Tải bản đầy đủ (.pdf) (720 trang)

NHỮNG KIẾN THỨC cơ bản về QUẢN lý môi TRƯỜNG INTRODUCTION TO ENVIRONMENTAL MANAGEMENT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.52 MB, 720 trang )

NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN
VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG

1


VÕ ĐÌNH LONG

NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN
VỀ QUẢN LÝ MƠI TRƯỜNG
INTRODUCTION TO
ENVIRONMENTAL MANAGEMENT

NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT

2


LỜI NÓI ĐẦU
“NHỮNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG”
trang bị cho sinh viên khá nhiều nhóm kiến thức chính như: tổng quan về các
vấn đề môi trường hiện nay; các công cụ trong quản lý môi trường; luật và cơ
chế chính sách môi trường trong công tác quản lý; hệ thống quản lý môi trường;
những kiến thức cơ bản về quy hoạch môi trường; các chỉ số về chất lượng môi
trường đất, nước, không khí; hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật phục
vụ công tác quản lý môi trường; dấu chân môi trường.... Với tinh thần đó, cuốn
sách được biên soạn theo hướng vừa tập trung mang tính đơn ngành lại vừa mở
rộng mang tính liên ngành, đa ngành và vừa chuyên sâu với tư cách của một
ngành khoa học thực thụ, lại vừa có tính ứng dụng cao, phục vụ vào đời sống
của con người.
Cuốn sách này gồm 17 chương, mỗi chương chứa đựng một nội dung lớn


cần chuyển tải đến bạn đọc. Nhìn tổng thể, cuốn sách bao quát toàn bộ các nội
dung cơ bản của các vấn đề môi trường, các tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật môi
trường. Trong mỗi chương lại gồm những phần nhỏ mang một nội dung cơ bản
riêng, cụ thể và trong từng nội dung cụ thể đó lại được chia thành những vấn đề
nhỏ. Ngoài ra, chúng tôi còn tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh
tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát
triển bền vững kinh tế xã hội quốc gia không chỉ được áp dụng trong ngành
công nghiệp, mà còn trong các ngành dịch vụ, kể cả dịch vụ hành chính công,
trong mọi loại hình công ty, từ quy mô lớn đến quy mô nhỏ, cho dù có tham gia
vào thị trường quốc tế. Dựa vào cuốn sách này, chúng ta có thể biết được cách
khắc phục và phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường phát sinh trong hoạt
động sống của con người đảm bảo cho tổ chức làm đúng những việc phải làm
và để đạt được mục tiêu chất lượng không những giúp nâng cao chất lượng sản
phẩm mà còn kiểm soát tốt các nguồn phát sinh ô nhiễm môi trường do sản
phẩm gây ra.
Chương 1: Bối cảnh môi trường toàn cầu
Chương 2: Những vấn đề chung về quản lý môi trường
Chương 3: Các công cụ trong quản lý môi trường
Chương 4: Luật và cơ chế chính sách môi trường trong quản lý nhà nước
Chương 5: Hệ thống quản lý môi trường
Chương 6: Quản lý nhà nước về môi trường
Chương 7: Kiến thức cơ bản về quy hoạch môi trường
Chương 8: Quản lý năng lượng và môi trường
Chương 9: Quản lý tổng hợp môi trường biển, ven bờ
Chương 10: Quản lý môi trường khu công nghiệp
Chương 11: Quản lý môi trường đô thị
Chương 12: Tổng quan về các chỉ số chất lượng môi trường
Chương 13: Dấu chân môi trường

3



Chương 14: Hệ thống các tiêu chuẩn và quy chuẩn phục vụ công tác quản
lý môi trường
Chương 15: Quản lý các hệ sinh thái đất ngập nước
Chương 16: Quản lý môi trường nông nghiệp và nông thôn
Chương 17: Kiểm toán hệ thống quản lý môi trường
Như vậy, cuốn sách những kiến thức cơ bản về quản lý môi trường sẽ cung
cấp những kiến thức vừa cơ bản vừa hiện đại, khối kiến thức cập nhập của
ngành môi trường ứng dụng vào thực tế. Những vấn đề môi trường hiện nay
cũng như những thay đổi mới của các tiêu chuẩn Việt Nam được nhấn mạnh
trong cuốn sách thông qua việc phân tích rõ ràng, tìm hiểu kỹ lưỡng các chính
sách môi trường để giải quyết các vấn đề như ô nhiễm không khí, chất lượng
nước, chất thải rắn và chất thải nguy hại cũng như sự nóng lên toàn cầu.
Tác giả xin chân thành cảm ơn mọi ý kiến đóng góp của bạn đọc. Xin chân
thành cảm ơn Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật đã giúp đỡ tôi hoàn thành,
xuất bản và phát hành cuốn sách này.
Trong quá trình biên soạn sách, sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Tác
giả rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía bạn đọc, quý đồng nghiệp
và các bạn sinh viên để những lần tái bản sau được hoàn thiện hơn.
Thư từ góp ý xin gửi về:
Hoặc địa chỉ cơ quan của các tác giả:
Số 12 Nguyễn Văn Bảo, Phường 4, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 091.6.980768
Email:

4


BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AFEW
AQI
ASEP

: Austrian Water Management (quản lý nguồn nước Áo)
: Air Quality Index (chỉ số chất lượng không khí)
: Society Asia Environmental Protection (hội bảo vệ môi
trường châu Á)
BC
: Biocapacity (sức tải sinh học)
BĐKH
: Biến đổi khí hậu
BNNPTNT : Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
BOD
: Nhu cầu oxy sinh học
BQL
: Ban quản lý
BTN&MT : Bộ Tài nguyên Môi trường
BTTN
: Bảo tồn thiên nhiên
BVMT
: Bảo vệ môi trường
BVTV
: Bảo vệ thực vật
BYT
: Bộ y tế
CAC
: Command And Control (điều hành và kiểm soát)
CASCO
: Conformity Assessment Sale Consistent (ban đánh giá sự phù

hợp)
CBCN
: Khu chế biến công nghiệp
CCME
: Council of Canada Environmental (hội đồng bộ môi trường
Canada)
CDM
: The Clean Development Mechanism (cơ chế phát triển sạch)
CER
: Certified Emission Reductions (giảm phát thải được chứng
nhận)
CF
: Carbon footprint (dấu chân cacbon)
CIMA
: Hiệp hội kế toán quản trị công chứng Anh Quốc
CLMT
: Chất lượng môi trường
CNC
: Khu công nghệ cao
CNH
: Công nghiệp hóa
CNSH
: Khu công nghệ sinh học
CNST
: Khu công nghệ sinh thái
COD
: Nhu cầu oxy hóa học
CP
: Chính phủ
COPOLCO : Consumer Policy Committee (ban chính sách người tiêu

dùng)
CSM
: Center Sustainable Management (trung tâm quản lý bền
vững)
CTR
: Chất thải rắn
CTNH
: Chất thải nguy hại
DEVCO
: Development Committee (ban phát triển)
DLST
: Du lịch sinh thái
DO
: Oxy hòa tan
ĐBSCL
: Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH
: Đồng bằng sông Hồng

5


ĐDSH
ĐNN
ĐNNMT
ĐTM
EA
ECA
EF
EMA

EMP
EMS
EPI
FAO
FCCC
GCNQSD
GDP
GEO
GTSXTT
GTVT
GW
HĐND
HST
HTQLMT
HTX
IAEA
IEA
IET
IFAC
INFCO
IPCC
IUCN
JI
KCN
KCX
KNK
KPI

: Đa dạng sinh học
: Đất ngập nước

: Đun nước nóng mặt trời
: Đánh giá tác động môi trường
: Environmental Audit (kiểm toán môi trường)
: Environmental Cost Accounting (kiểm toán chi phí môi
trường)
: Ecological footprint (dấu chân sinh thái)
: Environmental Management Accounting (kiểm toán quản lý
môi trường)
: Environmental Management Program (chương trình quản lý
môi trường)
: Environmental Management System (hệ thống quản lý môi
trường)
: Earth Policy Institute (viện chính sách trái đất)
: Food and Agriculture Organization (tổ chức lương thực và
nông nghiệp)
: Framework Convention on Climate Change (công ước khung
về biến đổi khí hậu)
: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
: Gross Domestic Product (tổng sản phẩm nội địa)
: Global environmental outlook (viễn cảnh môi trường toàn
cầu)
: Giá trị sản xuất trồng trọt
: Giao thông vận tải
: Gigawatt (tỷ watt)
: Hội đồng nhân dân
: Hệ sinh thái
: Hệ thống quản lý môi trường
: Hợp tác xã
: International Atomic Energy Agency (cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế)

: International Energy Agency (Cơ quan Năng lượng Quốc tế)
: Trading Rights Mechanisms International Emissions (cơ chế
mua bán quyền phát thải quốc tế)
: International Auditing (kiểm toán quốc tế)
: Information Committee (ban thông tin)
: Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu
: Union for Conservation of Nature (hiệp hội bảo tồn thiên
nhiên thế giới)
: Joint Implementation (cơ chế đồng thực hiện)
: Khu công nghiệp
: khu chế xuất
: Khí nhà kính
: Key Performance Indicators (chỉ số đánh giá thực hiện công

6


KTTĐ
RNM
LCA
LPG
LHQ
MEMA
NASA
NCSCS

NEMA
NIWA
NOAA
NRC

NLS
NLSH
NLSK
NSF
OECD
OPEC
PEMA
PTBV
QCVN

QHMT
QHPT
QLMT
QLTHVB
REMCO
SQI
TCCP
TCVN
TNMT
TNTN

việc)
: Kinh tế trọng điểm
: Rừng ngập mặn
: Life cycle assessment (đánh giá vòng đời)
: Liquefied Petroleum Gas (khí hóa lỏng)
: Liên hiệp quốc
: Monetary Environmental Management Accounting (kiểm
toán quản lý môi trường tiền tệ)
: National Aeronautics and Space Administration (cơ quan

hàng không và vũ trụ Hoa Kỳ)
: National classification system for contaminated areas (hệ
thống phân loại quốc gia về vùng bị ô nhiễm)
: Nghị định
: Non-monetary Environmental Management Accounting
(kiểm toán quản lý môi trường phi tiền tệ)
: National And Issues Worldwide Atmospheric (vấn đề tranh
chấp toàn cầu về nước và khí quyển)
: The National Oceanic and Atmospheric Administration (cục
quản lý đại dương và khí quyển quốc gia Mỹ)
: National Research Council (hội đồng nghiên cứu quốc gia
Hoa Kỳ)
: Năng lượng sạch
: Nhiên liệu sinh học
: Năng lượng sinh khối
: Sanitation Fund for the United States (quỹ vệ sinh môi trường
Hoa Kỳ)
: Organization of Economic Cooperation and Development (tổ
chức hợp tác kinh tế và phát triển)
: Organization of Petroleum Exporting Countries (Tổ chức các
nước xuất khẩu dầu mỏ)
: Physical Environmental Management Accounting (kiểm toán
quản lý môi trường vật lý)
: Phát triển bền vững
: Quy chuẩn Việt Nam
: Quyết định
: Quy hoạch môi trường
: Quy hoạch phát triển
: Quản lý môi trường
: Quản lý tổng hợp vùng biển

: Quality Standard Committee (ban chất chuẩn)
: Soil Quality Indicators (chỉ số chất lượng đất)
: Tiêu chuẩn cho phép
: Tiêu chuẩn Việt Nam
: Tài nguyên môi trường
: Tài nguyên thiên nhiên

7


TCQCKT
TT
UBND
UNEP
UNFCCC
UNIDO
UNHABITAT
USEPA
VNPT
VQG
WB
WED
WQI
WHO
WMO
WWF
WEPZA
TMB

: Tiêu chuẩn quy chuẩn kỹ thuật

: Thông tư
: Ủy ban nhân dân
: United Nations Environment Programme (chương trình Môi
trường của Liên hợp quốc)
: United Nations Framework Convention On Climate Change
(công ước khung liên hợp quốc về biến đổi khí hậu)
: United Nations Industrial Development Organization) (tổ
chức Phát triển Công nghiệp Liên hiệp Quốc)
: The United Nations Human Settlements Programme (liên
hiệp quốc - chương trình định cư con người)
: United States Environmental Protection Agency (cơ quan bảo
vệ môi trường Hoa Kỳ)
: Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam
: Vườn quốc gia
: World Bank (ngân hàng thế giới)
: World Environment Day (ngày môi trường thế giới)
: Water Quality Indicators (chỉ số chất lượng nước)
: World Health Organization (Tổ chức Y tế thế giới)
: World Meteorological Organization (tổ chức khí tượng thế
giới)
: International Fund Nature Protection (quỹ Quốc tế bảo vệ
thiên nhiên)
: World Export Processing Zone Asssociation (Hội Khu chế
xuất trên thế giới)
: Technical Management Board (hội đồng quản lý kỹ thuật)

8


CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ
MÔI TRƯỜNG TOÀN CẦU
Nền kinh tế thế giới không ngừng tăng trưởng và trong tương lai sẽ như thế
nào? Liệu hậu quả về môi trường sẽ ra sao nếu như tốc độ tăng trưởng kinh tế
thế giới vẫn giữ nguyên? Đó là những câu hỏi mà các nhà môi trường học đặt ra
cho cả chúng ta và đó cũng chính là các vấn đề mà cả thế giới đang phải đối
mặt, những quan điểm về kinh tế trước đây “tăng trưởng hay là chết” đã dần
dần không còn nữa mà thay vào đó là “tăng trưởng và chết”.
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới như hiện nay đã tạo ra một
lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường, chất thải không được xử lý hoặc xử lý
chưa triệt để nên hậu quả mà con người phải gánh chịu là vô cùng lớn. Dựa trên
các số liệu về dân số thế giới, tốc độ công nghiệp hóa, tình trạng ô nhiễm môi
trường, sản lượng lương thực, thực phẩm, sự suy giảm các nguồn tài nguyên
(nhất là các nguồn tài nguyên không tái tạo được), các mô hình phân tích dự báo
của các nhà khoa học về viễn cảnh tương lai của môi trường, hình mẫu phát
triển kinh tế toàn cầu trong hai thế kỷ cả quá khứ và tương lai (từ năm 1900 2100) đều cho ra kết quả rất bi quan về tình trạng tài nguyên và môi trường.
Như vậy, điều căn bản nhất mà con người cần phải nhận thức đó chính là
thế giới đang có xu hướng gặp nhiều thảm họa do dân số tăng, sự tăng trưởng
nhanh chóng của các nền công nghiệp, tình trạng khai thác các nguồn dự trữ
TNTN (đất, nước, nhiên liệu hóa thạch... và các nguồn tài nguyên không tái tạo
khác), sự hủy hoại môi trường sống và tình trạng thiếu hụt lương thực. Vì thế,
phát triển bền vững là một trong những ý tưởng mà các nhà môi trường hướng
tới nhằm bảo vệ hành tinh vốn dĩ tươi đẹp và trong xanh của chúng ta.
1.1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
1.1.1. Gia tăng dân số
Chúng ta đang sống trong thời đại mà tốc độ phát triển kinh tế và gia tăng
dân số của nhiều quốc gia trên hành tinh diễn ra mãnh liệt. Việc khai thác sử
dụng tài nguyên ngày một nhiều hơn để đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống.
Bên cạnh những việc làm có tính chất tích cực như vậy, những việc làm suy
thoái môi trường do hậu quả của phát triển kinh tế và dân số đang hàng ngày

hàng giờ diễn ra khắp mọi nơi trên thế giới.
1.1.1.1. Lịch sử gia tăng dân số thế giới
a. Giai đoạn từ khởi thủy đến cuộc cách mạng nông nghiệp (7000 - 5500
trước công nguyên)
Theo ước tính của các nhà dân số học, cách đây hơn 1 triệu năm, dân số thế
giới chỉ có khoảng 125.000 người tập trung sống ở Châu Phi. Trong thời kỳ này,

9


kết cấu xây dựng chỗ ở chỉ bao gồm những sự sắp đặt đơn giản các hòn đá lại
với nhau để giữ các cành cây ở vị trí, sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm
trong môi trường sống.
b. Giai đoạn cách mạng nông nghiệp (từ năm 7000 - 5500 trước công
nguyên đến năm 1650)
Trong thời kỳ này, con người đã có thể canh tác nông nghiệp, do đó có thể tự
túc về lương thực, thực phẩm, nguồn dinh dưỡng phong phú hơn. Việc sản xuất
được lương thực, dự trữ thức ăn lâu dài đã cho con người định cư tại một nơi. Mức
sống được cải thiện như vậy đã thúc đẩy gia tăng dân số nhưng vẫn nằm trong sức
chịu của thiên nhiên.
c. Giai đoạn tiền công nghiệp (1650 - 1850)
Đây là một giai đoạn ổn định và hòa bình sau chế độ kinh tế phong kiến.
Trồng trọt và chăn nuôi phát triển, nạn đói bị đẩy lùi, dịch bệnh ít xảy ra. Kết quả
là dân số thế giới, đặc biệt là Châu Âu tăng vọt.
d. Giai đoạn cách mạng công nghiệp (1850 - 1930)
Đến gần cuối thế kỷ XIX xuất hiện một khuynh hướng khác kéo theo tỷ lệ
sinh giảm xuống ở các nước phương Tây. Nó đánh dấu một thời kỳ về dân số mà
ta gọi là sự chuyển tiếp dân số. Tỷ lệ tăng bình quân trong thời gian này là vào
khoảng 0,8% năm. Dân số thế giới tăng từ 1 tỷ lên 2,5 tỷ người. Trong khoảng thời
gian này, dân số Châu Á tăng dưới 2 lần, Châu Âu và Châu Phi tăng 2 lần, Bắc Mỹ

tăng 6 lần và Nam Mỹ tăng 5 lần.
e. Giai đoạn hiện đại (1930 - nay)
Từ những năm 40, khuynh hướng dân số thế giới bước qua giai đoạn “bùng nổ
dân số”. Đặc biệt là ở thành thị tăng mạnh, nguyên nhân là do sự mở rộng của thị
trường lao động đã tác động tới lượng dân di cư.

Hình 1.1. Biểu đồ sự phát triển dân số ở các nước đang phát triển và các nước
công nghiệp
Nguồn: U.S. C ensus Bureau - World Population Clock

10


Tỷ người

Sự chênh lệch về tốc độ phát triển dân số giữa các nước công nghiệp hóa và
các nước đang phát triển gia tăng dẫn đến sự nghèo đói ở các nước đang phát
triển và sự tiêu phí dư thừa ở các nước công nghiệp hóa. Sự chênh lệch ngày
càng tăng giữa các đô thị và nông thôn, giữa các nước phát triển và các nước
kém phát triển dẫn đến tình trạng di dân mọi hình thức.

10
9
8
7
6
5
4
3
2

1
0

Dân số

Năm

Hình 1.2. Biểu đồ tình hình gia tăng dân số thế giới
Nguồn: U.S. C ensus Bureau - World Population Clock
Một tính toán được cập nhật hàng năm Theo Liên Hiệp Quốc (LHQ), thì
hiện nay dân số thế giới đạt 7,2 tỷ người (tính tới tháng 7 năm 2013). Theo ước
tính hiện nay (cục điều tra dân số Hoa Kỳ), dân số thế giới đạt đến 8 tỷ năm
2028 và trên 9,2 tỷ năm 2050.
Vì vậy, một vấn đề mang tính cấp bách hiện nay là gia tăng dân số hợp lý,
chống suy thoái môi trường đảm bảo phát triển kinh tế xã hội.
Để đạt được mục tiêu trên cần phải lựa chọn các ưu tiên về môi trường cho
phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của từng quốc gia. Phải thừa nhận rằng suy
thoái môi trường gây ra hậu quả về các mặt:
- Tổn hại đến sức khỏe con người.
- Suy thoái và cạn kiệt các nguồn TNTN.
- Mất dần những tiện nghi mà thiên nhiên đã đem lại cho cuộc sống.
Vì vậy, tầm quan trọng mà mỗi quốc gia dành cho những vấn đề khác nhau
của môi trường ngày càng tăng, thường tương ứng với sự thay đổi xã hội khác
nhau.
1.1.1.2. Bùng nổ dân số ảnh hưởng đến an ninh lương thực
Dân số và lương thực không chỉ là nỗi lo của một gia đình, một chính phủ
mà của cả xã hội loài người. Vấn đề dân số, dưới tác động của nhiều yếu tố xã
hội cũng như điều kiện tự nhiên như biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường trên
toàn cầu, không dễ "chìm xuồng" như trước đây mà đang trở thành "giọt nước
cuối cùng" làm bùng nổ những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng khác khiến cho

"bức tranh toàn cảnh thế giới" nhanh chóng thay đổi.

11


Bùng nổ dân số và nỗi lo khủng hoảng an ninh lương thực. Thống kê cho
thấy, trong quá khứ cứ 1.000 năm thì dân số thế giới mới tăng gấp đôi. Nhưng
kể từ thế kỷ XVIII trở đi, thời gian trên đã bị thu hẹp lại với tốc độ ngày càng
nhanh (từ 200 năm xuống đến 80 năm và đến hiện nay chỉ còn lại 37 năm).
Theo báo cáo mới nhất của LHQ, với khoảng 9,2 tỷ người so với con số khoảng
7,2 tỷ người hiện nay và như vậy, dân số thế giới đã vượt quá "giới hạn bền
vững" của trái đất.
Theo tính toán của chương trình môi trường LHQ (United Nations
Environment Programme - UNEP), mỗi ngày hành tinh chúng ta lại có thêm
200.000 trẻ em ra đời và để nuôi sống được 9,2 tỷ con người, sản lượng lương
thực thế giới cần phải tăng gấp rưỡi so với hiện nay, nghĩa là trong 40 năm tới
con người cần phải có một lượng lương thực tương đương đã được sản xuất ra
trong 8.000 năm qua.

Hình 1.3. Dân số tăng nhanh là nỗi lo với an ninh lương thực
Trong báo cáo mới nhất, viện chính sách trái đất (Earth Policy Institute EPI) cảnh báo hiện tượng thiếu hụt lương thực đã bắt đầu xuất hiện rõ nét vào
cuối năm 2010 và bước sang năm 2011, thế giới đang hình thành "bong bóng
thực phẩm" và bong bóng này có thể vỡ bất cứ lúc nào với hậu quả khó lường
như đã từng xảy ra trong cuộc khủng hoảng lương thực vào năm 2008 với các
cuộc bạo loạn tại 33 nước và đẩy hơn 100 triệu người lún sâu hơn vào cảnh đói
nghèo.
Theo AFP, chỉ số giá cả của 55 mặt hàng nhu yếu phẩm như thịt, ngũ cốc,
đường, sữa... đã tăng lên rất cao và hiện nay tổ chức lương thực và nông nghiệp
liên hiệp quốc (Food and Agriculture Organization of the United Nations FAO) bắt đầu thống kê giá lương thực.


12


Tổng giám đốc ngân hàng thế giới (World Bank - WB), Robert Zoellick
từng lên tiếng cảnh báo rằng thách thức lớn nhất đối với các quốc gia đang phát
triển hiện nay chính là nguy cơ gia tăng giá lương thực, thực phẩm. Tỷ lệ người
dân ở các nước đang phát triển phải gánh chịu nạn đói trong giai đoạn năm 2005
- 2007 ở mức 16% dù tỷ lệ người nghèo cùng cực có giảm xuống. Báo cáo mới
nhất của Liên hợp quốc cho biết, mặc dù số người nghèo đói trên thế giới giảm
mạnh trong hai thập kỷ qua nhưng vẫn còn khoảng 870 triệu người bị suy dinh
dưỡng mãn tính.
Báo cáo của UNEP nhấn mạnh, mấy chục năm qua, song song với việc
không ngừng đẩy mạnh công nghiệp hóa toàn cầu, dân số tiếp tục tăng, môi
trường toàn cầu đã không ngừng xấu đi. Ông Kevin Trenberth, giám đốc trung
tâm nghiên cứu khí quyển quốc gia tại Boulder thuộc bang Colorado (Mỹ), nhận
định: "thời tiết khắc nghiệt có thể gây nên cuộc khủng hoảng lương thực toàn
cầu".
Lúa là một loại cây lương thực nuôi sống hơn một nửa dân số thế giới.
Theo tính toán, tới năm 2030 sản lượng lúa của thế giới có thể tăng thêm 60%
so với sản lượng năm 1995. Về mặt lý thuyết, lúa có khả năng cho sản lượng
cao hơn nữa, song điều kiện canh tác như hệ thống tưới tiêu, chất lượng đất,
biện pháp thâm canh và biến đổi khí hậu đang ngăn cản xu thế tăng cao sản
lượng lúa. Hàng loạt vấn đề về thiên nhiên và môi trường nếu không cải thiện
tốt thì đến năm 2050, sản lượng lương thực toàn cầu có thể giảm 25%, giá
lương thực sẽ có thể tăng từ 30% - 50%.
Khủng hoảng dầu mỏ cũng có tác động tiêu cực tới an ninh lương thực thế
giới. Hoa Kỳ, nước xuất khẩu ngũ cốc hàng đầu thế giới, đã dành ra 30% số
lượng bắp sản xuất đại trà để chế biến nhiên liệu thay thế xăng. Viện chính sách
trái đất (EPI - Earth Policy Institute) có trụ sở tại Washington đã có một so sánh
thú vị: số hạt ngô cần để tạo đủ nhiên liệu đổ đầy bình xăng trong một chiếc xe

nhãn hiệu SUV có thể nuôi đủ một người no đủ suốt năm. Ngoài ra, nguồn nước
bên dưới tầng địa chất bị cạn kiệt, băng tan làm nước biển dâng lên gây hiện
tượng xâm mặn vào tầng nước dưới đất và nhiễm mặn trên đất canh tác tại châu
Á làm giảm sản lượng lương thực.
Bảo đảm an ninh lương thực là một trong những yêu cầu tiên quyết cho sự
ổn định và phát triển. Theo báo cáo phát triển toàn cầu hàng năm của Ngân
hàng Thế giới (WB), trong năm 2012, các cải cách làm tăng sự tham gia của
phụ nữ trong sản xuất lương thực đã giúp cải thiện tình trạng nông nghiệp và an
ninh lương thực. Chính nhờ đó, phụ nữ có thể tiếp cận nhiều hơn đến các dịch
vụ giáo dục, kỹ thuật và tài chính.
Với những nỗ lực và thành tựu to lớn đó, nhiều quốc gia đã tự túc được
lương thực, góp phần bảo đảm an ninh lương thực cho khu vực và toàn cầu.
Song theo đánh giá của FAO, hiện thế giới vẫn có gần một nửa dân số, tương
đương với gần 3 tỉ người, phải sống dựa vào lúa gạo. Trong khi đó khoảng 90%
sản lượng gạo của toàn thế giới được sản xuất tại châu Á nhưng lại có tới 65%
dân số của châu lục này đang bị thiếu lương thực. Như vậy, việc bảo đảm an
ninh lương thực vẫn còn là một thách thức lớn mang tính toàn cầu.

13


Một trong những biện pháp gia tăng an ninh lương thực là kiểm soát dân số
và áp dụng công nghệ xanh trong nông nghiệp. Trong hơn 30 năm, dân số
Trung Quốc ngoài việc giảm sinh con còn kiên quyết duy trì bằng được 105
triệu ha đất nhằm canh tác. Điều này đã giúp Trung Quốc trở thành quốc gia có
khả năng tự cung cấp lương thực lớn nhất thế giới.
Đối với Ấn Độ, cho dù dân số đã vượt ngưỡng 1 tỷ người, nhưng nhờ thành
tựu của "cách mạng xanh" trong mấy thập kỷ vừa qua nên đã có năm Ấn Độ dư
thừa và xuất khẩu lương thực.
Kinh nghiệm Nhật Bản cho thấy, 50% diện tích đất trồng lúa đã bị mất

trắng trong thời kỳ 1965 - 1990 để phát triển đô thị và công nghiệp, nhưng họ
đã tạo ra kỳ tích về thâm canh tăng năng suất lúa và đồng thời thay đổi phong
cách ẩm thực ăn ít gạo, mặt khác do thu nhập cao nên phần tiền để mua gạo
không đáng kể so với chi tiêu hằng ngày, nên an ninh lương thực cho hơn 127
triệu dân vẫn đứng vững.
Tuy vậy, cần phải nhấn mạnh rằng: tăng năng suất không thể là vô hạn. Ví
dụ, tại Nhật Bản, năng suất trồng lúa liên tục gia tăng trong nhiều thập niên, tuy
nhiên từ 14 năm nay, chỉ số năng suất này đã bị dừng lại. Trung Quốc và Hàn
Quốc cũng đang tiến gần đến mức thu hoạch tối đa tương tự như tại Nhật Bản.
Nhằm tăng diện tích canh tác, hiện nay một số các nước như Hàn Quốc, Nhật
Bản… đang thực hiện chiến lược thuê ruộng đất ở các nước khác để sản xuất
lúa ngoài lãnh thổ.
Với Việt Nam, từ một đất nước phải nhập khẩu lương thực, chúng ta đã
vươn lên vị trí "cường quốc" xuất khẩu gạo, năm 2010 đạt sản lượng gần 7 triệu
tấn xuất ra thị trường thế giới. Thành tựu này có vai trò rất quan trọng với sự ổn
định chính trị, xã hội; góp phần thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và
an ninh lương thực của đất nước.
1.1.1.3. Dân số Việt Nam
Việt Nam, một nước có quy mô dân số lớn, đứng thứ 3 ở Đông Nam Á, thứ
14 trên thế giới và là một trong những nước có mật độ dân số cao. Nguy cơ
bùng nổ dân số đang đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước.

14


Người

90000000
80000000
70000000

60000000
50000000
40000000
30000000
20000000
10000000
Năm

0
Nam

Nữ

Hình 1.4. Biểu đồ dân số trung bình phân theo giới tính ở Việt Nam
Nguồn: Dân số 2000 - 2012 điều chỉnh theo tổng điều tra dân số và nhà ở
01/04/2012
Năm 2012, dân số Việt Nam là 88.780.000 người, trong đó có 43.433.854
nam (chiếm 49,4%) và 44.860.000 nữ (chiếm 50,6%).
So với năm trước, số dân nước ta tăng thêm 940000 người, bình quân mỗi
năm tăng 952.000 người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân/năm giữa 2 năm 2000 và
2009 là 1,2%/năm, so với thời kỳ 10 năm trước (1989 - 1999), mỗi năm tăng
gần 1,2 triệu người (với tỷ lệ tăng hàng năm là 1,7%/năm).
Kết quả này khẳng định mức sinh của Việt Nam đã liên tục giảm trong 10
năm qua, phù hợp với các số liệu thống kê từ các cuộc điều tra biến động dân số
và kế hoạch hóa gia đình hàng năm của tổng cục thống kê.
Dân số ngày càng tăng là một áp lực rất lớn đối với những nỗ lực giải quyết
việc làm, cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản và phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ
môi trường.
1.1.2. Các vấn đề môi trường
1.1.2.1. Hoạt động giao thông vận tải

Ngày nay, hoạt động giao thông vận tải ngày càng tăng do nhu cầu vận
chuyển hàng hóa và đi lại của con người, đặc biệt là ở các khu công nghiệp, khu
đô thị. Điều đó đã tác động mạnh đến môi trường.
- Biến đổi khí hậu: các hoạt động của ngành giao thông vận tải thải ra
hàng triệu tấn khí mỗi năm vào khí quyển. Chúng bao gồm chì (Pb), khí carbon
monoxide (CO), carbon dioxide (CO2), khí mêtan (CH4), các oxit nitơ (NOx),
nitơ oxit (N2O), chlorofluorocarbons (CFCs), perfluorocarbons (PFCs), silicon
tetraflouride (SF6), benzen và các thành phần dễ bay hơi, kim loại nặng (kẽm,
crôm, đồng và cadmium) và các hạt (tro, bụi). Các khí thải này ảnh hưởng đến
biến đổi khí hậu ở nồng độ nhất định. Một số các chất khí, đặc biệt là nitơ oxit,
cũng tham gia vào tầng bình lưu làm suy yếu tầng ôzôn (O3), tầng đóng vai trò
là lớp màn tự nhiên giúp bề mặt trái đất khỏi bức xạ tia cực tím.
- Chất lượng không khí: xe cộ, tàu thủy, đầu máy xe lửa và máy bay là
nguồn ô nhiễm ở dạng khí và hạt, vấn đề khí thải có ảnh hưởng đến chất lượng

15


không khí gây thiệt hại cho sức khỏe con người. Các chất ô nhiễm không khí
độc hại có liên quan tới bệnh ung thư, bệnh tim mạch, hô hấp và thần kinh.
Carbon monoxide (CO) khi hít ảnh hưởng đến dòng máu, làm giảm sự sẵn có
của oxy và cực kỳ có hại cho sức khỏe cộng đồng. Sự phát thải khí nitơ (NO2)
từ các nguồn vận chuyển làm giảm chức năng phổi, ảnh hưởng đến hệ thống
phòng thủ miễn dịch đường hô hấp và tăng nguy cơ của các vấn đề hô hấp. Phát
thải khí lưu huỳnh (SO2) và các oxit nitơ (NOx) trong các hình thức khác nhau ở
không khí có tính axit mà khi trộn lẫn trong đám mây chứa nước tạo ra mưa
axit. Lượng mưa axit có tác dụng bất lợi về môi trường xây dựng, làm giảm
năng suất cây trồng nông, lâm nghiệp gây ra suy giảm. Việc giảm khả năng xuất
hiện của sương có một số ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống và sức hấp
dẫn của khu du lịch. Hạt phát thải ở dạng bụi phát ra từ ống xả xe cũng như từ

các nguồn không khí như xe cộ và mài mòn đường có ảnh hưởng đến chất
lượng không khí. Các tính chất vật lý và hóa học của hạt có liên quan đến nguy
cơ sức khỏe như các vấn đề về hô hấp, kích ứng da, viêm mắt, máu đông máu
và các loại dị ứng.
- Tiếng ồn: tiếng ồn là ảnh hưởng của âm thanh bất thường và hỗn loạn.
Tiếng ồn làm chấn thương cơ quan thính giác và có thể ảnh hưởng đến chất
lượng cuộc sống. Lâu dài, tiếp xúc với tiếng ồn trên 75dB ảnh hưởng nghiêm
trọng đến thính giác, vật chất và tinh thần của con người. Tiếng ồn giao thông
vận tải phát ra từ sự chuyển động của phương tiện vận tải và các hoạt động của
cảng, sân bay ảnh hưởng đến sức khỏe con người, gia tăng nguy cơ mắc bệnh
tim mạch. Tăng mức độ ồn có tác động tiêu cực đến môi trường đô thị phản ánh
trong giá trị đất và mất đất sử dụng.
- Chất lượng nước: hoạt động giao thông vận tải tác động vào các điều
kiện thủy văn. Nhiên liệu, hóa chất và các chất nguy hại thải bỏ các hạt bụi từ
máy bay, xe hơi, xe tải, xe lửa hoặc từ các cảng và hoạt động của sân bay, hoạt
động sản xuất nông nghiệp có thể gây ô nhiễm sông, hồ, đất ngập nước và đại
dương. Do nhu cầu về dịch vụ vận chuyển ngày càng tăng, lượng khí thải của
vận tải biển là nhân tố quan trọng nhất cho chất lượng nước. Các tác động chính
của hoạt động vận tải hàng hải đến chất lượng nước chủ yếu phát sinh từ nạo
vét, chất thải và sự cố tràn dầu. Nạo vét là quá trình đào sâu thêm các kênh cảng
bằng cách loại bỏ các trầm tích dưới đáy đại dương. Nạo vét duy trì độ sâu của
nước đủ cho các hoạt động vận chuyển và khả năng truy cập cảng. Nạo vét thay
đổi bằng cách tạo ra độ đục thủy văn ảnh hưởng đến ĐDSH biển. Nước và trầm
tích ô nhiễm bởi nạo vét cần đưa ra các kỹ thuật xử lý nạo vét hư hỏng và kỹ
thuật khử nhiễm. Xử lý chất thải được tạo ra bởi các hoạt động của tàu thuyền
trên biển, tại cảng gây ra vấn đề nghiêm trọng môi trường, vì chúng có thể chứa
một mức độ rất cao của các vi khuẩn có thể nguy hại cho sức khỏe cộng đồng
cũng như HST biển khi thải ra trong nước. Bên cạnh đó, các loại rác thải có
chứa kim loại và nhựa không dễ phân hủy sinh học có thể vẫn tồn tại trên bề
mặt nước biển trong thời gian dài và có thể là một trở ngại nghiêm trọng cho

hàng hải ở đường thủy nội địa và trên biển ảnh hưởng đến hoạt động giao thông
cũng như cập bến. Các sự cố tràn dầu từ tai nạn tàu thuyền là một trong những
vấn đề nghiêm trọng nhất của ô nhiễm từ các hoạt động vận tải hàng hải.

16


- Chất lượng đất: các tác động môi trường do giao thông vận tải tác động
vào đất bao gồm xói mòn đất và ô nhiễm đất. Phương tiện vận tải ven biển có
tác động đáng kể đến xói mòn đất. Các hoạt động vận chuyển làm thay đổi quy
mô và phạm vi của sóng dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng ở các con kênh. Việc
loại bỏ các bề mặt của trái đất để xây dựng đường cao tốc hoặc lớp bề mặt giảm
đi cho phát triển cảng và sân bay đã dẫn đến bị mất đất đai màu mỡ và năng suất
cây trồng. Đất ô nhiễm có thể xảy ra thông qua việc sử dụng các vật liệu độc hại
của ngành công nghiệp vận tải. Nhiên liệu và sự cố tràn dầu từ xe có động cơ
được rửa từ bên đường và thấm vào đất. Hóa chất sử dụng cho việc bảo trì
đường sắt có thể thấm vào đất. Vật liệu và kim loại nặng độc hại được tìm thấy
ở khu vực tiếp giáp với đường sắt, cảng và sân bay. Ngoài ra, một lượng hóa
chất, thuốc BVTV do quá trình sản xuất nông nghiệp cũng là một nguyên nhân
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng môi trường đất.
- Đa dạng sinh học: giao thông vận tải cũng ảnh hưởng đến thảm thực
vật tự nhiên. Sự cần thiết của vật liệu xây dựng và phát triển giao thông vận tải
trên đất liền đã dẫn đến nạn phá rừng. Nhiều tuyến đường vận chuyển có yêu
cầu thoát nước, làm giảm các vùng đất ngập nước và các loài cây ưa nước. Sự
cần thiết để duy trì đường bộ và đường sắt dù cách này hay cách khác để ổn
định độ dốc dọc theo các cơ sở giao thông vận tải đã dẫn đến hạn chế tăng
trưởng của thực vật. Nhiều loài động vật tuyệt chủng như là kết quả của những
thay đổi trong môi trường sống tự nhiên của họ, giảm diện tích sống.
- Đất bị mất: cơ sở vận tải có ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị. Việc phát
triển cơ sở hạ tầng cảng và sân bay là tính năng quan trọng của xây dựng môi

trường đô thị và ven đô. Xã hội và sự gắn kết kinh tế có thể được cắt đứt khi
phương tiện vận chuyển mới như đào tạo nâng cao và các cấu trúc đường cắt
ngang qua một cộng đồng đô thị hiện có. Quá nhiều phương tiện vận tải có thể
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống đô thị bằng cách tạo ra các rào cản vật lý,
gia tăng mức độ tiếng ồn, tạo ra mùi hôi, làm giảm tính thẩm mỹ đô thị và ảnh
hưởng đến di sản được xây dựng.
1.1.2.2. Chất thải rắn công nghiệp và chất thải rắn nguy hại
Hoạt động sản xuất tại các KCN đã phát sinh một lượng không nhỏ CTR và
CTNH. Trong đó thành phần CTR nguy hại của các KCN thường chiếm dưới
20% nếu được phân loại tốt và tỷ lệ các chất có thể tái chế hay tái sử dụng cũng
khá cao (kim loại, hóa chất…) và thành phần có nhiệt trị cao không nhiều (sơn,
cao su…). Tuy nhiên, có nhiều KCN mới xuất hiện (nhất là ngành điện tử) tỷ lệ
nguy hại có thể vượt con số 20%.
Tổng lượng CTR trung bình của cả nước đã tăng từ 25.000 tấn/ngày (năm
1999) lên khoảng 30.000 tấn/ngày (năm 2005), trong đó lượng CTR từ hoạt
động công nghiệp cũng có xu hướng gia tăng, phần lớn tập trung tại các KCN ở
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong
những năm gần đây, cùng với sự mở rộng của các KCN, lượng CTR từ các
KCN đã tăng đáng kể (hình 1.5), trong đó, lượng CTNH gia tăng với mức độ
khá cao (hình 1.6).

17


Hình 1.5. Biểu đồ khối lượng chất thải rắn phát sinh tại các KCN

Hình 1.6. Biểu đồ chất thải nguy hại phát sinh tại các KCN
Theo ước tính đến năm 2020, khối lượng CTR công nghiệp Việt Nam sẽ là
11.859 tấn/ngày, trong đó CTNH là 2.391 tấn/ngày. Khu vực phía Nam, đặc biệt
là Đông Nam Bộ, hiện là khu vực phát sinh chất thải rắn công nghiệp nhiều

nhất.
1.1.2.3. Nước thải
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, sự phát triển của KCN đã tạo sức ép
không nhỏ đối với môi trường. Với đặc thù là nơi tập trung các cơ sở công
nghiệp thuộc các ngành nghề, lĩnh vực khác nhau, nếu công tác BVMT không
được đầu tư đúng mức thì chính các KCN trở thành nguồn thải ra môi trường
một lượng lớn chất thải gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe, cuộc

18


sống của cộng đồng xung quanh các tác động xấu lên HST nông nghiệp và thủy
sinh.
Trong những năm gần đây, sự gia tăng nước thải là rất lớn. Tốc độ gia tăng
này cao hơn nhiều so với sự gia tăng tổng lượng nước thải từ các lĩnh vực trong
toàn quốc (hình 1.7)

Hình 1.7. Biểu đồ tỷ lệ gia tăng lượng nước thải từ các KCN và tỷ lệ gia tăng
tổng lượng nước thải từ các lĩnh vực trong toàn quốc
Nguồn: TCMT tổng hợp, năm 2009
Theo quy hoạch phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020, tổng diện tích các KCN sẽ ngày càng gia tăng. Theo đà
phát triển của các KCN sẽ tăng tương ứng (hình 1.8)

Hình 1.8. Biểu đồ dự báo tổng lượng nước thải từ các KCN trên toàn quốc đến
năm 2020
Nguồn: TCMT tổng hợp, năm2009

19



7000000

kg/ngày

kg/ngày

Nếu việc xử lý chất thải tại các KCN không được chú trọng thì các chất ô
nhiễm được thải ra môi trường là rất cao.
12.1.2.4. Khí thải
70% khí thải ô nhiễm từ hoạt động giao thông, tăng phương tiện giao thông
là nguyên nhân chính gây ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn. Những yếu tố
gây ô nhiễm môi trường không khí do phương tiện giao thông cơ giới đường bộ
chủ yếu là CO2, SO2, O3, NO2, chì, bụi, khói đen, VOC, hyđro cacbon, tiếng ồn.
Dựa trên diện tích đất công nghiệp được quy hoạch và hệ số ô nhiễm do khí
thải từ các KCN, có thể ước tính được tải lượng ô nhiễm không khí từ các KCN
(hình 1.9).
6000000
5000000

700000
600000
500000
400000

4000000
3000000

300000


SO2

2000000

200000

1000000

100000
0

0
2009

2010

2015

2020

2009

Năm

2010
Bụi

2015
NO2


2020

Năm

CO

Hình 1.9. Biểu đồ dự báo tải lượng các chất ô nhiễm trong không khí từ các
KCN trong toàn quốc đến năm 2020
Nguồn: TCMT tổng hợp, năm 2009
1.1.2.5. Sự tập trung dân cư
Do quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, năm 2007, lần đầu tiên trong lịch
sử số lượng cư dân đô thị vượt quá số lượng người dân nông thôn.
Hầu như tất cả các sự tăng dân số dự kiến 2000 - 2030 sẽ được tập trung ở
các khu đô thị của thế giới. Trong năm 2000, 2,9 tỷ người sống ở khu vực đô
thị, bao gồm 47% dân số thế giới. Đến năm 2030, 4,9 tỷ người dự kiến sẽ sống
ở các vùng đô thị (tương đương 60% dân số của thế giới). Trong thời gian đó,
dân số đô thị sẽ tăng 2 tỷ người, con số sẽ được thêm vào toàn bộ dân số thế
giới.
Việc di dân từ nông thôn ra thành thị dẫn đến mật độ dân số ở thành thị
tăng cao do: quá trình đô thị hóa - công nghiệp hóa nhanh cùng với sự thay đổi
điều kiện sống đã làm cho một bộ phận dân cư ở nông thôn di cư mạnh ra các
đô thị. Số dân cư sống ở thành thị tăng đột biến với mật độ dân cư dày đặc gây
mất cân đối giữa thành thị và nông thôn, đồng thời đặt ra những vấn đề nan giải
về giải quyết công ăn việc làm, thất nghiệp tại chỗ, nhà ở và tệ nạn xã hội làm
cho trật tự xã hội ngày càng thêm phức tạp. Người di cư nông thôn chiếm tới
1/3 dân số của TP.Hồ Chí Minh và 1/10 dân số của các thành phố lớn. Dân số
đô thị của các thành phố lớn năm 2010 trung bình khoảng 3,9 - 4,2 triệu người,
năm 2020 là 7,9 - 8,5 triệu người; còn với TP.Hồ Chí Minh năm 2010 gần 8
triệu người, đến 2025 là 16 - 17 triệu người.


20


Tình trạng thất học, thất nghiệp và phân hóa giàu nghèo: trong quá trình hội
nhập và phát triển, người dân đô thị cần có trình độ văn hóa tay nghề cao để tiếp
cận với khoa học kỹ thuật - công nghệ và đáp ứng với nhu cầu tuyển dụng lao
động. Song thực tế cho thấy ở các đô thị và các vùng ven đô vẫn còn một bộ
phận không nhỏ những người thất nghiệp, trình độ học vấn không cao. Đây chủ
yếu là những lao động giản đơn di cư từ khu vực nông thôn lên thành thị để
kiếm việc làm. Phần lớn trong số họ chỉ tìm được công việc giản đơn trong các
KCN, KCX ở gần thành thị, một số khác kém may mắn hơn phải lang thang tìm
kiếm công việc không ổn định trong nội thị với thu nhập ít ỏi. Nhiều vấn đề
phát sinh cũng bắt nguồn từ đây, khi thu nhập của người lao động không đủ tích
lũy để gửi về gia đình như kỳ vọng trước đó. Tính đến tháng 10/2009 cả nước
có hơn 223 KCN, KCX phân bổ ở 56/63 tỉnh thành trên cả nước với khoảng
trên 1 triệu người lao động đang làm việc, trong đó có 700.000 người lao động
di cư từ các tỉnh khác hoặc huyện khác đến. Do chỉ được hưởng mức lương
thấp, lại phải làm việc vất vả nên số lao động di cư này dễ nảy sinh những bất
đồng và có những hành động thiếu kiềm chế. Đây là sự bất ổn đối với chủ
trương phát triển một xã hội đô thị công bằng, ổn định và văn minh.
Vấn đề nhà ở và quản lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị: Nhìn chung hầu hết
ở các đô thị hiện nay đều xảy ra tình trạng thiếu nhà ở. Đặc biệt là dân nghèo đô
thị và những người mới nhập cư vào thành phố. Hiện 25% cư dân thành thị Việt
Nam không đủ tiền để mua nhà ở, 20% nhà ở thành thị bị xếp vào loại không
đạt tiêu chuẩn, TP. Hồ Chí Minh còn có 300 ngàn người đang sống trong các
nhà ổ chuột, 30% dân số các thành phố lớn phải sống trong môi trường chật
chội với diện tích ở không quá 3m2/người. Chính vì thế một số người đã bất
chấp những quy định về quản lý đô thị, tự ý san lấp, lấn chiếm, sang nhượng đất
để xây nhà một cách tạm bợ, tùy tiện không theo quy hoạch gây ảnh hưởng đến
mỹ quan của các đô thị. Việc xây dựng không theo quy hoạch làm xuất hiện

tình trạng “nhà không số, phố không tên” chen lấn hỗn độn, tối tăm, chật chội.
Điều này đã phần nào tạo điều kiện thuận lợi cho các tệ nạn xã hội, tội phạm lẫn
trốn pháp luật, gây khó khăn cho công tác quản lý trật tự an toàn xã hội.
Vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước tại các đô thị việc chiếm
dụng đất công, san lấp mặt bằng, sông ngòi, lấn chiếm lòng lề đường để làm nhà
và xây dựng trái phép diễn ra hàng ngày làm cản trở đến việc tiêu, thoát nước và
chất thải đô thị. Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở hạ tầng không đáp ứng đủ, đường
xá giao thông tắc nghẽn, nguồn nước ngầm và các dòng sông bị đe dọa nhiễm
bẩn nghiêm trọng vì chất thải, không khí ngày càng ô nhiễm nặng nề, bụi công
trường, khói xe, khói nhà máy sản xuất công nghiệp. Chất lượng không khí tại
các thành phố lớn và đặc biệt tại TP.Hồ Chí Minh thuộc vào loại tồi nhất trong
khu vực. Phần lớn hệ thống nước thải không được xử lý hoặc xử lý không hiệu
quả, khối lượng CTR đang gia tăng nhanh chóng và chỉ có một phần nhỏ lượng
chất thải công nghiệp nguy hại được xử lý an toàn.
1.1.2.6. Chiếm dụng đất nông nghiệp
Hiện nay, do yêu cầu công nghiệp hóa, đô thị hóa, lấy đi một phần đất nông
nghiệp để xây dựng các KCN, khu đô thị mới và xây dựng kết cấu hạ tầng phục
vụ cho phát triển kinh tế chung của đất nước. Đó là một yêu cầu khách quan và

21


còn có xu hướng phát triển trong tương lai. Tuy nhiên, việc lấy đất nông nghiệp
để phát triển các KCN, các khu đô thị mới đã làm xuất hiện việc nhiều hộ nông
dân không có đất hoặc thiếu đất sản xuất, làm giảm tính ĐDSH, vấn đề về an
ninh lương thực trở nên khó khăn.
1.1.2.7. Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất
Quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất chưa hợp lý
- Lãng phí nguồn lực: đất đai, nguồn lực vật chất hữu hạn và cực kỳ quan
trọng của một quốc gia. Trong xu thế tất yếu của quá trình đô thị hóa và phát

triển các KCN, KCX làm cho quỹ đất nói chung và quỹ đất nông nghiệp nói
riêng ngày càng thu hẹp. Nhiều KCN, KCX có thể đặt tại những khu vực không
phải là đất nông nghiệp, song vì nhiều lý do khác nhau, các KCN lại được xây
dựng trên những khu vực đất canh tác (các KCN Hải Dương).
- Có quá nhiều KCN, KCX được hình thành nhưng không được “lấp
đầy” và để “lấp đầy” (hình thức) các địa phương sẵn sàng cho thuê với giá rất
rẻ. Đã có nhiều doanh nghiệp thuê đất, sau một thời gian lại cho doanh nghiệp
khác thuê lại với giá cao hơn. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng cạnh tranh
không lành mạnh giữa các địa phương, giữa các KCN, gây lãng phí cho xã hội.
Nhiều địa phương đã tự ý ban hành các chính sách ưu đãi thái quá “mời chào”
các nhà đầu tư vượt quá quy định chung của chính phủ và các bộ, ngành để thu
hút đầu tư, chấp nhận dùng ngân sách địa phương bù lỗ, làm ảnh hưởng tới ngân
sách nhà nước.
- Tình trạng thiếu đồng nhất giữa quy hoạch ngành với quy hoạch lãnh
thổ: cuộc chạy đua thành lập các KCN, KCX với mục đích là có KCN, KCX và
hi vọng hưởng lợi từ các KCN đang làm mất đi quy hoạch tổng thể, không gắn
quy hoạch KCN, KCX với quy hoạch ngành, vùng và quy hoạch lãnh thổ quốc
gia, chưa xem xét đầy đủ tất cả các yếu tố: vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên,
nguồn lực vật chất, tài nguyên, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực,... để giải quyết
tối ưu bài toán quy hoạch. Tình hình đầu tư phát triển các KCN không theo quy
hoạch tổng thể, thiếu sự phối hợp giữa các địa phương trong vùng nên đã không
tận dụng được lợi thế so sánh, dẫn đến tình trạng cạnh tranh gay gắt làm hiệu
quả hoạt động các KCN bị giảm sút.
- Chưa thống nhất quan điểm phát triển kinh tế và vấn đề xã hội: một số
địa phương (như Hưng Yên, Hải Dương, Đồng Nai, Long An…) do quy hoạch
phát triển các KCN chưa hợp lý, sử dụng nhiều đất chuyên trồng lúa, đất có ưu
thế đối với sản xuất nông nghiệp, đất đang có khu dân cư tại những vị trí có hạ
tầng kỹ thuật dẫn đến tình trạng các hộ nông dân bị thu hồi đất, không có đất
canh tác, ảnh hưởng đến đời sống và gây tâm lý bất ổn trong nhân dân. Nhiều
KCN chưa thực sự quan tâm đến vấn đề BVMT, vi phạm tiêu chuẩn môi trường

khi tiến hành sản xuất, vi phạm các cam kết thực hiện các biện pháp BVMT.
- Kết cấu hạ tầng đắt đỏ, ứ đọng vốn, vướng mắc trong giải tỏa, đền bù
đẩy giá thuê đất lên cao. Mạng lưới KCN, KCX nặng tính cục bộ, khép kín
trong địa giới hành chính, xuất hiện sự cạnh tranh không lành mạnh. Tình trạng
“quy hoạch treo”, “dự án treo”, “đền bù treo” đang diễn ra phổ biến ở hầu hết
các tỉnh, dân mất đất không có việc làm, mất lòng tin, nảy sinh nhiều vấn đề
tiêu cực khác trong xã hội. Tình trạng các KCN được xây dựng theo “nhiệm

22


kỳ”, tệ nạn xin - cho vẫn còn phổ biến trong việc phê duyệt dự án đầu tư, phê
duyệt và đưa vào quy hoạch phát triển KCN ở các địa phương, làm phá vỡ quy
hoạch tổng thể phát triển KCN của cả nước và sự thiếu các chuẩn mực để xây
dựng một KCN của cơ quan trung ương dẫn đến hiện tượng các KCN được xây
dựng theo kiểu phong trào, đầu tư tràn lan, dàn trải, kém hiệu quả xảy ra ở rất
nhiều nơi và ngày càng nghiêm trọng.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch và việc
xử lý đơn khiếu kiện liên quan đến việc đền bù giải phóng mặt bằng bị buông
lỏng và không giải quyết kịp thời gây ra nhiều bức xúc cho người dân có đất bị
thu hồi. Chưa có cơ chế kiểm tra, giám sát lại của người dân đối với cơ quan
nhà nước nên tình trạng tham nhũng, sách nhiễu gây phiền hà cho doanh nghiệp
và người dân của một bộ phận không nhỏ cán bộ công chức là rất nghiêm trọng.
Điều này thể hiện sự không công bằng, minh bạch của chính sách, vừa không
ngăn chặn được các tiêu cực xảy ra và làm cản trở đến hoạt động và hiệu quả
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
- Chưa kết hợp quy hoạch KCN, KCX và quy hoạch đô thị: tình trạng các
KCN đã được xây dựng ở trong lòng thành phố gây rất nhiều khó khăn cho
công tác BVMT gây ách tắc giao thông, cung cấp nhà ở, dịch vụ chăm sóc sức
khỏe, trường học cho người lao động và con em họ, hoặc được bố trí quá xa khu

dân cư và các nguồn cung cấp dịch vụ nên khó khăn trong việc thu hút các nhà
đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài.
- Với các nền kinh tế trong giai đoạn chuyển mình, quá trình mở rộng và
tăng tốc phát triển luôn đi kèm với những vấn đề phát sinh từ sự vận động quá
nhanh. Việc xác định những vấn đề cần giải quyết, song song vừa phát triển vừa
giải quyết các vấn đề đó một cách hiệu quả sẽ có thể đảm bảo một nhịp độ tăng
trưởng bền vững, tránh được những hậu quả đáng tiếc sau tăng trưởng.
Hệ quả của phát triển công nghiệp tự phát
- Không có quy hoạch đồng bộ về cơ sở hạ tầng, thiếu hệ thống xử lý
nước thải, hệ thống xử lý chất thải, nên việc xử lý những vấn đề ô nhiễm môi
trường tại các cụm công nghiệp tự phát vô cùng khó khăn.
- Người dân trong khu vực phải hứng chịu những chất thải từ quá trình
sản xuất, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, gây mất an ninh khu phố, mất vệ sinh
nơi công cộng, ô nhiễm nước, không khí và đất khu vực liên quan.
- Công nhân trong các KCN tự phát không được bảo hộ lao động, gây
ảnh hưởng lớn đến sức khỏe nhân công.
- Rất khó giải quyết cụm công nghiệp tự phát, khiến cho vấn đề quy
hoạch, phát triển của quốc gia trở nên khó khăn.
- Là nơi thu hút các thành phần lao động của các tỉnh nên tình hình an
ninh trật tự luôn là một vấn đề nan giải của chính quyền địa phương.
1.2. HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG TOÀN CẦU
1.2.1. Lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu
Ôzôn trong tầng bình lưu được biết đến do khả năng hấp thụ bức xạ UV-B.
Ôzôn trong bầu khí quyển của Trái Đất nói chung được tạo thành bởi tia cực tím
phá vỡ các phân tử O2, tạo thành ôxy nguyên tử nguyên tử ôxy sau đó kết hợp
với phân tử ôxy chưa bị phá vỡ để tạo thành O3. Trong một số trường hợp ôxy

23



nguyên tử kết hợp với N2 để tạo thành các ôxít nitơ; sau đó nó lại bị phá vỡ bởi
ánh sáng nhìn thấy để tái tạo ôzôn.
Khi tia cực tím chiếu vào ôzôn, nó tách phân tử ôzôn thành phân tử O2 và
nguyên tử ôxy tự do, quá trình liên tục này được gọi là chu trình ôzôn - ôxy.
Tuy nhiên, chu trình này có thể bị phá vỡ bởi sự có mặt của các nguyên tử clo,
flo hay brôm trong khí quyển; các nguyên tố này được tìm thấy trong các hợp
chất bền, đặc biệt là cloroflorocacbon (CFC) là chất có thể phát hiện ở tầng bình
lưu và được giải phóng dưới tác động của tia cực tím.
Như vậy, sự suy giảm ôzôn và lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu diễn ra
bởi cloroflorocacbon (CFC) và các chất gây ô nhiễm khác trong bầu khí quyển
như clo, flo hay brôm được kể trên.
Ngoài ra, chu trình ôxít nitơ để tạo thành ôzôn cũng có thể bị phá vỡ do sự
có mặt của hơi nước trong khí quyển vì nó làm biến đổi các ôxít nitơ thành các
dạng bền vững hơn.
1.2.1.1. Lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu ngày càng mở rộng
Kể từ năm 1980, các nhà khoa học của Cơ quan hàng không và vũ trụ Hoa
Kỳ (National Aeronautics and Space Administration - NASA) gần như không
tìm thấy hàm lượng ôzôn trong nhiều mẫu không khí được phân tích ở Nam
Cực. Trong khi đó, hàm lượng ôzôn ở Bắc Cực chỉ xuất hiện rải rác và chưa
vượt lên đến ngưỡng thấp trung bình.
Tiếp theo đó, các nhà khoa học của NASA cũng tiếp tục theo dõi sự mở
rộng lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu ở Nam Cực kể từ năm 1986 và mãi 20
năm sau (cho đến tháng 11/2006) thì lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu được
công bố là đã mở rộng tới mức kỷ lục 17,6 triệu km2, lớn nhất từ trước tới nay.
Sau năm 1980, sự suy giảm tầng ôzôn tại một số độ cao nhất định ở Nam
Cực vượt quá 90% và thậm chí có lúc lên tới 99% (vào các mùa đông).

Hình 1.10. Lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu 17,6 triệu km2 ở Nam Cực
Ở Bắc Cực, sự suy giảm tầng ôzôn thường ở mức 70% và khoảng 50% vào
giữa những năm 1990. Tại những thời điểm đó, nhiệt độ trung bình ở vùng này


24


tương đối thấp nhưng mức độ suy giảm tầng ôzôn không nghiêm trọng như ở
Nam Cực.
Một số nghiên cứu mới đây của Cục quản lý đại dương và khí quyển quốc
gia Mỹ (The National Oceanic and Atmospheric Administration - NOAA), cho
biết hàm lượng ôzôn trong tầng bình lưu ở bán cầu Nam có sự suy giảm lớn và
không có dấu hiệu trở thành xu hướng.
Các nhà khoa học cũng cảnh báo rằng lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu ở
cả hai cực của trái đất vẫn đang tiếp tục mở rộng nhưng ở Nam Cực tốc độ mở
rộng nhanh hơn ở Bắc Cực.
1.2.1.2. Lỗ thũng tầng ôzôn có xu hướng thu hẹp
Tổ chức khí tượng thế giới (World Meteorological Organization - WMO)
dự báo trong tương lai nhiều khả năng lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu ở Nam
cực sẽ nhỏ hơn so với lỗ thủng được theo dõi vào năm 2008.
Cơ quan Môi trường Liên Hợp Quốc cho biết "lỗ thủng ôzôn trong tầng
bình lưu năm 2009 nhỏ hơn lỗ thủng trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm
2008”. Lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu ở Nam cực được phát hiện vào những
năm 1980. Lỗ thủng này thường bắt đầu hình thành vào tháng 8 hàng năm và
đạt độ rộng tối đa vào cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10 trước khi nó biến mất vào
tháng 12. Diện tích lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu phụ thuộc rất nhiều vào
điều kiện thời tiết của từng năm.
Theo số liệu của NIWA (công ty nghiên cứu và tư vấn các vấn đề tranh
chấp toàn cầu về nước và khí quyển), kích cỡ lỗ thủng ôzôn trong tầng bình lưu
hiện tại khoảng 22 triệu km2, thấp hơn mức 24 triệu km2 vào năm 2009 và 29
triệu km2 của năm 2000. Nhà khí tượng học Stephen Wood cho rằng có được
kết quả khả quan như trên là nhờ các sáng kiến của cộng đồng quốc tế nhằm bảo
vệ tầng ôzôn, điển hình là nghị định thư Montreal năm 1987.


Hình 1.11. Diễn biến về lỗ thủng ôzôn
1.2.1.3. Nguyên nhân gây thũng tầng ôzôn
Nguyên nhân chính của sự giảm sút ôzôn là do sự hiện diện của các khí có
chứa gốc Clo (trước nhất là các CFC và các hợp chất Clo với Carbon liên quan)
bị phân giải khi có tia cực tím tạo thành các nguyên tử Clo trở thành chất xúc
tác phân hủy ôzôn. Sự giảm sút ôzôn do Clo là chất xúc tác có thể xảy ra ở trạng

25


×