Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Yêu cầu về an toàn pháp lý trong nhà nước pháp quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.37 KB, 9 trang )

YÊU CẦU VỀ AN TOÀN PHÁP LÍ TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
TS Luật học, Nguyễn Văn Quân*
Email:
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Bài viết được đăng trên Tạp chí Luật học, số 09/2016
Tóm tắt: Mô hình nhà nước pháp quyền kéo theo sự phát triển không ngừng của hệ thống
pháp luật - khuôn khổ điều chỉnh các hành xử của công dân cũng như chính bản thân nhà
nước. Để hạn chế những hệ quả tiêu cực của hiện tượng lạm phát quy phạm pháp luật trong
quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền, người ta đặt ra nguyên tắc “an toàn pháp lí”. Bài
viết trình bày nguồn gốc, quá trình phát triển và nội dung của nguyên tắc an toàn pháp lý
trong tư tưởng pháp lý phương Tây. Từ đó, đề xuất những tiêu chí đặt ra đối với pháp luật
nhằm đảm bảo nguyên tắc an toàn pháp lí trong nhà nước pháp quyền.
Từ khóa: Nhà nước pháp quyền; an toàn pháp lí; yêu cầu.
Keyword:
An toàn là một nhu cầu cơ bản của con
người. Nhà nước và pháp luật từ xưa đã
được quan niệm như là những cơ chế và
phương tiện đảm bảo cho con người sự an
toàn trong đời sống xã hội. Mô hình nhà
nước pháp quyền được thiết lập để đảm bảo
tốt hơn nữa trạng thái an toàn của con người,
đặc biệt là khi đối diện với sức mạnh của nhà
nước.
Nhà nước pháp quyền thường được quan
niệm như một dạng mô thức, chuẩn mực
trong tổ chức quyền lực nhà nước. Trung
tâm của nhà nước pháp quyền là mối quan
hệ giữa nhà nước và pháp luật: Nhà nước
hành xử bằng pháp luật và trong khuôn khổ
pháp luật, phục tùng pháp luật (đòi hỏi về
mặt hình thức); pháp luật trong nhà nước


pháp quyền không phải là thứ pháp luật bất
kì mà phải là pháp luật chứa đựng một số
thuộc tính nội tại cần được tuân thủ (đòi hỏi

về mặt nội dung).(1) Một trong những nội
dung mà pháp luật cần đảm bảo là an toàn
pháp lí(2) cho mọi chủ thể pháp luật.
Từ chỗ chỉ là những quan điểm chính trị
- pháp lí của các học giả, hiện nay pháp luật
của nhiều quốc gia đưa nguyên tắc an toàn
pháp lí vào pháp luật thực định, thậm chí
một số quốc gia đã hiến định hoá nguyên tắc
(1).Xem : Jacques Chevallier, L’Etat de droit, 5e éd.
Nxb. Montchrestien, 2010, tr. 18.
(2). Tiếng Anh: Legal certainty, tiếng Đức:
Rechtssicherheit, tiếng Pháp: Sécurité juridique. Lâu
nay, có một số tài liệu đã dùng thuật ngữ “an ninh
pháp lí”. Theo tác giả, thuật ngữ “an ninh” hay “an
toàn” pháp lí đều dùng để diễn đạt khái niệm này. Ở
đây, tác giả sử dụng thuật ngữ an toàn pháp lí với
nghĩa là trạng thái “yên ổn hẳn, tránh được tai nạn,
tránh được thiệt hại” của các chủ thể pháp luật trước
những rủi ro pháp lí đến từ sự phức tạp của hệ thống
pháp luật, theo cách giải thích về thuật ngữ “an toàn”
trong Từ điển tiếng Việt. Xem: Hoàng Phê (chủ biên),
Từ điển tiếng Việt, Nxb. Từ điển bách khoa, 2010, tr.
21.

1



an toàn pháp lí nhằm đảm bảo chất lượng
của hệ thống pháp luật và xem đây như là
một thành tố nền tảng và bắt buộc của nhà
nước pháp quyền.
1. Nguồn gốc và nội dung của nguyên
tắc an toàn pháp lí
Có thể hiểu an toàn pháp lí là nguyên tắc
nhằm mục đích bảo vệ công dân chống lại
các hệ quả bất lợi về mặt pháp lí, đặc biệt là
liên quan đến sự thiếu chặt chẽ hay sự phức
tạp của các quy phạm pháp luật cũng như
chống lại các thay đổi thường xuyên và tuỳ
tiện của pháp luật. Nguyên tắc an toàn pháp
lí hình thành và phát triển ở Đức như một hệ
thống học thuyết pháp lí gắn liền với lí
thuyết nhà nước pháp quyền và trở thành
một nguyên tắc của luật thực định tại Đức,
trước khi được tiếp nhận tại nhiều quốc gia
khác.
1.1. Sự hình thành và phát triển của
nguyên tắc an toàn pháp lí
Những mầm móng đầu tiên của nguyên
tắc an toàn pháp lí đã được hình hình thành
từ thời La Mã cổ đại: các luật gia thời đó
quan niệm nhiều luật lệ chưa hẳn đã tốt cho
xã hội, thể hiện qua câu châm ngôn Latin
“Càng nhiều luật thì nhà nước càng tệ”
(plurimae leges, pessima respublica). Vào
thời đó, người ta phân tích an toàn pháp lí

dưới dạng 2 nguyên tắc nhỏ. Một nguyên tắc
mang tính định hướng và một nguyên tắc
mang tính thực tiễn. Nguyên tắc mang tính
định hướng về “tính đoan chắc” (certutido)(3)

đòi hỏi chủ thể pháp luật phải biết rõ hệ quả
pháp lí chờ đợi mình. Để đạt được điều này,
luật pháp không được lập lờ, không để quá
nhiều lỗ hổng cho người áp dụng nó, không
được lật lại các quyền đã được thụ đắc và
thiết lập - vốn là nền tảng của sự an toàn.
Nguyên tắc thứ hai về “an toàn”
(securitas)(4) đòi hỏi sự tuân thủ một cách cụ
thể các quy phạm, các phán quyết pháp lí và
hợp đồng.
Những di sản của luật pháp La Mã được
hồi sinh vào thời kì Khai sáng, đặc biệt là
trong tư tưởng chính trị-pháp lí Đức: Vào
giữa thế kỉ XIX, Robert von Mohl(5) đã xây
dựng nên những đường nét cơ bản của học
thuyết nhà nước pháp quyền. Theo đó, nhà
nước pháp quyền đòi hỏi việc kiểm soát
quyền lực và đặt ra yêu cầu về tính trong
sáng của các luật lệ cũng như bảo vệ các
quyền cá nhân bằng thủ tục tư pháp. Tiếp đó,
vào những năm 1860 - 1890, lí thuyết về nhà
nước pháp quyền ở Đức tiếp tục được tiếp
sức và bổ sung bởi các luận thuyết của
Lorenz von Stein, Rudolf von Gneist, Otto
Mayer…

Những tư tưởng tiến bộ này bị lu mờ
Vorstudien zu einer Soziologie des Rechts, 2e
ed. Munich, 1964.
(4).Xem: Theodor Julius Geiger, Vorstudien zu einer
Soziologie des Rechts, 2e ed. Munich, 1964.
(5). Quan niệm của Robert von Mohl về nhà nước
pháp quyền được thể hiện thông qua hai công trình
nghiên cứu nổi tiếng: “Công pháp của vương quốc
Wurtemberg”
(Staatsrecht
des
Königreichs
Württemberg) và “Khoa học hình sự theo các nguyên
tắc của nhà nước pháp quyền” (Die deutsche
Polizeiwissenschaft nach den Grundsätzen des
Rechtsstaats).

(3).Xem: Dominique Soulas de Russel, Philippe
Raimbault, Nature et racines du principe de sécurité
juridique: une mise au point, Revue internationale de
droit comparé, 1/2003, tr. 97; Theodor Julius Geiger,

2


trong bối cảnh nước Đức cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX với nhiều biến động, đặc biệt
trong thời kì Đức Quốc xã, khái niệm nhà
nước pháp quyền hoàn toàn bị quên lãng.
Phải đến sau Chiến tranh thế giới thứ II và

với sự công bố Hiến pháp mới của nước Đức
thời hậu chiến (Luật cơ bản năm 1949) thì
nhà nước pháp quyền và nguyên tắc an toàn
pháp lí mới tìm lại đươc chỗ đứng của mình
trong hệ thống lí thuyết pháp luật cũng như
trong luật thực định.
Về mặt luật thực định, Điều 28 Luật cơ
bản 1949(6) thừa nhận nguyên tắc nhà nước
pháp quyền và gắn liền với nó là an toàn
pháp lí. Toà án hiến pháp Liên bang đã dựa
trên các cơ sở này(7) để diễn giải rằng, nhà
nước pháp quyền không chỉ gắn liền với tính
có thể dự liệu trước về hoạt động của các cơ
quan nhà nước mà còn phải gắn với “an toàn
pháp lí và sự đúng đắn, hợp lí về mặt nội
dung và công chính”.(8) Ngay từ
01/07/1953,(9) toà án Hiến pháp Liên bang
Đức đã xếp an toàn pháp lí vào hàng “các
nguyên tắc hiến định với tư cách là thành tố
cấu thành mang tính nền tảng của nhà nước
pháp quyền”. Sau đó, nguyên tắc an toàn
pháp lí (cùng với nguyên tắc “bảo vệ niềm
tin”) được Toà án công lí châu Âu áp dụng
vào luật của châu Âu: được nêu lên từ năm

1965 (Phán quyết ngày 13/07/1965),(10)
nguyên tắc này sau đó được được xem là
“nguyên tắc cấu thành trật tự pháp lí của
Cộng đồng châu Âu” (phán quyết ngày 03/5/
197811, sau đó được nâng lên thành “nguyên

tắc căn bản của Cộng đồng châu Âu” (phán
quyết ngày 5/5/1981.(12) Từ đó, nguyên tắc
này được nêu lên trong nhiều hoàn cảnh
khác nhau với sự diễn giải đa dạng của các
thẩm phán. Từ năm 1979, Toà án nhân
quyền châu Âu cũng thừa nhận nguyên tắc
an toàn pháp lí là nguyên tắc căn bản của
pháp luật châu Âu.(13)
Các án lệ của các toà án này ảnh hưởng
tới pháp luật của các quốc gia thành viên với
tư cách là một loại nguồn của pháp luật quốc
gia. Ví dụ: Khoản 3 Điều 9 Hiến pháp Tây
Ban Nha năm 1978 quy định về an toàn pháp
lí.(14) Tại Pháp, nguyên tắc an toàn pháp lí
(10).Xem: Vụ Lemmerz-Werke GmbH v High
Authority of the ECSC. Nguồn: />Truy cập ngày 20/6/2016.
(11).Xem: Vụ August Töpfer & Co. GmbH v
Commission of the European Communities. Nguồn:
/>
Truy cập ngày 20/6/2016.
(12).Xem: Vụ Firma Anton Dürbeck v Hauptzollamt
Frankfurt am Main-Flughafen. Nguồn />Truy cập ngày 20/6/2016.
(13).Xem: Phán quyết của CEDH, 13 juin, 1979,
Marckx c/Belgique.
(14).Xem: Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1978.
Nguồn:
/>(tiếng Pháp, truy cập ngày 20/6/2016). Khoản 3 Điều

(6). “Trật tự hiến pháp tại các bang phải phù hợp với
các nguyên tắc của nhà nước cộng hòa dân chủ và xã

hội, theo nguyên tắc pháp quyền, trong phạm vi nội
dung của Luật cơ bản này”. Xem: Khoa Luật, ĐHQG
Hà Nội, Tuyển tập hiến pháp của một số quốc gia,
Nxb. Hồng Đức, 2012, tr. 263.
(7).Xem: BVerfGE 2, 380 (381).
(8).Xem: BVerfGE 7, 89 [92] I.
(9).Xem: BVerfGE 2, 380.

3


không được quy định trực tiếp trong Hiến
pháp và trong một thời gian dài các cơ quan
tố tụng đắn đo trong việc áp dụng nguyên tắc
này nhưng tại phán quyết ngày 24/03/2006,
Tham chính viện (Conseil d’Etat) đã chính
thức công nhận nguyên tắc an toàn pháp
lí.(15)
1.2. Sự cần thiết của an toàn pháp lí
trong nhà nước pháp quyền
Có thể thấy rằng, trong nhà nước pháp
quyền, pháp luật đóng vai trò vô cùng quan
trọng(16) và hiện diện ở khắp mọi nơi: pháp
luật không chỉ là phương tiện quản lí đời
sống xã hội,(17) điều chỉnh quan hệ giữa các
cá nhân mà còn thiết lập nên khuôn khổ
pháp lí ràng buộc, kiểm soát, hạn chế quyền
lực nhà nước nhằm bảo vệ các quyền cơ bản
của con người – vốn là “nội hàm cơ bản của
nhà nước pháp quyền”.(18) Điều này dẫn tới

xu hướng phổ biến ở nhiều quốc gia là sự
bùng nổ của các quy phạm và quy tắc pháp lí
liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Hiện tượng này từ lâu được một số học

giả đặt tên là “lạm phát pháp luật” (inflation
législative)(19) với nhiều hệ lụy cho cơ chế
điều chỉnh xã hội.(20) Ở Việt Nam, chúng ta
vẫn thường gọi đây là hiện tượng “có cả một
rừng luật”,(21) với sự xuất hiện ngày càng
nhiều quy định pháp luật tầng tầng lớp lớp
nhiều khi chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Xu
hướng “lạm phát pháp luật” khiến cho pháp
luật đánh mất hiệu quả điều chỉnh xã hội vốn
có của nó. Việc gia tăng các quy phạm pháp
luật có nguy cơ làm cho hệ thống pháp luật
trở nên phức tạp, trở thành một trở lực cho
việc tiếp cận, nắm bắt và hiểu rõ pháp luật
của những người chịu trách nhiệm thực thi
pháp luật cũng như chính công dân. Khi các
chủ thể này không nắm bắt và hiểu rõ pháp
luật một cách xác đáng thì họ không thể
hành xử theo các chuẩn mực đã được pháp
luật đề ra. Đúng như Montesquieu từng cảnh
báo: “Những đạo luật vô bổ làm yếu mất các
đạo luật hữu ích”. (22)
(19).Xem: Charles Debbasch et a., L’inflation
legislative et réglementaire en Europe, CNRS, 1997;
Jean Carbonnier, Droit et passion du droit sous la Ve
République, Nxb. Flammarion, 1996.

(20).Xem: René Savatier, L’inflation législation et
l’indigestion du corps social, Recueil Dalloz, 1977, tr.
43; Georges Ripert, Le déclin du droit, Nxb. LGDJ,
Paris, 1949, tr. 67-72.
(21). Thuật ngữ “rừng luật” không chỉ được dùng ở
nước ta mà nhiều nước cũng dùng khái niệm tương
tự. Ví dụ: “Trop de loi tue la loi… la jungle
législative” (“Quá nhiều luật lệ giết chết luật pháp…
hiện tượng rừng luật” (Báo Le Monde, ngày
23/01/2007).
(22).Xem: Montesquieu, Tinh thần pháp luật (Hoàng
Thanh Đạm dịch), Nxb. Giáo dục và Khoa Luật Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn - Đại
học Quốc gia Hà Nội, 1996, tr. 212.

9 Hiến pháp Tây Ban Nha quy định: “Bảo đảm
nguyên tắc pháp chế, trật tự quy phạm, tính công khai
của pháp luật, bảo đảm tính không hồi tố của các quy
định đưa ra mức hình phạt nghiêm khắc hơn hoặc thu
hẹp các quyền cá nhân, an toàn pháp lí, tính chịu trách
nhiệm và đảm bảo chống lại sự tuỳ tiện của công
quyền”.
(15).Xem: CE, ass., 24 mars 2006m, Société KPMG,
N° 288460
(16). Xem : Đào Trí Úc, Giáo trình nhà nước pháp
quyền, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2015, tr. 130142.
(17).Xem: Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của pháp luật
trong đời sống xã hội, Nxb. Chính trị quốc gia, 2008,
tr. 58.
(18).Xem: Đào Trí Úc, sđd, tr. 63.


4


phát triển trong một môi trường pháp lí
“chắc chắn, yên ổn”, để họ có thể hạn chế
các rủi ro có thể ảnh hưởng tiêu cực tới tình
trạng pháp lí của mình.
Tiếp theo, có thể nhìn nhận an toàn pháp
lí là “sự chắc chắn” (xác tín) của pháp luật.
Theo đó, an toàn pháp lí bao hàm việc bảo
đảm thực thi đầy đủ các nghĩa vụ và nhằm
loại trừ sự thiếu chắc chắn, mập mờ trong
việc thực hiện pháp luật”.(23) Nó liên quan
đến tính đến “đáng tin cậy” và “sự chắc
chắn, an toàn”, “sự đoan chắc” của từng tình
huống, từng chủ thể pháp luật cụ thể nhưng
đồng thời cũng là chất lượng của trật tự pháp
lí và hệ thống pháp luật được xem xét trong
một bối cảnh luôn có những vận động, thay
đổi của xã hội. Điều đó có nghĩa là cần phải
tiếp cận pháp luật trong tính vận động và
biến đổi nhưng sự vận động, biến đổi này
phải dựa trên và nhằm đảm bảo trạng thái an
toàn pháp lí mang tính liên tục cho công dân.
Theo đó, các thay đổi của pháp luật phải hợp
lí, logic, loại trừ những thay đổi bất ngờ, đột
ngột, mơ hồ, thiếu logic.
Chúng ta có thể phân tích cách tiếp cận
này dưới ba nội dung như sau:
Thứ nhất là “tính có thể dự liệu trước”

(Voraussehbarkeit hay Vorhersehbrkeit) hay
“tính có thể thể ước lượng được”
(Vorausberechenbarkeit) các biện pháp và
hành xử mà cơ quan công quyền sẽ đưa ra. Ở

Nhằm giảm thiểu những rủi ro của hiện
tượng “lạm phát pháp luật” trong quá trình
xây dựng nhà nước quyền, nguyên tắc an
toàn pháp lí được đặt ra. Theo đó, trong nhà
nước pháp quyền, quy phạm pháp luật phải
chứa đựng các đặc tính thực chất, cho phép
nhà nước thực hiện chức năng của mình
nhưng pháp luật cũng phải thiết lập cho các
đối tượng mà nó điều chỉnh một khuôn khổ
rõ ràng, chi tiết, ổn định, tạo ra cho các đối
tượng này các yếu tố đủ chắc chắn cũng như
đưa ra khả năng để họ dự liệu được hệ quả
pháp lí áp đặt lên hành vi, xử sự của họ.
Đồng thời, pháp luật phải tạo cho những chủ
thể này khả năng chống lại sự tuỳ tiện của
công quyền trong áp dụng pháp luật. Như
vậy, có thể thấy đảm bảo an toàn pháp lí là
đòi hỏi cơ bản của một xã hội văn minh và
pháp quyền.
1.3. Các nội dung cần có của an toàn
pháp lí
Ở bình diện ngữ nghĩa, thuật ngữ “an
toàn pháp lí” hoặc là đồng nghĩa với thuật
ngữ “tính đáng tin cậy” của luật pháp
(Verlässlichkeit) hay là “sự đáng tin cậy của

trật tự pháp lí, hệ thống pháp luật”, bởi vì an
toàn pháp lí nhằm đảm bảo cho các chủ thể
pháp luật sự đáng tin cậy trong mọi tình
huống dù có lợi hay bất lợi. Nguyên tắc an
toàn pháp lí cho phép công dân có được “dữ
liệu đáng tin cậy” về tác động pháp lí có thể
đặt ra đối với cách hành xử của họ. Bên cạnh
đó, an toàn pháp lí với tư cách là một trạng
thái cần phải có của hệ thống pháp luật, vốn
luôn cần những thay đổi, điều chỉnh cho phù
hợp với sự tiến triển của xã hội, nhằm tạo
điều kiện cần thiết cho mọi cá nhân có thể

(23). An toàn pháp lí thể hiện sự đề cao tính xác tín
của luật pháp với tư cách là điều kiện đầu tiên của
mọi trật tự xã hội. Xem: Pierre Pescatore, Les
principes généraux du droit en tant que source du
droit communautaire, Rapport communautaire au
12er Congrrès FIDE, 1986.

5


đây là các biện pháp và cách hành xử của toà
án, cơ quan hành chính nhà nước hay của
nhà làm luật: an toàn pháp lí đòi hỏi các cơ
quan này không được đưa ra các biện pháp
và cách hành xử một cách “bất thình lình”,
không thể ngờ tới. Ý tưởng này dẫn chiếu cụ
thể tới nguyên tắc pháp chế. Theo đó, luật

pháp phải chứa đựng tính dự báo, cho phép
chủ thể pháp luật dự liệu được các hệ quả
pháp lí của hành vi mà họ tiến hành.(24)
Thứ hai là tính “nhận biết” nhằm “dự
liệu trước” (dự báo trước), an toàn pháp lí
gắn liền với các giá trị khác, như là tính “có
thể tiếp cận” (Vermittelbarkeit) hay là “có
thể nắm bắt, nhận thức được”; tính có thể
đọc hiểu được, tức là chất lượng của pháp
luật ở mặt hình thức và nội dung, bao hàm
tính cụ thể (greifbare Massstabsbildung) và
tính “có thể đo lường được” (Messbarkeit)
của các quy định và các hành xử được cơ
quan công quyền đưa ra. Như vậy, về mặt
hình thức đó là sự công khai một cách thiết
thực, thích đáng và đủ để công dân có thể
nhận biết được: gồm các hình thức phổ biến
là công bố, thông báo và tống đạt (phải làm
sao dễ tiếp cận, dễ nắm bắt, dễ đọc về mặt
thủ tục, tố tụng - tức là tính cụ thể); về mặt
nội dung phải làm rõ được căn cứ pháp lí, lí
do ban hành, tính logic, trong sáng và rõ
ràng (Bestimmtheit), nhằm đảo bảo tính dễ
tiếp cận, dễ nắm bắt hay dễ đọc về mặt nội
dung của quyết định, bản án cũng như các

căn cứ để ban hành quyết định, bản án.(25)
Thứ ba là tính ổn định: dưới góc độ “dự
liệu trước”, an toàn pháp lí gắn liền với yếu
tố ổn định (Beständigkeit hay Stetigkeit),

nghĩa là tính liên tục, thường xuyên, đều đặn
của các tình huống pháp lí đang có hiệu lực
được dự liệu bởi luật pháp: Các tình huống
này đến từ các biện pháp hay cách hành xử
của cơ quan công quyền và một khi các biện
pháp hay cách hành xử được đưa ra, dĩ nhiên
chúng có thể được sửa đổi hay hủy bỏ (nghĩa
là nguyên tắc này không có tính tuyệt đối)
nhưng phải tuân theo một số điều kiện về
mặt nội dung và hình thức chặt chẽ. Tính ổn
định gắn liền với sức mạnh hiệu lực pháp
luật của bản án, quyết định của toà, các
nguyên tắc về thời hiệu pháp lí… Những
thay đổi, điều chỉnh có thể diễn ra nhưng
phải tuân theo những trình tự, thủ tục pháp lí
có tính ổn định cao và phải được dự liệu
trước. Nói cách khác, nguyên tắc an toàn
pháp lí phải gắn liền với nguyên tắc ổn định
pháp lí. Theo Eugénie Prevedourou,(26) chính
tính chất ổn định của các văn bản hành chính
sẽ tạo nên hiệu lực hoạt động của chính
quyền hay tạo ra tính hiệu quả của hoạt động
chức năng (an toàn pháp lí chức năng (25). Theo một số tác giả, sự trong sáng, rõ ràng và
chính xác của văn bản pháp lí xuất phát từ “nguyên
tắc đảm bảo công lí”, gắn liền với nguyên tắc nhà
nước pháp quyền. Xem: Christian Autexier,
Introduction au droit public allemand, Paris, Nxb.
PUF, 1997, tr. 106. (Sự trong sáng, rõ ràng và chính
xác của văn bản pháp lí cho phép công dân có được ý
tưởng chính xác về tình trạng pháp lí của mình).

(26).Xem: Eugénie PREVEDOUROU, Le principe de
confiance légitime en droit public français, Athènes,
Sakkoulas, 1998, 85 note 271.

(24).Xem: Yves Madiot, Qualité du droit et
protection des droits fondamentaux, in Mélanges
Campinos, Nxb. PUF, 1996, tr. 64.

6


constitutionnel) đã đặt ra tiêu chuẩn về tính
dễ tiếp cận và tính dễ hiểu của luật như một
“mục tiêu có giá trị hiến định”.(27) Tuy
nhiên, tiếp cận pháp luật là một mục đích có
phạm vi chung chung, trong khi đó việc thực
hiện lại phụ thuộc vào các biện pháp cụ thể
được đưa ra để áp dụng: một mặt, đó là giảm
thiểu sự phức tạp hoá ngày càng lớn của
pháp luật thông qua biện pháp đơn giản hoá,
đồng thời phải tập hợp các văn bản đã có
thành các tổng thể hài hoà, logic, dễ tiếp cận
và có một sự ổn định nhất định (pháp điển
hoá thành các bộ luật).
Thứ hai, an toàn pháp lí đòi hỏi nâng cao
chất lượng của luật pháp. Sự xuống cấp
trong xây dựng pháp luật (công tác lập pháp)
là hiện tượng phổ biến ở nhiều quốc gia:
trong khi số lượng các văn bản không ngừng
tăng thì chất lượng có xu hướng đi xuống,

đòi hỏi những sửa đổi, chỉnh sửa và bổ sung
thường xuyên. Để khắc phục những yếu kém
trong xây dựng pháp luật, từ năm 2003, Liên
minh châu Âu đã đưa ra hướng dẫn “làm luật
tốt hơn” (“Better regulation”),(28) nhằm
“khuyến khích sự giản đơn, tường minh và
logic trong soạn thảo các văn bản pháp luật”
của các nước thành viên của khối.
Thứ ba, nguyên tắc an toàn pháp lí đòi
hỏi mọi công dân có được một số bảo đảm
chống lại các thay đổi của pháp luật hiện

funktionsbezogene Rechtssicherheit).
Như vậy, trong nhà nước pháp quyền,
các nội dung của nguyên tắc an toàn pháp lí
sẽ cho phép mọi công dân có thể sử dụng
trên thực tế các thể chế pháp lí của nhà nước
nhằm bảo vệ quyền và tự do của mình.
2. Những tiêu chí đặt ra đối với pháp
luật nhằm đảm bảo nguyên tắc an toàn
pháp lí
An toàn pháp lí dẫn tới các hệ quả sau:
pháp luật cần phải dễ hiểu, cần phải nâng
cao chất lượng ban hành pháp luật và cơ chế
bảo đảm chống lại sự thiếu ổn định của các
quy định pháp luật.
Thứ nhất, nguyên tắc an toàn pháp lí đòi
hỏi pháp luật hiện hành phải có thể được
công chúng biết rõ và hiểu được. Điều này
nhằm sửa chữa những lệch lạc do hiện tượng

“lạm phát” quy phạm pháp luật gây ra thông
qua việc nhấn mạnh yêu cầu về tính dễ tiếp
cận và tính dễ hiểu (có thể hiểu được) của
luật pháp: sự bình đẳng trước pháp luật và
bảo vệ các quyền sẽ không được bảo đảm
nếu công dân không có đủ hiểu biết cần thiết
về các quy phạm được áp dụng. Để khắc
phục hạn chế này, cần phải nâng cao chất
lượng soạn thảo và trình bày các văn bản
pháp luật nhằm loại bỏ các yếu tố phức tạp,
mơ hồ và mâu thuẫn của các văn bản. Các
phán quyết của Toà án hiến pháp Liên bang
Đức chú trọng đặc biệt tới các tiêu chí này.
Theo đó, văn bản pháp luật cần được soạn
thảo với sự vững chắc về căn cứ, rõ ràng và
cụ thể để mọi công dân có thể đánh giá được
các đòi hỏi mà quy phạm pháp luật đặt ra, từ
đó dự liệu được các hệ quả đến từ hành vi
của mình. Hội đồng bảo hiến Pháp (Conseil

(27).Xem: Phán quyết ngày 16/12/1999 (Décision n°
99-421 DC 16 décembre 1999)
và 26/6/2003
(Décision 2003-473 DC du 26 juin 2003).
(28). “Better regulation” được thông qua ngày
16/12/2003. Nguồn : truy cập
ngày 20/6/2016.

7



hành. Trước tiên, đòi hỏi này liên quan tới
việc áp dụng các quy phạm mới vào các tình
huống, quan hệ pháp lí đã diễn ra trước đó:
đó là nguyên tắc không hồi tố, áp dụng chặt
chẽ trong lĩnh vực hình sự. Nguyên tắc này
đôi khi được diễn giải một cách mềm dẻo
hơn trong các lĩnh vực khác nhưng đây là
những trường hợp đặc biệt và phụ thuộc vào
các điều kiện chặt chẽ do luật định. Vấn đề
áp dụng những thay đổi của các quy phạm
cho các tình huống pháp lí trong tương lai có
sự khác biệt: nguyên tắc an toàn pháp lí gắn
liền với đòi hỏi về tính ổn định của pháp luật
cũng như nguyên tắc về “tính đáng tin cậy”
của pháp luật hiện hành nhưng đồng thời
phải phù hợp với nguyên tắc pháp chế vốn
cho phép tạo ra các quy phạm mới để phù
hợp với sự thay đổi của đời sống xã hội. Để
hài hoà các đòi hỏi này, nguyên tắc an toàn
pháp lí cho phép sự điều chỉnh, thay đổi của
các quy phạm pháp luật nhưng cấm những
thay đổi đột ngột.
Liên quan đến việc bảo vệ công dân
trước những thay đổi của luật pháp, có một
nguyên tắc khác được phái sinh từ nguyên
tắc an toàn pháp lí. Đó là nguyên tắc “bảo vệ
niềm tin chính đáng” (Vertrauensschutz).
Nguyên tắc này được đề ra ở Thụy Sĩ từ
những năm 30 của thế kỉ XX, sau đó được

Toà án hiến pháp Liên bang Đức đề cập từ
những năm 50 và cuối cùng được nâng lên
thành nguyên tắc hiến định (phán quyết ngày
02/02/1978). Theo nguyên tắc này, mọi công
dân có quyền được bảo vệ chống lại sự thay
đổi không dự liệu trước của các văn bản
đang có hiệu lực, dẫn tới sự thay đổi theo
hướng bất lợi cho địa vị pháp lí của công dân

đó.
Tại Đức, nguyên tắc này mang tính định
hướng chung cho sự diễn giải của các thẩm
phán khi áp dụng pháp luật vào những
trường hợp cụ thể vốn rất đa dạng và thường
thì nguyên tắc “bảo vệ niềm tin” được kết
hợp với nguyên tắc pháp chế và tương
xứng.(29)
Ở Pháp, nguyên tắc “bảo vệ niềm tin”
được thừa nhận muộn hơn: trong phán quyết
ngày 30/10/1996, Hội đồng bảo hiến từ chối
công nhận nó như một nguyên tắc có giá trị
hiến pháp. Tuy nhiên, Tham chính viện đã
thừa nhận nguyên tắc an toàn pháp lí áp đặt
cho hệ thống pháp luật qua phán quyết ngày
24/03/2006. Trong khi đó, Toà án hiến pháp
Liên bang Đức xem an toàn pháp lí như một
thành tố căn bản của nguyên tắc nhà nước
pháp quyền.(30)
Nếu như nguyên tắc nhà nước pháp
quyền được hình thành ở một số quốc gia cụ

thể, sau đó được tiếp nhận và phổ biến ra các
quốc gia khác và dần được thừa nhận như

(29).Xem: Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Giới hạn
chính đáng đối với các quyền con người, quyền công
dân trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam,
Nxb. Hồng Đức, 2015, tr. 14-20.
(30). An toàn pháp lí và bảo vệ niềm tin là hai yếu tố
hiến định được phái sinh từ nguyên tắc nhà nước pháp
quyền. Xem:
Sylvia Calmes, Du principe de protection de la
confiance
légitime
en
droits
allemand,
communautaire et français, Nxb. Dalloz, 2001, tr.
102 ; BVerfGE 15, 167 (207); 80, 137 (153); 87, 48
(61).

8


một chuẩn mực quốc tế(31) thì nguyên tắc an
toàn pháp lí ban đầu cũng được đề xuất tại
Đức rồi từng bước được phổ biến ra bên
ngoài biên giới nước Đức, đặc biệt là tại các
quốc gia châu Âu.
Có thể thấy rằng an toàn pháp lí không
chỉ là một nguyên tắc phái sinh từ nguyên

tắc nhà nước pháp quyền mà còn là một
nguyên tắc căn bản và tổng quát của pháp
luật nói chung mà các cơ quan công quyền
phải tuân thủ trong quan hệ với công dân. Là
thành tố không thể thiếu được của nhà nước
pháp quyền, an toàn pháp lí là hệ quả tất yếu
của thượng tôn pháp luật pháp, đặt ra đòi hỏi
về chất lượng nội tại của trật tự pháp lí nhằm
bảo vệ một cách hữu hiệu các quyền con
người. An toàn pháp lí gắn liền với ý tưởng
theo đó mọi công dân có quyền phát triển
trong một môi trường pháp lí ổn định với sự
trong sáng, giản dị, tường minh, dễ hiểu của
các quy phạm và các chế định pháp luật,
nhằm tạo điều kiện cho mọi công dân có một
“đời sống pháp lí” trọn vẹn và tự tin./.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Minh Đoan, Vai trò của
pháp luật trong đời sống xã hội, Nxb. Chính
trị quốc gia, 2008.
2. Đào Trí Úc, Giáo trình nhà nước
pháp quyền, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội,
2015.
3. Christian Autexier, Introduction au
droit public allemand, Paris, Nxb. PUF,
1997.
4. Jean
Boulouis,
Roger-Michel


Chevallier, Grands Arrêts de la Cour de
justice des Communautés européennes, 6 éd.
Nxb. Dalloz, t.1, 1994.
5. Carsten Bäcker, Gerechtigkeit im
Rechtsstaat: Das Rechtsstaatsprinzip des
Bundesverfassungsgerichts
zwischen
Grundgesetz und Gerechtigkeit (Jus
Publicum), Nxb. Mohr Siebeck, 2015.
6. Sylvia Calmes,
Du principe de
protection de la confiance légitime en droits
allemand, communautaire et français, Nxb.
Dalloz, 2001.
7. Jacques Chevallier, L’Etat de droit,
e
5 éd. Nxb. Montchrestien, 2010.
8. W. Leisner, Das Gesetzesvertrauen
des Bürgers, - Zur Theorie der
Rechsstaalichkeit und der Rückwirkung der
Gesetze, Festchrift fur Friedrich Berber zum
75.
Geburtstag,
C.H.
Beck’sche
Verlagsbuchhandlung, München, 1973.
9. Yves Madiot, Qualité du droit et
protection des droits fondamentaux, in
Mélanges Campinos, Nxb. PUF, 1996.
10. Eugénie

PREVEDOUROU,
Le
principe de confiance légitime en droit
public français, Athènes, Nxb. Sakkoulas,
1998.
11. Georges Ripert, Le déclin du droit,
Nxb. LGDJ, 1949.
12. René Savatier, L’inflation législation
et l’indigestion du corps social, Recueil
Dalloz, 1977.
13. Dominique Soulas de Russel,
Philippe Raimbault, Nature et racines du
principe de sécurité juridique: une mise au
point, Revue internationale de droit
comparé, 1/2003, tr. 85-103.

(31).Xem: Nguyễn Văn Quân, Nhà nước pháp quyền
như một chuẩn mực quốc tế, Tạp chí Luật học, số
11/2015, tr. 25-34.

9



×