nước non”
(Sáng tháng năm - Tố Hữu)

Tác giả cho rằng phép so sánh được thực hiện bởi ngữ điệu kết thúc một dòng thơ.
- So sánh có từ so sánh: A x B


11
Trong dạng A x B, Hữu Đạt chia nhỏ ra các dạng biến thể như sau: A x B; A
x B1, B2; A x B1 x B2
Ví dụ:
“Đẹp như tiên”
“Con sẽ chết như những người đã
chết Và những người đang chết”
(Thưa mẹ, trái tim – Trần Quang Long)
“Ta yêu mưa như yêu gì thân thiết
Như tre, dừa, như làng xóm quê hương
Như những con người – biết mấy yêu thương”

(Nhớ mưa quê hương – Lê Anh Xuân)
- So sánh ngang bằng: như, bao nhiêu… bấy nhiêu, là
“Nhớ lại hồi kháng chiến, mỗi lần nhìn về phía Đà Nẵng, tôi nhớ Ngân như
một con bướm trắng bay chập chờn trong khói súng” (Nguyễn Văn Bổng)
-

So sánh bậc hơn – kém: cao hơn, hơn, kém
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

- So sánh bậc cao nhất
“Ôi lòng Bác bao la trong Di chúc
Vẫn hạt lúa củ khoai chân chất bình thường
Cả dân tộc khóc Người thương mình nhất
Người được thương trên tất cả người thương
Người suốt đời quên mình cho Tổ quốc”
(Muôn vạn tình thân yêu trùm lên khắp quê hương – Việt Phương)
Chúng tôi nhận thấy mô hình khái quát mà tác giả đưa ra chưa thật sự rõ ràng,
còn gây ra khó hiểu cho người mới tiếp cận. Trong các phân loại và đưa ra ví dụ còn có
điểm hạn chế, khi phân loại so sánh có từ so sánh lại có thêm so sánh ngang bằng, so
sánh bậc hơn – kém. Thực chất, so sánh ngang bằng, so sánh hơn – kém đều là phép so
sánh có sử dụng từ so sánh, lẽ ra tác giả không nên phân thêm hai loại sau.


12
Còn trong phần ví dụ về so sánh bậc cao nhất, Hữu Đạt có đưa ra ví dụ: “Thế thì
thật đáng tiếc. Trong tất cả các tiểu thuyết Đông Tây, có hai quyển tôi mê nhất là

Tam quốc và Đông Chu liệt quốc. Về các môn tiểu thuyết thì thằng Tàu nhất” (Đôi
mắt – Nam Cao) [3, tr.369]. Chúng tôi cho rằng, việc so sánh “mê” “Tam quốc”,
“Đông Chu liệt quốc” nhất trong các tiểu thuyết Đông Tây không phải là so sáng tu
từ mà đây là so sánh logic, bởi giữa “tiểu thuyết Đông Tây” và “Tam quốc”, “Đông
Chu liệt quốc” đều chung loại, và “Tam quốc” cùng “Đông Chu liệt quốc” thuộc
phạm vi biểu vật của “tiểu thuyết Đông Tây”. Như vậy, tạm kết luận rằng quan điểm
của Hữu Đạt còn những hạn chế, chưa rõ ràng và xác tín.
1.1.2.4. Theo quan điểm của Bùi Trọng Ngoãn
Đồng quan về cách chia hình thức với Cù Đình Tú, Tiến sĩ Bùi Trọng Ngoãn
cũng chia so sánh tu từ thành ba loại trên và có thêm loại: A  B. Quan điểm về
phân loại so sánh tu từ được tác giả làm rõ hơn trong bài báo “Bàn thêm về phép so
sánh tu từ” in trên tạp chí Khoa học và Công nghệ. Trong đó, tác giả phân tích sâu
hơn về từ chức năng, cơ sở so sánh, mô hình bao nhiêu…bấy nhiêu và đặc biệt là
cấu trúc A hóa B và A thành B có phải là so sánh tu từ hay không.
Trong đó, tác giả đã chỉ ra 20 từ, cụm từ là “từ chứng” cho cấu trúc “A như
B”: giường như, na ná, chẳng khác, kém, nhường, khác chi… và gọi chúng là “từ
ngữ biểu đạt quan hệ so sánh”. Cùng với đó là các đóng góp cách nhìn mới về so
sánh chìm, so sánh nổi và lý giải thêm về mô hình bao nhiêu… bấy nhiêu. Giá trị
nhất trong bài báo, Bùi Trọng Ngoãn đã đưa ra nhận định của mình về cấu trúc A
hóa B và A thành B, tác giả đã đưa ra 5 lý do để chứng minh cho quan điểm của
bản thân đó không phải cấu trúc của so sánh tu từ. [21, tr.249 - 261]
Qua những kiến thức có được, xét thấy với quan điểm cấu trúc của Hữu Đạt
có nhiều phần còn thô sơ và nhiều hạn chế còn quan điểm của Cù Đình Tú chúng tôi
khá đồng tình. Bùi Trọng Ngoãn cũng với cách phân loại cấu trúc so sánh tu từ như
Cù Đình Tú song lại có phần ngắn gọn hơn, đơn giản hơn, thêm đó phần viết thêm
về các vấn đề so sánh tu từ đã làm rõ quan điểm của tác giả nhờ vậy áp dụng để
nghiên cứu trong đề tài này sẽ khả thi hơn. Đó là những lý do chúng tôi quyết định
sử dụng cách phân loại của tác giả Bùi Trọng Ngoãn cho bài nghiên cứu này, cấu
trúc so sánh tu từ gồm 4 loại: A như B; A là B; bao nhiêu … bấy nhiêu; A  B.



13
1.2. Lưu Quang Vũ và tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi
1.2.1. Lưu Quang Vũ – nhà thơ, nhà văn tài hoa mà bạc mệnh
Lưu Quang Vũ là một nhà thơ, nhà văn và một nhà viết kịch nổi tiếng. Trong
cuộc đời hoạt động nghệ thuật của Lưu Quang Vũ ông được biết đến nhiều với các
tác phẩm kịch và văn xuôi bởi tính hiện thực, chất phê phán và tính dự phóng. Tuy
nhiên, con đường thơ của Lưu Quang Vũ lại gặp nhiều trắc trở. Hầu hết các bài thơ
của ông không được chấp thuận khi ông còn đương sống song sức sống của chúng
lại mãnh liệt hơn, chúng bùng nổ sau khi cha đẻ đã về thế giới bên kia lúc tuổi đời
còn quá trẻ.
Lưu Quang Vũ sinh năm 1948, tại Phú Thọ và mất năm 1988 trong chuyến
xe định mệnh cùng vợ - Xuân Quỳnh, và con Lưu Quỳnh Thơ. Khi nhỏ, ông sống
tại Phú Thọ cùng cha mẹ đến năm 1954 gia đình nhà thơ chuyển về sống tại Hà Nội.
Thiên hướng và năng khiếu nghệ thuật của nhà thơ đã sớm bộc lộ tự nhỏ và vùng
quê trung du Bắc Bộ đó đã in dấu trong các sáng tác của tác giả sau này. Lưu Quang
Vũ cũng chịu nhiều ảnh hưởng tích cực của người cha tài hoa – Lưu Quang Thuận.
Năm 13 tuổi, Lưu QuangVũ đã giành được giải thưởng của thành phố về cả
văn và họa. Lớn lên, Lưu Quang Vũ nhập ngũ và nhanh chóng được biết đến với tư
cách là một nhà thơ trẻ tài năng khi mới 20 tuổi qua phần thơ Hương cây in chung
với Bằng Việt trong tập Hương cây – Bếp lửa.
Năm 1965 đến 1970, Lưu Quang Vũ nhập ngũ, phục vụ trong quân chúng
Phòng không – Không quân. Đây là thời kỳ thơ của nhà thơ bắt đầu nở rộ. Năm
1970 đến 1978, Lưu Quang Vũ xuất ngũ sớm và tiếp tục viết truyện, làm thơ trong
khi gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống. Đây được coi là giai đoạn khó khăn nhất
trong cuộc đời Lưu Quang Vũ. Ông làm đủ mọi nghề để mưu sinh, làm ở Xưởng
Cao su Đường sắt, làm hợp đồng cho nhà xuất bản Giải phóng, chấm công trong
một đội cầu đường, vẽ pa – nô, áp – phích,...
Năm 1973, đánh dấu một sự kiện quan trọng cuộc đời Lưu Quang Vũ, gắn bó
với Xuân Quỳnh, tác giả không chỉ có được một người bạn đời mà còn có được một

người bạn văn, cùng nhau vượt qua những năm tháng gian khổ, lận đận. Trước đó, Lưu
Quang Vũ đã có một mái ấm cùng tình đầu là diễn viên Tố Uyên, nhưng nữ diễn viên
ra đi để lại cho Lưu Quang Vũ đứa con trai và nỗi đau lớn. Chính sự ra đi của


14
Tố Uyên đã ảnh hưởng rất nhiều đến một giai đoạn sáng tác của ông, cho mãi đến
khi tình yêu với Xuân Quỳnh đơm hoa thì các sáng tác lại được thay sắc mới.
Năm 1978, Lưu Quang Vũ làm biên tập ở Tạp chí Sân khấu, ông viết báo, và
cuối năm 1979 cuốn Diễn viên và sân khấu ra đời. Cũng năm này vở kịch đầu tay
Sống mãi tuổi 17 (viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kỳ) của ông ra mắt công chúng
và được đánh giá cao.
Ngày 29 tháng 8 năm 1988, Lưu Quang Vũ đột ngột qua đời trong một vụ tai
nạn giao thông cùng vợ và con trai út. Ông ra đi khi tuổi đời vừa mới 40. Thế nhưng
ông đã kịp để lại cho đời rất nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật trên những thể loại
mà ông đã tham gia sáng tác: thơ, truyện ngắn, kịch.
Với những đóng góp của mình, năm 2000 Lưu Quang Vũ được tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Tài năng của Lưu Quang Vũ được ghi
nhận từ những chặng đường đầu tiên vào nghề và cho đến nay, ông luôn giành được
sự yêu mến của bạn đọc, những người hâm mộ thơ văn.
1.2.2. Tuyển thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi là tuyển thơ do nhà thơ, nhà nghiên cứu
Lưu Khánh Thơ đồng thời là em gái của Lưu Quang Vũ đã tập hợp, biên soạn lại. Gió
và tình yêu thôi trên đất nước tôi được xuất bản năm 2010 với 130 bài thơ tập hợp gần
như đầy đủ các bài thơ của Lưu Quang Vũ trong các tập thơ trước và có cả những bài
chưa được xuất bản trước đây kèm với đó là sự sắp xếp theo trật tự thời gian mà Lưu
Khánh Thơ biết được. Điều đặc biệt trong tuyển thơ lần này là sự xuất hiện các hình
ảnh thủ bút một số bài thơ của Lưu Quang Vũ với độc giả yêu mến Lưu Quang Vũ và
các nhà nghiên cứu văn học thì quả đây là những tư liệu rất có giá trị.
Tuyển thơ có sự góp mặt của 130 bài thơ được chia thành 5 phần: Hương cây,

Viết cho em từ cửa biển, Đất nước đàn bầu, Mắt của trời xanh và Những đám mây ban
sớm. Trong đó, phần Hương cây là những bài thơ trích trong tập thơ Hương cây
– Bếp lửa mà Lưu Quang Vũ đã in cùng Bằng Việt từng được bạn đọc đón nhận nồng
nhiệt bởi những cảm xúc trong trẻo, thiêng liêng đầy tin cậy. Đó cũng là hồn thơ đậm
nét trong những bài thơ đầu tay của ông, nhờ đó từ những ngày đầu tham gia sáng tác
Lưu Quang Vũ đã lọt mắt xanh của các nhà nghiên cứu phê bình danh tiếng: Vũ Quần
Phương, Hoài Thanh, … Tiếp sau đó những vần thơ viết về đất nước, về con người và
về chiến tranh, với những khó khăn trong cuộc sống chung của cả nước và nỗi


15
niềm đa đoan của riêng tác giả, thơ dường như là những trang nhật ký. Lưu Quang
Vũ viết để chỉ giữ cho riêng mình, những bài thơ lưu giữ và truyền lại những cảm
xúc, suy tưởng của nhà thơ lúc bấy giờ. Những vần thơ đầy dằn vặt, đau xót, cô
đơn, trăn trở, hoài nghi, có lúc ngán ngẩm đến tuyệt vọng, những vẫn tha thiết muốn
thoát ra khỏi những nỗi chán chường, mệt mỏi, hoài nghi để sống thực sự có ích cho
đời. Chính từ đó, Lưu Quang Vũ đã tìm lại và nhận thức được bản thân mình.
Lưu Quang Vũ vừa là một nhà thơ, nhà văn và đặc việt là được mến mộ với
tư cách nhà viết kịch tài hoa song với ông:
“Trên mái nhà cao vút rừng cây
Trên rừng cây những đám mây xô dạt
Trên hạnh phúc, trên cả niềm cay đắng
Thơ tôi là mây trắng của đời tôi.”
(Mây trắng của đời tôi)
Thơ với ông là cuộc sống đó mới là nơi để ông được là chính mình, một thế giới của
riêng ông, mới thấy được hết tài hoa trong bút pháp nghệ thuật của người nghệ sĩ
bạc mệnh. Vũ Quần Phương cũng đã nói: “Đọc thơ anh có cảm giác anh viết kịch để
sống với mọi người, và làm thơ để sống với riêng mình.” [31, tr.355]



16
CHƯƠNG 2
KHẢO SÁT VỀ SO SÁNH TU TỪ TRONG
GIÓ VÀ TÌNH YÊU THỔI TRÊN ĐẤT NƯỚC TÔI CỦA LƯU QUANG VŨ
Từ những cơ sở lý thuyết được xây dựng ở chương 1, chúng tôi tiến hành
khảo sát các cấu trúc so sánh tu từ trong tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước
tôi của Lưu Quang Vũ. Như phần lý thyết ở trên có nhắc đến bốn loại so sánh tu từ,
song trong tập thơ Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của Lưu Quang Vũ thì dạng
thứ tư : A bao nhiêu B bấy nhiêu không xuất hiện. Ở chương 2, chúng tôi sẽ lần
lượt khảo sát ba dạng so sánh tu từ có mặt ở 111 bài trong tập thơ và phân tích, miêu
tả về ngữ nghĩa cấu tạo của các thành tố đó.
2.1. So sánh tu từ “A như B”
So sánh tu từ được thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau, trong cấu trúc hoàn
chỉnh nhất của so sánh tu từ: A – cơ sở so sánh – từ so sánh – B, thì từ chức năng
thường gặp nhất là “như” . So sánh tu từ “A như B” là kiểu so sánh phổ biến, song
nó cũng dễ bị nhầm lẫn với so sánh logic bởi từ so sánh. Trong khảo sát tuyển thơ
Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi của nhà thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi nhận
thấy ông vận dụng kiểu so sánh tu từ này rộng rãi nhất, 305 (chiếm 79,4%) phép so
sánh tu từ dạng “A như B” trong 384 hình ảnh so sánh tu từ khảo sát.
2.1.1. Dạng đầy đủ: “A – cơ sở so sánh – từ chức năng – B”
Trong dạng đầy đủ của so sánh tu từ A như B, chúng tôi khảo sát thấy cơ sở
so sánh có hai dạng là cụm từ và từ. Dưới đây sẽ phân ra hai trường hợp để khảo sát
và phân tích giá trị biểu đạt của cụm từ và từ trong vai trò cơ sở so sánh.
2.1.1.1. Khi cơ sở so sánh là cụm từ
Theo Diệp Quang Ban thì cụm từ “là những kiến trúc gồm 2 từ trở lên kết
hợp từ tự do với nhau theo những quan hệ nghữ phép hiển hiện nhất định và không
chứa kết từ (quan hệ từ) ở đầu” [1, tr.6]
Với tổng số 83 cơ sở so sánh xuất hiện trong dạng đầy đủ của so sánh tu từ A
như B thì cơ sở so sánh là cụm từ có 23 cụm từ (chiếm 28,6%) gồm cụm động từ,
cụm tính từ và cụm đẳng lập. Một số ví dụ về cụm từ:

Tiếng Việt rung rinh nhịp đập trái tim người
Như tiếng sáo như dây đàn máu nhỏ
(Tiếng Việt)


17
Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu
(Tiếng Việt)
cánh tay em dài và ấm
như đất của những miền phiêu lãng
(Ngọn lửa đen)

hai ví dụ trên, phần gạch chân chính là cơ sở so sánh ở dạng cụm từ.
Trong

đó, “rung rinh nhịp đập trái tim người” là cụm động từ (cụm từ chính phụ), “còn thô
sơ” là cụm tính từ (cụm từ chính phụ) còn “dài và ấm” là cụm từ đẳng lập.
a)

Cụm động từ

Trong số các cụm từ là cơ sở so sánh thuộc dạng A như B thì cụm động từ
chiếm tỷ lệ nhiều nhất có 12 trường hợp trrong số 23 cụm từ. Như trong bài Những
đêm hoa vàng, Lưu Quang Vũ có câu thơ sử dụng cụm động từ làm cơ sở so sánh cho
phép so sánh tu từ A như B: “Gió lục địa tràn về như bão”. Ở đây, “tràn” là động từ
đóng vai trò chính còn “về” là động từ đóng vai trò phụ sau cho “tràn” vì thế “tràn về”
được xác định là cụm động từ. So sánh “gió lục địa” và “bão”, tác giả đưa cụm động từ
“tràn về” là nét tương đồng. Bởi dù “gió” và “bão” ở cấp độ khác nhau song việc sử
cụm động từ “tràn về” thể hiện sức mạnh của lực “gió” trong lục địa đã không còn ở

trạng thái “gió thổi” như bình thương nữa mà với “gió” với sức mạnh lớn hơn, như từ
phía xa tiến vào lục địa. Cụm động từ “tràn về” không chỉ thể hiện sức mạnh của “gió”
đã mạnh lên như “bão” mà còn thể hiện trạng thái bị động của con người, con người
không thể kiểm soát được hiện tượng của thiên nhiên. Hay như câu thơ:

Nhưng chiều nay, chiều nay hoa ngoại ô
Cứ ùa vào phố phường như ánh nắng
(Chưa bao giờ)
Trong ví dụ trên cụm “cứ ùa vào phố phường” có “ùa” là động từ, kèm trước là
phó từ “cứ” và đi sau là động từ “vào” và danh từ “phố phường”. Sử dụng cụm động từ
ở đây rất thú vị, bởi nó biểu hiện cho nhiều điều, trước hết ngoài chức năng thể hiện nét
tương đồng rất rõ của “hoa” và “ánh nắng” thì thành phần phụ sau của cụm động từ
“vào phố phường” còn xác định vị trí cụ thể cho “hoa” cũng như “ánh nắng”. Hình ảnh
“hoa ngoại ô” so cùng “ánh nắng” có cảm tưởng là những bông hoa nhỏ bé, tươi tắn
như tia nắng kết hợp với động từ “ùa” diễn đạt tình trạng đông đúc


18
không có tổ chức, chen chúc nhưng làm cơ sở so sánh thì câu thơ trở nên sinh động
và cảm thấy nhận sự đông đúc, rộn ràng.
b)

Cụm tính từ

Cũng như cụm động từ có động từ là thành tố chính thì thành tố chính của cụm

tính từ là tính từ. Qua khảo sát, so sánh tu từ A như B có 6 cụm tính từ trong 23
cụm từ đóng vai trò là cơ sở so sánh:
Ai thuở trước nói những lời thứ nhất
Còn thô sơ như mảnh đá thay rìu

(Tiếng Việt)
Bài hát cũng tôi hát cùng đồng đội
Lại dập dồn như gió khắp rừng khuya
(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)
Một thế hệ cứng đi như thỏi sắt
(Những bông hoa không chết)
những cô gái ướt đầm đìa như cá
(Em (I))
Tất cả đều vô nghĩa
Như một đồng xèng han gỉ
(Hoa cẩm chướng trong mưa)
Và sau đê sông Hồng nước lớn
Đỏ phập phồng như một trái tim đau
(Thư viết cho Quỳnh trên máy bay)
Trong những cụm tính từ nêu trên, có các cụm “còn thô sơ”, “lại dập dồn”, “đều
vô nghĩa” là có thành phần phụ trước còn lại là tính từ kết hợp thành phần phụ sau. Kết
hợp tính từ với các từ chỉ mức độ: “còn”, “lại”, “đều” để thể hiện trạng thái của tính
chất đang nói tới. Trong bài thơ Gió và tình yêu thôi trên đất nước tôi, so sánh những
bài hát hát cùng đồng đội với gó ở rừng khuya, Lưu Quang Vũ sử dụng cụm tính từ “lại
dồn dập” thể hiện sự lặp đi lặp lại. “Còn thô sơ” trong Tiếng Việt thể hiện tính chất thô
sơ chưa mất đi và “đều vô nghĩa” trong Hoa cẩm chướng trong mưa thấy được sự
tương tự, “tất cả đều vô nghĩa”, “tất cả” đã mang ý nghĩa bao hàm nhưng khi nhà thơ sử
dụng phụ từ “đều” như thêm sự nhấn mạnh cho sự “vô nghĩa”.


19
Ở trường hợp “đỏ phập phồng” và “ướt đầm đìa”, thành phần trung tâm là “đỏ”
và “ướt” kết hợp phụ sau cũng là tính từ nhưng chỉ bổ sung thêm. Giả sử như, tác giả
chỉ lấy “đỏ” làm cơ sở so sánh: Và sau đê sông Hồng nước lớn đỏ như một trái tim đau,
thì “đỏ” chỉ thể hiện màu sắc tương đồng của “sông Hồng” với “trái tim”. Nhưng chọn

cụm tính từ “đỏ phập phồng” sẽ gợi cảm hơn, không chỉ là nhịp đập của hình ảnh “trái
tim” và dường như “sông Hồng” cũng có “nhịp”, sinh động hơn. Cũng tương tự như
vậy “đầm đìa” bổ sung thêm cho tính từ “ướt” thấy được hình ảnh những cô gái bao
quanh đều là nước như cá dưới hồ. “Một thế hệ cứng đi như thỏi sắt”, cụm từ “cứng đi”
có tính từ “cứng” là thành tố trung tâm kết hợp với thực từ “đi” thể hiện mức độ của
“cứng” cao nhờ đó nâng cao tầm vóc cho “một thế hệ”.

c) Cụm từ đẳng lập
Cụm từ đẳng lập với tính chất là các thành tố trong cụm đóng vai trò ngang
nhau. Bởi vậy, sử dụng cụm từ đẳng lập không nhấn mạnh vào một nét tương đồng
của cái được so sánh và cái dùng để so sánh mà cụm từ đẳng lập sẽ giúp cho cơ sở
so sánh tăng thêm nét tương đồng trong một phép so sánh tu từ. Trong so sánh tu từ
A như B, 5 cụm từ đẳng lập được sử dụng làm cơ sở so sánh với tỷ lệ 21,7% trong
số các cụm từ:
Môi tôi run lên cổ tôi nghẹn nấc
Như sắp nghĩ ra một bài hát khác
Thật và đẹp hơn mọi điều trong sách
Về những con tàu và các bạn của tôi
(Những bạn khuân vác)
Đất lạnh lẽo sưng vù như mặt chết
(Móng tay trên đá)
Những cô gái gầy thơm
Như nến trắng đi trong đêm tối
(Cầu nguyện)
Mái tóc rậm xòa bay như ngọn khói
(Bài ca trên bán đảo)
cánh tay em dài và ấm
như đất của những miền phiêu lãng
(Ngọn lửa đen)



×