Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

CÂU HỎI ÔN THI MÔN TƯ TƯỞNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.79 KB, 35 trang )

Nắm vững bài học của 20 năm đổi mới

Từ thực tiễn đổi mới 20 năm qua với tất cả những thành tựu cũng như cả hạn chế, yếu
kém, chúng ta có thể rút ra một số bài học lớn có ý nghĩa tiếp tục chỉ đạo công cuộc đổi
mới trong thời gian tới.
Sau 20 năm đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên
con đường xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Sức mạnh tổng hợp của đất nước được
tăng lên nhiều; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Song điều rất
quan trọng là sau 20 năm lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới; Ðảng và Nhà nước ta ngày
càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn.
Từ thực tiễn đổi mới 20 năm qua với tất cả những thành tựu cũng như cả hạn chế, yếu kém,
chúng ta có thể rút ra một số bài học lớn có ý nghĩa tiếp tục chỉ đạo công cuộc đổi mới trong
thời gian tới.
1- Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngay từ khi mới ra đời, trong những Cương lĩnh đầu tiên của mình, Ðảng ta đã khẳng định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và trong suốt hơn 75 năm qua Ðảng ta luôn kiên trì mục
tiêu đó. Trong 20 năm đổi mới, tình hình thế giới biến động rất phức tạp.
Cuối những năm 80 đầu 90 thế kỷ XX, chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Ðông Âu bị sụp đổ,
đặc biệt "trận động đất chính trị" xảy ra ở Liên Xô năm 1991 làm cho Liên Xô tan rã; chủ nghĩa
xã hội hiện thực bị lâm vào thoái trào, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào
cách mạng thế giới gặp những khó khăn to lớn chưa từng thấy. Tình hình đó đã tác động sâu sắc
đến cách mạng nước ta.
Ðứng trước tình thế "hiểm nghèo" đó, Ðảng ta không hoang mang dao động. Với bản lĩnh chính
trị của một Ðảng được tôi luyện dạn dày trong đấu tranh cách mạng, Ðảng ta vẫn kiên định con
đường xã hội chủ nghĩa đã chọn. Vì đó là con đường hợp quy luật phát triển của cách mạng Việt
Nam để có một nước Việt Nam giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Ðối với Ðảng ta, đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa
xã hội được nhận thức và xây dựng có hiệu quả hơn; đổi mới không phải là đổi mầu; hội nhập
nhưng không phải là hòa tan vào thế giới tư bản; đổi mới có nguyên tắc mà nguyên tắc hàng đầu


là bảo đảm độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cho đất nước. Vì vậy trong quá trình đổi mới,


Ðảng ta luôn kiên quyết đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái muốn từ bỏ hoặc phủ nhận
con đường xã hội chủ nghĩa với những lập luận sai trái như "đi vào chủ nghĩa xã hội là vào ngõ
cụt, vào vết xe đổ của Liên Xô"(!) "đi lên chủ nghĩa xã hội là không tưởng, viển vông" (!), "kinh
tế thị trường không dung hợp với chủ nghĩa xã hội" (!) đồng thời phê phán, khắc phục những
biểu hiện chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Ðồng thời Ðảng ta cũng khẳng định rằng đổi mới không phải xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư
tưởng đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Ðảng.
Ðể có đường lối đổi mới đúng đắn, cần nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, coi đó là cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân
tích tình hình thực tế với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, lấy đó làm cơ sở
xuất phát để hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới.
Trong những năm đổi mới, Ðảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn, đúng đắn hơn đối với chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, đối với thực chất những tư tưởng của các nhà kinh điển mác-xít trên nhiều
vấn đề. Ðối với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chúng ta ngày càng xác định rõ những luận điểm gì
trước đây đúng bây giờ vẫn đúng và lâu dài về sau vẫn đúng; những luận điểm gì trước đây đúng
và bây giờ không còn phù hợp do thực tiễn đã thay đổi; những luận điểm gì vốn trước đây đã
không phù hợp; những luận điểm gì vốn đúng nhưng ta nhận thức sai, làm sai; những luận điểm
gì mới cần được bổ sung vào lý luận qua tổng kết thực tiễn mới.
Với tinh thần ấy, trong những năm đổi mới, Ðảng ta đã bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên một loạt các vấn đề như vấn đề mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, vấn đề sở hữu tư liệu sản
xuất, vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, v.v. Nhờ đó, tư duy lý luận của Ðảng ngày càng sâu sắc hơn,
đồng thời có sự vận dụng, phát triển phù hợp hơn với thực tiễn Việt Nam, khắc phục bệnh giáo
điều, bệnh chủ quan duy ý chí trong nhận thức và hành động.
Trong những năm đổi mới, Ðảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí
và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, đã tổ chức nhiều hoạt động nhằm nghiên cứu, học tập và làm
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc Cương lĩnh năm 1991 của Ðảng đưa tư tưởng Hồ Chí Minh

vào nền tảng tư tưởng của Ðảng là một bước tiến mới trong tư duy lý luận của Ðảng. Trong nền
tảng tư tưởng của Ðảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một thể thống
nhất. Do đó, không được đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin vì làm như
vậy tức là đã phủ nhận mối liên hệ nội tại cả về lịch sử và lô-gíc của tư tưởng Hồ Chí Minh với
chủ nghĩa Mác - Lê-nin.


Thực tiễn cách mạng nước ta từ khi có Ðảng nhất là trong 20 năm đổi mới đã khẳng định, chứng
minh giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thắng lợi của công
cuộc đổi mới cũng là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt
Nam. Trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là những điều kiện bảo đảm cho
thắng lợi sắp tới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới vô cùng phức tạp
của tình hình thế giới.
2- Ðổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp
Thực tiễn cải cách, cải tổ ở các nước xã hội chủ nghĩa đã cho thấy nếu xác định đúng mục tiêu
song không xác định đúng phương thức tiến hành, cách làm, lộ trình và bước đi phù hợp thì cũng
không thể thành công.
Ðối với Ðảng ta, đổi mới là một sự nghiệp có tính chất cách mạng sâu sắc, toàn diện, tác động
đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến mọi cấp, mọi ngành, mọi người, do đó phải đổi
mới toàn diện từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, quan hệ đối
ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Ðảng, quản lý của
Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp Trung
ương đến hoạt động của cấp địa phương và cơ sở.
Ðổi mới toàn diện phải tiến hành đồng bộ trên tất cả các mặt, các bộ phận, các khâu của đời sống
xã hội, để tạo điều kiện cho chúng phát huy vai trò nhân-quả của nhau, thúc đẩy nhau cùng đổi
mới, làm cho toàn bộ cơ thể xã hội chuyển động.
Tuy nhiên, đổi mới toàn diện và đồng bộ không có nghĩa là làm đồng loạt, dàn đều, rải mành
mành ra mà phải có trọng tâm, trọng điểm, có sự tính toán cẩn thận các bước đi, hình thức, cách
làm phù hợp, phải nắm lấy khâu then chốt, nắm lấy "mắt xích" chủ yếu trong mỗi thời kỳ. Ðể

xác định đúng bước đi và cách làm phù hợp, điều quan trọng là phải nắm vững các mối quan hệ
biện chứng chủ yếu trong đời sống xã hội, đó là quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, giữa kinh tế và chính trị, giữa kinh tế và văn hóa - xã hội, giữa kinh tế và quốc phòng - an
ninh... trong đó xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Thất bại của công cuộc cải tổ ở Liên Xô có một phần nguyên nhân từ giải quyết không đúng mối
quan hệ này. Không xác định đúng bước đi; nóng vội, hấp tấp sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối
loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; ngược lại quá chậm chạp
trong việc đổi mới hệ thống chính trị sẽ cản trở sự phát triển kinh tế cũng như toàn bộ công cuộc
đổi mới. Vì vậy, lúc đầu chúng ta tập trung vào đổi mới kinh tế và từng bước đổi mới hệ thống
chính trị; tiếp theo phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị; đổi


mới hệ thống chính trị song phải bảo đảm giữ vững ổn định chính trị, đổi mới vì mục tiêu phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải coi đổi mới là động lực; ổn định là điều
kiện tiền đề; phát triển nhanh và bền vững là mục đích.
Trong những năm qua, cùng với đổi mới kinh tế và trên cơ sở đổi mới kinh tế, chúng ta đã từng
bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị: đổi mới và chỉnh đốn
Ðảng, đổi mới công tác tổ chức và cán bộ, mở rộng dân chủ trong Ðảng, đổi mới phương thức
lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và xã hội; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cải cách các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp,
đổi mới hệ thống chính quyền địa phương; đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ
chức chính trị - xã hội; mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội, đẩy mạnh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí...
Trong quá trình đổi mới, chúng ta không phủ định sạch trơn thành tựu của quá khứ, mà trân
trọng và kế thừa những kinh nghiệm dựng nước và giữ nước của cha ông, những thành tựu của
cách mạng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời kế thừa, tiếp thu có chọn lọc
những thành quả của văn minh nhân loại, trong đó có mặt tích cực của kinh tế thị trường, những
giá trị trong tư tưởng về Nhà nước pháp quyền - những thứ trước đây bị coi là riêng có của chủ
nghĩa tư bản. Những thành tựu của đổi mới hệ thống chính trị trong 20 năm qua đã khẳng định

rằng chúng ta không chỉ đổi mới kinh tế mà còn đổi mới cả chính trị, chứ không phải như luận
điệu xuyên tạc của các phần tử phản động và cơ hội chính trị cho rằng "Việt Nam chỉ đối mới
kinh tế mà không đổi mới chính trị".
Ngày nay để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, chúng ta phải bảo đảm tốt hơn sự gắn kết,
đồng bộ giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt với phát triển
văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Cần đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ hơn với đổi mới
kinh tế; gắn kết chặt chẽ kinh tế với văn hóa - xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển
văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát
triển; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và đối ngoại.
3- Ðổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động sáng
tạo của nhân dân, phù hợp thực tiễn, luôn luôn nhạy bén với cái mới
Sự nghiệp đổi mới do Ðảng ta khởi xướng và lãnh đạo về bản chất mang tính nhân dân sâu sắc,
thể hiện ở chỗ nó bắt nguồn từ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân và do nhân dân thực hiện. Chính
những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là một nguồn gốc
hình thành đường lối đổi mới của Ðảng.
Dựa vào nhân dân, qua thực tiễn phong phú của nhân dân, tiến hành tổng kết, từng bước khái
quát thành lý luận, xây dựng và hoàn thiện đường lối đổi mới - đó là bước đi hợp quy luật. Ðến


lượt mình, đường lối đổi mới đã đáp ứng nhu cầu, lợi ích chính đáng, nguyện vọng bức xúc của
nhân dân, hợp quy luật, thuận lòng dân nên đã được nhân dân nhanh chóng hưởng ứng, tham gia
tích cực, nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Ðường lối đó đã giải phóng được lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định cho sự phát triển xã
hội, khơi dậy được tài dân và sức dân để đóng góp xây dựng Tổ quốc. Do đó, trong quá trình đổi
mới, ý kiến, sáng kiến, cách làm sáng tạo của nhân dân các địa phương và cơ sở là cực kỳ quan
trọng. Nếu chúng ta sâu sát với nhân dân, biết lắng nghe ý kiến nhân dân, chắt lọc, tổng kết, khái
quát kinh nghiệm của nhân dân, thì sẽ có quyết sách đúng, chủ trương phù hợp, nhất là vào
những thời điểm khó khăn hoặc có tính bước ngoặt. Chính vào những thời điểm đó, nhân dân có
thể đề xuất những giải pháp cực kỳ thông minh, sáng tạo, vượt ra ngoài mọi sách vở có sẵn mà
người lãnh đạo nghĩ mãi không ra.

Hiện nay công cuộc đổi mới đang đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp cả về lý
luận và thực tiễn, nhiều vấn đề chưa có câu trả lời rõ ràng và chuẩn xác. Ðể đẩy mạnh sự nghiệp
đổi mới, chúng ta phải giải quyết những vấn đề đó. Muốn vậy phải đẩy mạnh nghiên cứu lý luận
và coi trọng tổng kết thực tiễn, coi trọng sáng kiến của nhân dân, phải luôn luôn xuất phát từ
thực tiễn, tìm ra những nhân tố mới để nhân rộng, qua đó phát hiện những điểm không phù hợp
trong chủ trương, chính sách, kịp thời có sự điều chỉnh, bổ sung, phát triển.
Hiện nay, do tác động của mặt trái của cơ chế thị trường và mở cửa, cũng như do những thiếu
sót, khuyết điểm chủ quan của chúng ta trong lãnh đạo và quản lý, tệ quan liêu, nạn tham nhũng
trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm cho quan hệ giữa Ðảng với nhân dân có mặt bị giảm
sút. Vì vậy phải củng cố và tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Ðảng với nhân dân.
"Lợi ích chính đáng của nhân dân" phải là cơ sở để hoạch định chính sách và "thái độ ủng hộ của
nhân dân" với Ðảng, Nhà nước là một tiêu chuẩn để khẳng định tính đúng đắn của chính sách.
Cán bộ, đảng viên phải thật sự gần dân, trọng dân, tin dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân
tin. Có như vậy, những sáng kiến, kinh nghiệm của quần chúng, tiếng nói, nguyện vọng của nhân
dân mới có thể được chuyển thành những quyết sách chính trị trong quá trình đổi mới.
4- Phát huy cao độ nội lực, đồng thời khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại trong điều kiện mới
Trong quá trình đổi mới, Ðảng ta luôn coi trọng việc tạo ra và phát huy sức mạnh tổng hợp để
phát triển đất nước nhanh và bền vững, trong đó lấy phát huy nội lực là nhân tố quyết định, khai
thác ngoại lực là nhân tố quan trọng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Công cuộc đổi mới diễn ra trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học - công nghệ phát triển như
vũ bão, kinh tế tri thức ngày càng phát triển. Vì vậy chúng ta phải chủ động sử dụng những thành
tựu khoa học và công nghệ nhất là các công nghệ cao (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,


công nghệ vật liệu mới, công nghệ nano...) cùng với những thành tựu của kinh tế tri thức để phát
triển kinh tế - xã hội, tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện "đi tắt đón đầu", tạo môi trường thuận lợi trong nước để phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ hiện đại tiên tiến của thế giới.
Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan, một hiện thực sống động, bao

gồm cả mặt tích cực và tiêu cực, cả thời cơ và thách thức, tác động mạnh mẽ đến tất cả các quốc
gia, dân tộc trên thế giới. Sớm nhận thức được xu thế này, Ðảng ta đã đề ra chủ trương chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ đi đôi với đa phương hóa,
đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Cho đến nay nước ta đã xác lập được quan hệ ổn định với các
nước lớn, đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 167 nước, quan hệ thương mại với 221 nước và
vùng lãnh thổ; chúng ta đã hội nhập kinh tế trên các cấp độ (song phương, khu vực và toàn cầu),
đã gia nhập AFTA, ASEM, APEC và đang đàm phán để gia nhập WTO.
Thông qua việc mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, chúng ta đã
thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn
hỗ trợ phát triển (ODA), cũng đã thiết lập được quan hệ tín dụng với các tổ chức tài chính - tiền
tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng đáng kể vốn vay ưu đãi của Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ
Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), đồng thời tranh thủ khoa học - công
nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài, mở rộng thị trường xuất nhập khẩu để phát
triển đất nước. Mặt khác, thông qua mở rộng hợp tác quốc tế làm cho bạn bè quốc tế hiểu biết đất
nước và con người Việt Nam hơn, tăng thêm tình cảm, sự ủng hộ, giúp đỡ đối với công cuộc đổi
mới của Việt Nam và qua đó chúng ta góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân tiến bộ
thế giới vì mục tiêu của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Có thể nói ngoại lực được khai thác đã làm nhân lên sức mạnh nội lực, còn nội lực được phát
huy tạo cơ sở cho việc sử dụng ngoại lực có hiệu quả hơn. Cũng như vậy, sức mạnh thời đại
được phát huy sẽ chuyển thành sức mạnh của dân tộc, trái lại, sức mạnh của dân tộc được phát
huy thì mới sử dụng có hiệu quả cơ hội, thuận lợi do sức mạnh của thời đại tạo ra, vượt qua nguy
cơ, khắc phục thách thức. Trong việc khai thác ngoại lực, sử dụng sức mạnh của thời đại chúng
ta phải đứng vững trên các nguyên tắc như tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc
và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc.
5- Phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, không ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân



Thực tiễn 20 năm đổi mới đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định
thành công của đổi mới. Ðảng là người khởi xướng và lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới.
Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, ngày càng được hoàn thiện, vai trò lãnh đạo và năng lực
cầm quyền của Ðảng được tăng cường, nhờ tính tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ,
đảng viên nên đường lối đổi mới của Ðảng được đông đảo nhân dân hưởng ứng, biến thành
phong trào hành động sôi nổi, rộng khắp của quần chúng.
Vì vậy trong quá trình đổi mới, Ðảng ta rất coi trọng công tác xây dựng Ðảng, coi xây dựng
Ðảng là nhiệm vụ then chốt, coi việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, xây dựng Nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa xã hội,
mở cửa, hội nhập quốc tế là nhiệm vụ sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Phải bảo
đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Ðảng, kiên quyết không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập. Ðảng khẳng định tự đổi mới, tự chỉnh đốn là quy luật tồn tại và phát triển của
Ðảng. Phải giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của Ðảng, tăng cường bản chất giai cấp
công nhân và tính tiên phong của Ðảng; xây dựng Ðảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư
tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ
cao, có phương thức lãnh đạo khoa học, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhân dân. Ðồng thời kiên
quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, đấu tranh với các biểu
hiện giáo điều và cơ hội dưới mọi hình thức.
Trong quá trình đổi mới, Ðảng ta rất coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa bởi vì dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới. Dân chủ hóa
đời sống xã hội sẽ làm cho mọi tiềm năng sáng tạo của con người được phát huy, tính tích cực,
chủ động của nhân dân được tăng lên, sự tham gia của nhân dân vào các quá trình sáng tạo ra xã
hội mới sẽ ngày càng có hiệu quả cao.
Ðể phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, phải đổi mới hệ thống chính trị, bởi vì như Ðảng ta chỉ rõ,
thực chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị nước ta là xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Dân chủ được thể hiện và thực hiện chủ yếu và trực tiếp nhất qua Nhà nước, bằng Nhà nước. Vì
vậy xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, bảo đảm quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân là yêu cầu bức thiết của dân chủ hóa

xã hội. Nhà nước phải tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát
các cơ quan Nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước. Nhà nước bảo đảm quyền công dân,
quyền con người, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ
đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.


Ðể phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa phải tăng cường vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở lợi ích chung của đất nước, lấy việc giữ vững độc lập, thống
nhất Tổ quốc, vì "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn mình" làm điểm tương
đồng. Phải tạo điều kiện và cơ chế cho Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội thực
hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội đối với đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà
nước.
Như vậy thông qua đổi mới từng tổ chức trong hệ thống chính trị (Ðảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội) và đổi mới mối quan hệ giữa các tổ chức đó sẽ làm cho
từng tổ chức và cả hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, ngày càng phát huy được quyền làm
chủ của nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới.
Trên đây là những bài học lớn được rút ra từ 20 năm đổi mới. Những bài học đó có ý nghĩa chỉ
đạo tiếp tục cho công cuộc đổi mới thời gian tới. Vì vậy nắm vững và quán triệt chúng để đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội là yêu cầu quan trọng hiện nay và sắp tới.

Câu 8. Trình bày đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới và những chủ trương,
chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
1. Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối.
a) Hoàn cảnh lịch sử.
- Từ thập kỷ 80, tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc.
+ Cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động đến hầu hết các quốc
gia, dân tộc.
+ Các nước XHCN lâm vào khủng hoảng, đến đầu năm 1990 Liên Xô sụp đổ, trật tự thế giới
thay đổi.

+ Các nước đổi mới tư duy về sức mạnh.
+ Xu thế chung của thế giới là hòa bình hợp tác và phát triển.
+ Các nước đang phát triển rất cần mở rộng quan hệ đối ngoại để tranh thủ các nguồn lực phát
triển đất nước.
- Xu thế toàn cầu và tác động của nó.
+ Tích cực: thúc đẩy phát triển sản xuất; vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý…mang
lại lợi ích cho các bên tham gia; tăng cường sự hiểu biết và hợp tác giữa các quốc gia.
+ Tiêu cực: các nước phát triển thao túng; tạo sự bất bình đẳng quốc tế; gia tăng sự phân cực giàu
nghèo…
- Khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
+ Tuy có bất ổn nhưng đây vẫn là khu vực được đánh giá khá ổn định.
+ Đây là khu vực có tiềm lực và khá năng động về phát triển kinh tế.
+ Xu thế hòa bình hợp tác trong khu vực phát triển.
- Yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng VN.
+ Phá thế bị bao vây, cấm vận.


+ Tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
b) Các giai đoạn hình thành, phát triển đường lối.
- Giai đoạn (1986-1996): xác lập đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hóa quan hệ quốc tế.
- Giai đoạn (1996-2008): bổ sung và hoàn chỉnh đường lối đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế.
2. Nội dung đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
a) Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo.
- Cơ hội và thách thức.
+ Về cơ hội:
Xu thế toàn cầu hoá tạo điều kiện thuận lợi.
Công cuộc đổi mới tạo thế và lực mới.
+ Thách thức:

Phải đối mặt với những vấn đề của toàn cầu hoá.
Nền kinh tế phải chịu sức ép cạnh tranh và tác động của thị trường thế giới.
Sự chống phá của các thế lực thù địch.
=> Cơ hội và thách thức có thể chuyển hoá lẫn nhau.
- Mục tiêu, nhiệm vụ
+ Mục tiêu: Giữ vững ổn định và phát triển kinh tế- xã hội; tăng thêm nguồn lực xây dựng đất
nước; kết hợp nội lực với ngoại lực để CNH, HĐH đất nước; nâng cao vị thế VN trên trường
quốc tế.
+ Nhiệm vụ: Giữ vững môi trường hoà bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc đổi mới,
CNH,HĐH dất nước; góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới.
- Tư tưởng chỉ đạo:
+ Bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo khả năng.
+ Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với đẩy mạnh đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
+ Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
+ Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, không phân biệt chế độ
chính trị xã hội.
+ Kết hợp nhiều hình thức đối ngoại, Đảng, Nhà nước và nhân dân.
+ Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế- xã hội…
+ Phát huy tối đa nội lực, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài.
+ Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
quần chúng.
b) Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đưa các quan hệ đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp
- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với các nguyên tắc, quy
định của WTO
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc
tế
- Giải quyết tốt các vấn đề văn hoá, xã hội và môi trường trong quá trình hội nhập

- Giữ vững và tăng cường quốc phòng, an ninh trong quá trình hội nhập
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân;
chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại


- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động
đối ngoại.
3. Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân.
a) Thành tựu và ý nghĩa.
- Thành tựu.
+ Phá thế bị bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
+ Giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan
+ Mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá (thiết lập, mở rộng quan
hệ với các nước, tham gia tích cực tại Liên hợp quốc…)
+ Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế (tham gia AFTA, APEC, WTO)
+ Thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kỹ năng quản

+ Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh
- Ý nghĩa.
+ Kết hợp nội lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần đưa đến những thành
tựu kinh tế to lớn
+ Giữ vững, củng cố độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa
+ Nâng cao vị thế của VN trên trường quốc tế
b) Hạn chế và nguyên nhân.
- Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn chúng ta còn lúng túng, bị động…
- Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối
ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế; luật pháp, chính sách quản lý kinh tế – thương mại chưa hoàn
chỉnh
- Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập kinh tế quốc tế và một lộ

trình hợp lý cho việc thực hiện các cam kết
- Doanh nghiệp nước ta còn yếu cả về sản xuất, quản lý và khả năng cạnh tranh
- Đội ngũ cán bộ công tác đối ngoại còn thiếu và yếu; công tác tổ chức chỉ đạo chưa sát và chưa
kịp thời.
Câu 49 : Trình bày vị trí và mối quan hệ của cách mạng XHCN ở miền Bắc với cách mạng
Dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 3 (9/1960) xác định
?
Sau khi vạch rõ mâu thuẫn chung của cả nuo71c và những mâu thuẫn cụ thể của từng
miền, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 – 10/9/1960. đã xác
định. Nhiệm vụ chung của cách mạng VN trong giai đoạn này là : tăng cương đoàn kết toàn dân,
kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy
mạnh CM DTDCND ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cở sở độc lập và dân chủ,
xây dựng 1 nước VN hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Thiết thực góp phần
tăng cường phe XHCN và bảo vệ hoà bình ở Đông-Nam châu Á và thế giới.
*Đại hội vạch rõ 2 chiến lược cách mạng ở 2 miền :
-Tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc.
-Tiến hành CMDTDC ND ở miền Nam, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế
quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập dân chủ trong cả
nước.
2 chiến lược đó có quan hệ mật thiết và tác động thúc đẩy lẫn nhau, trước hết nhằm phục
vụ mục tiêu chung của cách mạng cả nước là : thực hiện hòa bình thống nhất Tổ quốc, giải quyết


mâu thuẫn chung của cả nước là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai
của chúng.
*Vị trí, nhiệm vụ cụ thể của cách mạng mỗi miền :
-Miền Bắc là căn cứ địa cách mạng chung của cả nước; cách mạng XHCN ở miền Bắc có
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng VN, đối với sự nghiệp thống
nhất nước nhà.
-Cách mạng miền Nam có vị trí rất quan trọng. Nó có tác dụng quyết định trực tiếp đối

với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện
hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong
cả nước, cùng cả nước quá độ lên CNXH.
*Mối quan hệ cách mạng 2 miền :
-Hai chiến lược cách mạng tuy vị trí khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng, quy
định và tác động lẫn nhau, nên phải tiến hành đồng thời. CM ở miền B và CM ở miền N thụôc 2
chiến lược khác nhau, song trước mắt đều hướng vào mục tiêu chung là giải phóng miền N, hòa
bình, thống nhất đất nước cho nên quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy
nhau cùng phát triển.
Thực tiển cách mạng VN từ sau tháng 7/1954 đến tháng 5/1975 chứng minh đường lối
tiến hành đồng thời 2 chiến lược cách mạng ở 2 miền của Đảng lao động VN là đúng đắn và sáng
tạo, thể hiện tính nhất quán của đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH đựơc
Đảng đề ra trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
1 Đảng thống nhất lãnh đạo 1 nươc tạm thời chia cắt làm đôi, tiến hành đồng thời 2 chiến
lược cách mạng khác nhau, đó là đặc điểm lớn nhất cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta
từ tháng 7/1954 – tháng 5/1975.
1.1. Quan điểm, đường lối của Đảng về Văn hoá
Từ ngày thành lập Đảng cho đến nay, quan điểm của Đảng về vai trò, vị trí của văn hoá cơ
bản nhất quán. Có thể nói Đề cương văn hoá năm 1943 là văn kiện đầu tiên khẳng định vị trí, vai
trò quan trọng của văn hoá trong sự nghiệp cách mạng với những vấn đề then chốt sau:
- Văn hoá là một trong ba mặt trận: Chính trị - Kinh tế - Văn hoá.
- Muốn làm cách mạng Xã hội chủ nghĩa (XHCN) nhất thiết phải làm cách mạng văn hoá.
- Sự nghiệp văn hoá là của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Ba nguyên tắc vận động văn hoá ở Việt Nam giai đoạn đó là: Dân tộc hoá, Khoa học hoá,
Đại chúng hoá.
- Tính chất nền văn hoá mới Việt Nam: Dân tộc về hình thức, tân dân chủ về nội dung.
Tuy nhiên, theo từng giai đoạn của cách mạng Việt Nam, quan điểm và đường lối của Đảng
về văn hoá có sự thay đổi uyển chuyển, linh hoạt phù hợp với thực tế khách quan. Có thể khái
quát theo ba giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1945 đến hết năm 1954)



Trong điều kiện kháng chiến toàn dân, toàn diện với mục tiêu lớn là giải phóng dân tộc
khỏi ách thống trị của thực dân, phong kiến, giành độc lập dân tộc, thì Văn hoá là một mặt trận,
văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy.
Giai đoạn thứ hai (từ năm 1954 đến năm 1975)
Cả nước tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vì miền Nam vẫn chưa được giải phóng
khỏi chế độ thực dân. Miền Bắc bước vào giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành hậu
phương lớn cho tiền tuyến lớn, miền Nam trong cuộc chống Mỹ cứu nước. Muốn làm cuộc cách
mạng XHCN ở miền Bắc, Đảng xác định phải làm 3 cuộc cách mạng lớn: 1. Cách mạng quan hệ
sản xuất. 2. Cách mạng khoa học và kỹ thuật. 3. Cách mạng tư tưởng, văn hoá.
Giai đoạn thứ ba (từ năm 1976 đến nay)
Giai đoạn này là giai đoạn cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chặng
đường đầu đầy khó khăn, gian khổ và trải nghiệm những thử thách có tính sống còn đối với chủ
nghĩa xã hội không chỉ ở nước ta mà còn trên phạm vi rộng lớn trong các nước XHCN. Cũng
chính từ thực tiễn sâu sắc, phong phú và những bài học rút ra từ thực tiễn khắc nghiệt ấy, Đảng
và nhân dân ta trăn trở tìm đường đổi mới mà trước tiên là đổi mới tư duy được khởi xướng từ
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986. Và cũng chính từ đó, Đảng không chỉ đổi mới tư duy trong
kinh tế mà trong văn hoá cũng có sự đổi mới. Quan điểm lớn quán xuyến toàn bộ nhận thức mới
của Đảng về văn hoá thể hiện trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII: “Văn hoá là nền tảng
tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội”. Hội
nghị lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX khẳng định sự gắn kết giữa ba nhiệm
vụ: 1. Phát triển kinh tế là trung tâm; 2. Xây dựng Đảng là then chốt; 3. Phát triển văn hoá là
nền tảng tinh thần của xã hội. Cùng với Nghị quyết nói trên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10 Ban
chấp hành Trung ương Đảng khoá IX; Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị và văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ X, XI là cụ thể hóa quan điểm của Đảng ta về văn hóa. đặc biệt là Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII với 5 quan điểm, 10 nhiệm vụ, 4 giải
pháp như sau:
1.1.1. Năm quan điểm có tính định hướng và chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp xây dựng và phát
triển văn hóa.

1. “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
2. Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


3. Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
4. Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
5. Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu
dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.”
1.1.2. Mười nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam thời kỳ đổi mới
1. “Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
2. Xây dựng môi trường văn hoá
3. Phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật
4. Bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá
5. Phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ.
6. Phát triển và đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng.
7. Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số.
8. Chính sách văn hoá đối với tôn giáo.
9. Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hoá.
10. Củng cố, hoàn thiện thể chế văn hoá.”
1.1.3. Bốn giải pháp tổng thể xây dựng và phát triển văn hoá Việt Nam
1. “Mở cuộc vận động, giáo dục chủ nghĩa yêu nước với thi đua yêu nước và phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.
2. Xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hoá.
3. Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá.
4. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hoá”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII là một văn kiện
hết sức có ý nghĩa về văn hoá, đòi hỏi các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở phải quán triệt

thực hiện. Tuy nhiên, mỗi ngành, mỗi cấp vận dụng sáng tạo những nội dung chủ yếu phù hợp
với điều kiện khách quan ở ngành mình, cấp mình để triển khai thực hiện có hiệu quả. Với cán
bộ công chức văn hoá - xã hội xã cần quán triệt 5 quan điểm và 4 giải pháp xây dựng và phát


triển văn hoá, nhưng quan trọng nhất, thiết thực nhất phải nắm chắc 10 nhiệm vụ để chọn nhiệm
vụ nào làm trước, làm như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Có nhiều tiêu chí để chọn, nhưng
trước tiên nên ưu tiên thực hiện nhiệm vụ liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ, quyền hạn và chức
trách của công chức văn hoá - xã hội xã. Phải căn cứ vào yêu cầu khách quan và khả năng thực tế
tại xã để chọn và cụ thể hoá nhiệm vụ của xã mình nhằm xây dựng và phát triển văn hoá tại địa
phương.
Ví dụ: Với một xã không có gì đặc biệt không nên chọn nhiệm vụ thứ 9: Mở rộng hợp tác
quốc tế về văn hoá làm nhiệm vụ ưu tiên hay nhiệm vụ trọng tâm. Tuy nhiên, với một xã có nghề
thủ công truyền thống, có di sản văn hoá vật thể hoặc phi vật thể quan trọng đang thu hút nhiều
khách quốc tế thì không nên bỏ qua nhiệm vụ cụ thể từ bảo vệ môi trường, giữ gìn di sản đến
thuần phong mỹ tục, văn hoá ứng xử, giao tiếp nhằm góp phần mở rộng hợp tác quốc tế về văn
hoá của chính mình và của cả nước. Với các xã ở vùng trung du, miền núi và dân tộc thiểu số có
lẽ nhiệm vụ trọng tâm phải là nhiệm vụ thứ 7: Bảo tồn, phát huy và phát triển văn hoá các dân
tộc thiểu số. Những ví dụ trên chỉ nhằm minh hoạ cho yêu cầu sáng tạo khi vận dụng quan điểm
đường lối của Đảng trong hoạt động của công chức văn hoá - xã hội xã tại địa phương.
Tinh thần cơ bản của Nghị quyết TW 5 khoá VIII tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất
lượng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn
với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội đã chỉ rõ: "Xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội”. Trong định hướng phát triển, Đảng ta khẳng định: "Xây dựng nền
văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa
dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt
chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh

nội sinh quan trọng của phát triển".
Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 ban hành theo Quyết định 581/QĐ-TTg ngày
06 tháng 05 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ đã tiếp tục khẳng định, làm rõ quan điểm, mục
tiêu và nhiệm vụ phát triển văn hóa.
Về quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa, Chiến lược trên xác định:
- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để thúc đẩy sự
phát triển kinh tế-xã hội.
- Nền văn hóa chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.


- Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữa vai trò quan trọng.
- Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu
dài đỏi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trí thận trọng.
Về mục tiêu phát triển văn hóa đến năm 2020, chiến lược trên đã xác định:
Một là, hướng mọi hoạt động văn hóa vào xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, tuân thủ pháp luật, có ý
thức cộng đồng, lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ hài hòa
trong gia đình, cộng đồng và xã hội, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự
hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh
hoạt và quan hệ con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế; gắn kết mối quan hệ giữa văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa với vấn đề hình
thành nhân cách.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn
hóa dân tộc, vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc anh
em, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, tập
trung xây dựng những giá trị văn hóa mới, đi đôi với việc mở rộng và chủ động trong giao lưu
quốc tế, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân

tộc, bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Ba là, giải phóng mạnh mẽ năng lực và tiềm năng sáng tạo của mọi người, phát huy cao độ
tính sáng tạo của trí thức văn nghệ sĩ; đào tạo tài năng văn hóa, nghệ thuật; tạo cơ chế, chính
sách và cơ sở vật chất để có nhiều sản phẩm văn hóa, nghệ thuật chất lượng cao xứng tầm với
dân tộc và thời đại; nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về lý luận và thực tiễn việc xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế.
Bốn là, tạo mọi điều kiện để nâng cao mức hưởng thụ và tham gia hoạt động, sáng tạo văn
hóa của nhân dân; phấn dấu từng bước thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật
giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu sô, vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Năm là, đi đôi với việc tăng cường đầu tư của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt
động văn hóa, huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, coi đầu tư cho văn hóa là dầu tư
cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững, gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế với phát
triển văn hóa, làm cho văn hóa tham gia tích cực vào việc thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” của đất nước.
Về nhiệm vụ trọng tâm, Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 xác định:


- Xây dựng con người, lối sống văn hóa.
- Xây dựng đời sống văn hóa và môi trường văn hóa.
- Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc.
- Bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số.
- Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật.
- Tăng cường công tác thông tin đại chúng.
- Tăng cường, chủ động hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hóa.
- Hoàn thiện hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa.
Về định hướng phát triển các chuyên nhành văn hóa, nghệ thuật, chiến lược trên cũng đã
chỉ rõ các nội dung liên quan đến các lĩnh vực:

- Nghệ thuật biểu diễn,
- Điện ảnh
- Mỹ thuật nhiếp ảnh và triển lãm
- Xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm.
- Thư viện
- Bảo tàng, di tích và văn hóa phi vật thể
- Văn hóa cơ sở.
- Nghiên cứu khoa học về văn hóa nghệ thuật.
- Quyền tác giả và quyền liên quan.
Có thể thấy rằng quan điểm mới của Đảng về vai trò của văn hoá là “sức mạnh nội sinh
của phát triển", đó là sức mạnh kỳ diệu “lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, chí nhân thay cường
bạo”, lấy yếu mà chính nghĩa để thắng mạnh mà phi nghĩa, lấy văn hoá thắng phản văn hoá. Sức
mạnh nội sinh ấy từ mọi nguồn lực của đất nước trong đó nguồn lực văn hoá là vô cùng quan
trọng, là nền tảng bền vững cho sự phát triển.
Những quan điểm cơ bản về phát triển lại được khẳng định lại trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2020: “Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển
xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân”. Mục tiêu chiến lược và khâu đột phá trong đó có lĩnh vực văn hoá, xã hội được
khẳng định: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Gia đình ấm
no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất và năng lực
sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật.”


Đối với cấp xã, khi quán triệt và vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng về văn hoá cần
lưu ý một số điểm sau:
- Thứ nhất: Vận dụng phải sáng tạo, cụ thể, sát với tình hình thực tế tại địa phương.
- Thứ hai: Không được ra các văn bản trái với quan điểm của Đảng về văn hoá;
- Thứ ba: Không được quán triệt hời hợt, tự ý “suy rộng, diễn giải” sai lệch quan điểm của
Đảng, vận dụng một cách tuỳ tiện hoặc áp đặt khiên cưỡng, máy móc làm hạn chế hiệu quả hoạt
động văn hoá, thậm chí làm tổn thất không nhỏ đến sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá nói riêng

và đời sống xã hội nói chung.
- Thứ tư: Sự nghiệp văn hoá là của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là sự nghiệp
lớn lao, lâu dài phải được toàn dân tự nguyện tham gia. Không có văn hoá tốt đẹp mà nhân dân
chối bỏ nó, bởi vậy không vì thành tích mà áp đặt, đốt cháy giai đoạn, không theo quy luật phát
triển văn hoá. Phải quán triệt quan điểm lớn: Tất cả là của dân, do dân và vì dân.
Công chức văn hoá - xã hội xã có vai trò hết sức quan trọng, không chỉ là người tuyên
truyền, giải thích mà còn là người trực tiếp cùng nhân dân triển khai thực hiện, cụ thể hoá quan
điểm, đường lối của Đảng về văn hoá tại địa phương. Trong lịch sử phát triển cách mạng Việt
Nam, chúng ta đã có những bài học hết sức thấm thía về việc cán bộ cơ sở quán triệt không sâu
sắc quan điểm của Đảng, tự ý “suy rộng, diễn giải” sai lệch đường lối của Trung ương dẫn tới
những sai lầm không đáng có, gây tổn thất lớn về văn hoá và con người. Đảng ta ngay từ khi
thành lập không có văn bản nào thể hiện quan điểm: “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”!
Cũng không có văn bản nào thể hiện quan điểm xây dựng văn hoá mới phải đập phá di sản văn
hoá truyền thống như đình chùa, miếu mạo. Không những thế, ngay khi giành được chính quyền
sau thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thì tháng 11 năm 1945 Hồ Chủ tịch đã ký
Sắc lệnh bảo vệ cổ tích thể hiện rất rõ, rất cụ thể quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà
nước ta trân trọng và giữ gìn di sản văn hoá dân tộc. Tuy nhiên, do sai lầm ở cơ sở mà có sự “trả
thù” không đúng với đường lối đại đoàn kết toàn dân của Đảng; sự “đập phá” di sản văn hoá trái
với quan điểm của Đảng về văn hoá dân tộc. Từ bài học ấy, chúng ta càng thấy ý nghĩa to lớn của
việc nghiên cứu, quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng để vận dụng sáng tạo và có hiệu
quả trong xây dựng và phát triển văn hoá tại cơ sở, góp phần đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc
sống, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.
4. KẾT LUẬN


Tóm lại, việc nhận thức và vận dụng các kiến thức về quan điểm, đường lối cơ bản của
Đảng và Nhà nước về dân tộc và tôn giáo là nội dung quan trọng không thể thiếu đối với công
chức văn hóa xã. Đây là hai nội dung có tính đặc thù trong đời sống của đồng bào dân tộc (đa số
và thiểu số), nó có tính nhạy cảm liên quan đến quan hệ dân tộc, quan hệ xã hội giữa các cộng

đồng xã hội, cộng đồng tôn giáo. Trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã có nhiều
chính sách đổi mới đối với sự phát triển toàn diện của đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng đặc
biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa; chính sách tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn
giáo của đồng bào thuộc các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo trong nước. Tình hình đó đã tạo ra sự
phấn khởi cho các đối tượng chính sách trong xây dựng đời sống kinh tế-xã hội và xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở góp phần vào sự phát triển kinh tế-xã hội và nâng cao đời sống văn hóa
tinh thần của đồng bào các dân tộc ở các các địa phương.
Tuy nhiên Dân tộc và Tôn giáo là hai vấn để có những đặc trưng riêng về lý luận và thực
tiễn quản lý. Đây là hai vấn đề mang tính toàn cầu, gắn với sự phát triển của nhân loại và đặc
điểm lịch sử của từng quốc gia. Do vậy đây cũng là hai vấn đề mà các thế lực thù địch luôn lợi
dụng đề gây mất ổn định chính trị, kìm hãm sự phát triển của đất nước và các địa phương.
Do vậy công chức văn hóa xã trong quá trình hoạt động quản lý và tổ chức các hoạt động
liên quan đến nội dung dân tộc và tôn giáo cần thận trọng, quán triệt và vận dụng các nguyên tắc
cơ bản về dân tộc và tôn giáo của Đảng và Nhà nước vào thực tiễn địa phương. Có như vậy, công
tác văn hóa, gia đình, thể thao và du lịch liên quan đến nội dung dân tộc và tôn giáo ở địa
phương mới đáp ứng yêu cầu, mục tiêu nhiệm vụ đề ra.
Câu 6: Vì sao Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu lịch sử?
1.Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến việc ra đời của Đảng là một tât yếu lịch sử.
a.Hoàn cảnh quốc tế.
- Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) thắng lợi mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân
loại, có tác động thức tỉnh các dân tộc đang đấu tranh giải phóng.
- Những tư tưởng cách mạng cấp tiến dội vào các nước thuộc địa.
a.Trong nước.
- Sự khai thác và bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đã làm gay gắt thêm các mâu thuẫn
cơ bản trong lòng xã hội Việt Nam.
- Tình trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội , đặc biệt là các mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đã
dẫn đến nhu cầu đấu tranh để tự giải phóng.
- Độc lập dân tộc và tự do dân chủ là nguyện vọng tha thiết cả nhân dân ta: là nhu cầu bức
thiết của dân tộc .
1.Sự ra đời của Đảng là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước.

- Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược giành độc lập dân tộc tuy diễn ra liên tục
mạnh mẽ, nhưng các phong trào đều lần lượt bị thất bại vì đã không đáp ứng được những yêu
cầu khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc .
- Trong khi phong trào yêu nước theo khuynh hướng chính trị khác nhau đang bế tắc về
đường lối thì khuynh hướng vô sản thắng thế: Phong trào dân tộc đi theo khuynh hướng vô sản.
- Đảng Cộng sản ra đời để giải quyết sự khủng hoảng này.
1. Đảng ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước Việt Nam.


- Từ sự phân tích vị trí kinh tế xã hội của giai cấp trong xã hội Việt Nam cho thấy chỉ có
giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
- Nhiệm vụ giải phóng dân tộc đã đặt lên vai giai cấp công nhân Việt Nam.
- Phong trào công nhân ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử tồn tại tự nhiên. Muốn
trở thành phong trào tự giác nó phải được vũ trang bằng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin; Vũ
khí lý luận và tư tưởng của giai cấp công nhân
- Giai cấp công nhân muốn lãnh đạo cách mạng được thì phải có Đảng cộng sản.
- Sự thành lập Đảng cộng sản là quy luật của sự vận động của phong trào công nhân từ tự
phát thành tự giác, nó được trang bị bằng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
- Nguyễn ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tìm thấy chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường
giải phóng dân tộc theo đường lối cách mạng vô sản.
- Nguyễn ái Quốc thực hiện công cuộc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam,
chuẩn bị về chính trị , tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam .
- Chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam đã thúc đẩy phong trào công nhân và
phong trào yêu nước phát triển .
- Các phong trào đấu tranh từ năm 1925 đến năm 1929 chứng tỏ giai cấp công nhân đã
trưởng thành và đang trở thành một lực lượng độc lập. Tình hình khách quan ấy đòi hỏi phải có
một Đảng cộng sản lãnh đạo.
- Ba tổ chức cộng sản ra đời là: Đông Dương cộng sản Đảng, An Nam cộng sản đảng,
Đông Dương cộng sản đảng liên đoàn đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của phong trào cách

mạng
- Ngày 3-2-1930 thống nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng, đó là Đảng Cộng sản
Việt Nam .
Câu 7: Trình bày hoàn cảnh lịch sử, nội dung, ý nghĩa lịch sử và hạn chế của Luận cương
chính trị tháng 10/1930?
1.Hoàn cảnh lịch sử
- Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mới ra đời với đường lối cách mạng đúng đắn, đã lãnh đạo
quần chúng dấy lên phong trào cách mạng rộng lớn chưa từng có trước đó.
- Đang lúc phong trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao, Ban chấp hành Trung ương lâm
thời của Đảng họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng-Trung Quốc (từ ngày 14 đến ngày 3110-1930). Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, thông
qua Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng .Hội nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam
thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị cử ra Ban thường vụ Trung ương và cử đồng chí
Trần Phú làm Tổng bí thư. Hội nghị thảo luận và thông qua bản Luận cương chính trị của Đảng.
1.Nội dung cơ bản của Luận cương chính trị
Bản luận cương chính trị gồm 13 mục, trong đó tập trung vào những vấn đề lớn:
- Về mâu thuẫn giai cấp : Luận cương xác định , ở Việt Nam, Lào, Campuchia, mâu thuẫn
diễn ra ngày càng gay gắt giữa một bên là là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên
là địa chủ phong kiến , tư bản và đế quốc chủ nghĩa.
- Về tính chất cách mạng Đông Dương: “Trong lúc đầu , cuộc cách mạng Đông Dương sẽ
làm một cuộc cách mạng tư sản dân quyền....nhờ vô sản giai cấp chuyên chách các nước giúp
sức mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường chủ nghĩa xã hội”.
- Về nhiệm vụ cách mạng : “Sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là
phải đấu tranh để đánh đổ các di tích phong kiến , đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bản
và thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là đấu tranh để đánh đổ đế quốc chủ


nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với
nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ
địa được thắng lợi: mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”.
- Về lực lượng cách mạng : “Vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô

sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”.
+ Tư bản thương mại , tư bản công nghệ ,khi phong trào quần chúng nổi lên cao thì bọn
này sẽ theo đế quốc .
+ Tiểu tư sản có nhiều hạng: thủ công nghiệp đối với phong trào cách mạng vô sản, hạng
này cũng có ác cảm....rất do dự.
+ Bọn thương gia không tán thành cách mạng .
+ Trí thức-tiểu tư sản, học sinh.... đại biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bản bản xứ.
- Về phương pháp cách mạng : “Lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình mà đặt khẩu hiệu
“phần ít” để bênh vực lợi quyền cho quần chúng ....Đến lúc cách mạng lên rất mạnh, giai cấp
thống trị đã rung động, các giai cấp đứng giữa
muốn bỏ về phe cách mạng ....Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh phủ của
địch....Võ trang bạo động không phải là một việc thường....phải theo khuôn phép nhà binh”.
- Về Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách
mạng ở Đông Dương, là cần phải có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, mật thiết
liên lạc với quần chúng và từng trải tranh đấu mà trưởng thành, “Đảng là đội tiên phong của vô
sản giai cấp lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm gốc”.
- Về quan hệ quốc tế: Luận cương chính trị chỉ rõ: “Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật
thiết với vô sản thế giới, nhất là vô sản Pháp để làm mặt trận vô sản “mẫu quốc” và thuộc địa cho
sức tranh đấu cách mạng được mạnh lên”.
- Luận cương đã khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng ở
nước ta mà Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đã nêu như mục đích, tính chất của cách
mạng trong giai đoạn đầu là làm cách mạng tư sản dân quyền (tức cách mạng dân tộc dân chủ )
với hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến , nhằm thực hiện độc lập cho dân tộc và
ruộng đất cho nông dân. Cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ lập ra nhà nước công nông sau
đó sẽ chuyển thẳng sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa; giai cấp công nhân và giai cấp nông
dân là hai động lực chính của cách mạng , trong đó giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo
cách mạng Việt Nam liên kết mật thiết với giai cấp vô sản các nước và các dân tộc thuộc địa.
- Nội dung trên phản ánh sự giống nhau căn bản giữa Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn
tắt và Luận cương chính trị trên những vấn đề then chốt của lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, đã
bước đầu khẳng định một số vấn đề có tính quy luật của cách mạng Việt Nam. Luận cương còn

xác định thêm con đường đúng đắn tiến lên giành chính quyền phải là con đường cách mạng bạo
lực của quần chúng .
1.Hạn chế
- Chưa xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa nên không nêu được vấn
đề dân tộc lên hàng đâù mà nặng về đấu tranh giai cấp , về vấn đề cách mạng ruộng đất.
- Đánh giá không đúng khả năng cách mạng , mặt tích cực , tinh thần yêu nước của các giai
cấp, tầng lớp khác ngoài công nông trong cách mạng giải phóng dân tộc .
- Chưa thấy được sự phân hoá trong giai cấp địa chủ phong kiến , nên không đề ra được
vấn đề lôi kéo một bộ phận giai cấp đia chủ trong cách mạng giải phóng dân tộc .
- Những hạn chế trên được Đảng khắc phục dần trong quá trình lãnh đạo cách mạng .
1.ý nghĩa lịch sử .


Cùng với Chính cương vắn tắt , Sách lược vắn tắt, Luận cương chính trị tháng 10-1930
của Đảng đã vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách
mạng Đông Dương, vạch ra con đường cách mạng chống đế quốc và chống phong kiến , đáp ứng
những đòi hỏi của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.
Câu 39: Hoàn cảnh lịch sử và nội dung của Luận cương chính trị tháng 10 năm 1930, so
sánh với những nội dung những văn kiện thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam?
I.Hoàn cảnh lịch sử và nội dung của Luận cương chính trị: Xem câu 7
1So sánh
a.Giống nhau
Luận cương chính trị và Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt đều nêu ra mục đích, tính
chất của cách mạng trong giai đoạn đầu là làm cách mạng tư sản dân quyền (tức là cách mạng
dân tộc dân chủ) với hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến , nhằm thực hiện độc lập
cho dân tộc và ruộng đất cho nông dân . Cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ lập ra nhà
nước công nông sau đó chuyển thẳng sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa; giai cấp công nhân
và giai cấp nông dân là hai động lực chính của cách mạng , trong đó giai cấp công nhân là lực
lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam liên kết mật thiết với giai cấp vô sản các nước và các dân

tộc thuộc địa.
b.Sự khác nhau
-Luận cương chính trị:
+Chưa xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa nên không nêu được vấn
đề dân tộc lên hàng đâù mà nặng về đấu tranh giai cấp , về vấn đề cách mạng ruộng đất.
+Đánh giá không đúng khả năng cách mạng , mặt tích cực , tinh thần yêu nước của các giai
cấp, tầng lớp khác ngoài công nông trong cách mạng giải phóng dân tộc .
+Chưa thấy được sự phân hoá trong giai cấp địa chủ phong kiến , nên không đề ra được
vấn đề lôi kéo một bộ phận giai cấp đia chủ trong cách mạng giải phóng dân tộc .
+Xác định được con đường tiến lên giành chính quyền phải là con đường cách mạng bạo
lực quần chúng.
-Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt.
+Xác định được mâu thuẫn của xã hội và đã đề ra hai nhiệm vụ cách mạng, đó là: chống
đế quốc và tay sai và giành độc lập tự do cho toàn thể nhân dân.
+Vận động thu phục cho bằng được sự tham gia của đông đảo giai cấp công nhân và nông
dân.
+Đảng hết sức lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông đi về phía giai cấp vô sản, lôi kéo
các lực lượng khác tham gia giai cấp vô sản nếu có thể, còn những lực lượng chống đối thì đánh
đổ. hiệm vụ của nhân dân cả nớc ta lúc này là phải củng cố chính quyền , chống thực dân
Câu 31: Trình bày bài học: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố
hàng đầu đảm bảo thắng lợi của cách mạng Việt Nam?
Nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1930 đến nay,
đã vượt qua những khó khăn thử thách và đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác . Cách mạng
Tháng Tám năm 1975 thành công chấm dứt chế độ phong kiến thực dân, lập nên Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà. Kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thắng lợi. Cách mạng
xã hội chủ nghĩa đã được tiến hành trên miền Bắc sau năm 1954 và trên cả nước sau năm 1975
và đặc biệt là quá trình đổi mới từ sau năm 1986 đã đạt được những thành tựu quan trọng, khẳng
định tính đúng đắn của con đường và mục tiêu cách mạng Việt Nam là gắn liền với độc lập dân
tộc .



Những thắng lợi to lớn có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam bắt nguồn từ nhiều
nhân tố, trong đó nhân tố quyết định nhất là sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam –một Đảng luôn luôn lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình.
Sở dĩ Đảng là người tổ chức và lãnh đạo duy nhất mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam,
vì:
-Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử .
-Đảng là đại biểu trung thành với đầy đủ lợi ích sống còn và nguyện vọng chân chính của
giai cấp công nhân , của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam.
Độc lập dân tộc , tự do hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu , là lý tưởng của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng đã nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta
ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục đích, là con đường cách mạng của
Đảng. Vì mục đích đó mà qua các thời kỳ lịch sử cách mạng Việt Nam, biết bao chiến sĩ anh
hùng đã cống hiến trọn đời mình cho cách mạng . Đảng luôn luôn tuyệt đối trung thành với lợi
ích của Tổ quốc, của nhân dân và chính điều đó Đảng mới có đủ sức mạnh làm nên sự nghiệp
lớn.
Đảng thường xuyên giáo dục Đảng viên, cán bộ phải có ý thức biết đặt lợi ích của Tổ quốc,
của nhân dân lên trên hết, đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng: “Mọi quan điểm tư tưởng coi
Đảng là làm chức này, chức nọ” “để tìm công ăn việc làm” đều xa lạ với đạo đức cách mạng ,
đều sai trái “với nguyên tắc cao nhất của Đảng”.
Đảng luôn luôn quán triệt trong mọi hoạt động của mình quan điểm sự nghiệp cách mạng
là của nhân dân , do nhân dân và vì nhân dân , phải ‘lấy dân làm gốc”.
Đảng biết dựa vào lực lượng quần chúng , phát huy tính tích cực cách mạng của quần
chúng , toàn tâm toàn lực phục vụ quần chúng . Trong suốt cả quá trình lãnh đạo cách mạng ,
Đảng đã có đường lối chính sách đúng, phản ánh được lợi ích chân chính và nguyện vọng của
nhân dân . Đại đa số đảng viên của Đảng đã tham gia thời kỳ hoạt động bí mật và trong suốt hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Họ đã kiên trì bám sát quần

chúng để xây dựng cơ sở, phát động đấu tranh giành lại quyền sống.
Nhân dân ta luôn luôn nghe theo Đảng, tin theo Đảng mặc dù trong bước đường cách mạng
gặp khó khăn, họ vẫn tin Đảng ,bảo vệ Đảng.
Ngày nay trong giai đoạn cách mạng mới, đất nước thống nhất đi lên theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ,Đảng vẫn ý thức được rằng, trong mọi hoạt động của mình phải quán triệt quan
điểm “lấy dân làm gốc”.
-Đảng biết nắm vững, vận dụng sáng tạo lý luận Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ thực tiễn, Đảng đề ra đường lối chính trị đúng đắn và nâng cao bản lĩnh chính trị
của Đảng.
-Sự sụp đổ của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa, các thế lực đế quốc và thù địch
chỉ cần tấn công vào các Đảng Cộng sản và Công nhân, làm vô hiệu hoá hoặc tan vỡ từ bên trong
các Đảng Cộng sản đang cầm quyền.
-Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn thúc đẩy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình.
-Đảng luôn có ý thức vận dụng một cách độc lập và sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào
hoàn cảnh cụ thể của nước ta.


-Đảng có ý thức kế thừa di sản tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn đất nước và tinh hoa truyền thống dân tộc .
-Cách mạng Tháng Tám năm 1945, kháng chiến chống thực dân Pháp và kháng chiến
chống đế quốc Mỹ thắng lợi là nhờ Đảng ta đề ra đường lối cm dân tộc dân chủ đúng đắn, có sự
chỉ đạo chiến lược và sách lược sắc bén....
-Các yếu tố nói trên đảm bảo cho Đảng ta luôn luôn giữ vững vai trò là người lãnh đạo
cách mạng , được quần chúng tin cậy và một lòng theo Đảng.
-Thời kỳ cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội từ năm 1975 đến năm 1985 đất nước ta còn
nhiều khó khăn. Xét đến nguyên nhân, về mặt chủ quan, Đảng tự kiểm điểm là đã phạm một số
sai lầm, đặc biệt là trong việc xác định chủ trương đường lối và cả trong công tác xây dựng
Đảng.
-Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã nghiêm khắc chỉ ra những thiếu

sót và đề ra nhiệm vụ cấp bách là phải đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng ngang tầm với nhiệm vụ lịch sử , coi đó là nhiệm vụ hàng đầu và thường xuyên trong công
tác xây dựng Đảng hiện nay.
-Điều quan trọng trước hết là Đảng phải đổi mới tư duy, nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng
lên một bước phát triển mới, Đảng cần coi trọng việc nắm vững và vận dụng sáng tạo những luận
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì định hướng xã hội chủ
nghĩa. Tổng kết một cách khoa học kinh nghiệm thực tế sinh động từ phong trào quần chúng
nước ta và tiếp thu có chọn lọc trí tuệ thời đại, đề ra đường lối, chủ trương cho thật đúng, thật sát
hợp với quy luật khách quan và với đặc điểm riêng của cách mạng nước ta.
-Đảng thường xuyên xây dựng vững mạnh về tổ chức, nâng cao sức chiến đấu và năng lực
tổ chức thực tiễn. Đảng luôn luôn tuân thủ các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng như nguyên
tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách nguyên tắc phê bình và tự
phê bình, xây dựng Đảng thành đội tiên phong chiến đấu, luôn luôn đoàn kết thống nhất trên cơ
sở đường lối chính sách đúng và các nguyên tắc của Đảng. Mặt khác, Đảng cần hết sức coi trọng
công tác đào tạo, bồi dưỡng , giáo dục đảng viên về trình độ chính trị văn hoá, khoa học –kỹ
thuật, về năng lực lãnh đạo và quản lý , về phẩm chất , đạo đức, tư cách sao cho tương xứng với
yêu cầu lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Câu 74: So sánh cương lĩnh tháng 2 và luận cương tháng 10?
 Giống nhau:
 Xác định tính chất của cách mạng vn là CMTS dân quyền và CMXHCN. Đây là 2
nhiệm vụ CM nối tiếp nhau ko có bức tường ngăn cách
 Mục tiêu của CMVN là độc lập dân tộc và ruộng đất dân cày
 Khẳng định lực lượng lãnh đạo CMVN là ĐCS. Lấy CN mac-lê làm nền tảng
 Khẳng định CMVN là 1 bộ phận khắng khít của CMTG, giai cấp VS VN phải đoàn kết
với VSTG nhất là VS pháp
 Xác hịnh vai trò và sưc mạnh giai cấp công nhân
 Khác nhau:
Cương lĩnh tháng 2
Luận cương tháng 10
Kẻ thù: đánh đổ ĐQ và bọn PKTS, tay sai

Đánh đổ PK ĐQ
phản CM
Nhiệm vụ: nv độc lập là nv hàng đầu
Nhiệm vụ dân tộc và dân chủ được tiến
Mục tiêu: làm cho VN hoàn toàn độc lập
hành 1 lúc
nhân dân tự do dân chủ bình đẵng, tịch thu Làm cho đông dương hoàn toàn độc lập,


ruộng đất của ĐQ chia cho dân cày nghèo
Lực lượng CM: là gc công nhân và nông
dân, bên cạnh đó phải lien minh đoàn kết
với tiểu tư sản lợi dung hoặc trung lập phú
nông trung tiểu dịa chủ

giải quyết 2 muân thuẫn cơ bản là mâu
thuẩn dân tộc và mâu thuẩn giai cấp ngày
càng sâu sắc

Là công nhân và nông dân, chưa phát huy
được sức mạnh của khố đại đoàn kết dân
tộc,của TTS,TS
Câu 76: Tại sao cm tháng 8 là thời cơ ngàn năm có 1?
Yếu tố bên ngoài: là lúc kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta là phát xít nhật đã bị lien xô và các
lực lượng dân chủ thế giới đánh bại. bọn nhật ở đông dương tan rã.có sự mâu thuẩn CN ĐQ ><
CNPX, ĐQ>< địa chủ
Yếu tố bên trong: do sự lãnh đạo của đảng, đảng đã chuẩn bị về các mặt về chủ trương, lực
lượng và tập dượt qua cao trào kháng nhật cứu nước, có sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính
trị và lực lượng vũ trang, kết hợp nổi dậy của quần chúng, đảng biết vận dụng sang tạo CN mac
vào hoan cảnh cụ thể của nước ta

Câu 77: Bằng lý luận và thực tiển hãy chứng độc lập dân tộc gắn với CNXH là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt của quá trình CMVN?
Lý luận: Vì CNXH đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc
 CNXH dựa vào quan điểm CN mác-lê và chủ tịch HCM
Thực tiển:
+ Giai đoạn 1930-1954: đặc điểm CNXH là ĐLDT( là mục tiêu trực tiếp) và CNXH
Tác dụng của CNXH: đảm bảo cho CM DCND theo đúng hướng, đúng mục tiêu, có kết
quả. tiêu biểu là: cm tháng 8, kháng chiến chống pháp để đến hiệp định gionevo
+ Giai đoạn 1954-1975:
Đặc điểm: kết hợp 2 nhiệm vụ của 2 miền. miền nam là cách mạng DTDCND, miền bắc là
XD CNXH
Tác dụng: giải phóng miền nam thống nhất đất nước
+ Giai đoạn 1975- nay:
Đặc điểm: dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh và ĐLDT gắn liền chặt
chẽ với CNXH
Tác dụng: kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Câu 70: Trình bày đường lối kháng chiến chống thực dân pháp ?
- Năm 1858 thực dân Pháp xâm luợc nước ta. Ngày 6-6-1884 triều đình Nguyễn ký hiệp
ước Patơnốt thừa nhận sự thống trị của thực dân Pháp, chia nước ta thành 3 kỳ với 3 chế độ
chính trị khác nhau, vừa xây dựng hệ thống chính quyền thuộc địa, vừa duy trì chính quyền
phong kiến và tay sai làm chổ dựa. Mọi quyền hành đều trong tay người Pháp, với âm mưu thâm
độc thực hiện chính sách chia để trị, chính sách ngu dân, chính sách độc quyền về kinh tế, ra sức
vơ vét tài nguyêm bóc lột sức lao động rẻ mạt của người bản xứ, cừng nhiều hình thức thuế khoá
năng nề, vô lý.
- Trước những áp bức bóc lột dã man của thực dân Pháp, nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy
cầm vũ khí chống bọn cướp nước. Nhưng tất cả những cuộc đấu tranh đó đều không giành được
thắng lơi. Giai cấp địa chủ phong kiên mà tiêu biểu là triều đình nhà Nguyễn đã bất lực và hèn
nhát nhanh chóng đầu hàng thực dân Pháp và trở thành phản động, phản bội lại lợi ích của dân
tộc.
Phong trào chống Pháp theo ý thức hệ phong kiến: phong trào Cần Vương đã thất bại khi

cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng chấm dứt năm 1896; phong trào khởi nghĩa nông dân


Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Nguyên nhân
là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ chức cách mạng có khả năng dẫn dắt dân tộc đến thắng
lợi. Điều này chứng tỏ rằng, thời kỳ đấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ ý thức hệ tư
tưởng phong kiến đã chấm dứt. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta rơi vào tình trạng khủng hoảng
về đường lối cứu nước, về giai cấp lãnh đạo cách mạng.
- Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam cũng như một số nước phương Đông khác
đã ít nhiều chịu sự chi phối của ý thức hệ tư sản. Đặc biệt cách mạng Minh Trị ở Nhật Bản
(l868), cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) đã có tác động nhất định tới phong trào
yêu nước ở Việt Nam, làm dấy lên ở nước ta một phong trào yêu nước rộng rãi theo khuynh
hướng tu sản nhưng đều thất bại. Tiêu biểu là phong trào của cụ Phan Bội Châu, cụ Phan Chu
Trinh, phong trào Duy Tân của vua Duy Tân. Điều này chứng tỏ sự bất lực của giai cấp tư sản
Việt Nam, rằng giai cấp tư sản Việt Nam không đủ khả năng giương cao ngọn cờ lãnh đạo đưa
cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Tình hình khủng hoảng, bế tắc về con đường cứu nước giải phóng dân tộc, yêu cầu lịch sử
đòi hỏi phải có một tổ chức cách mạng tiên phong, có đường lối cách mạng đúng đắn dẫn đường,
mới có khả năng đưa phong trào cứu nước đi đến thắng lợi.
Câu 80: Tại sao nói ĐCS ra dời là 1 tất yếu lịch sử?
+ Do dk lịch sử ra đời : năm 1858 thực dân pháp vũ trang xâm lược nước ta. Từ đó VN trở
thành thuộc địa cảu pháp. Dưới chế độ thống trị của pháp va tay sai, VN co những thay đổi sau:
Về chính trị: thực dân pháp thi hành chính sách chuyên. Mọi quyền hành đều nằm trong
tay pháp, vua quan nhà nguyễn đóng vai trò bù nhìn. Chúng thi hành chính sách chia để trị.
Chúng chia rẽ 3 dân tộc trên bán đảo đông dương, lập ra xứ đông dương thuộc pháp nhằm xóa
tên VN trên bản đồ thế giới
Về kinh tế: pháp ko phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở mang 1 số nghành trực
tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tai nguyên để cung cấp nguyên liệu cho nền công
nghiệp pháp. Chính sách độc quyền kinh tế pháp đã biến VN thành thị trường chính quốc, nơi vơ
vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẽ mạt. bên cạnh đó chúng còn duy trì chế độ phong kiến để

giúp chúng bóc lột địa tô, lợi tức và thuế khóa nặng nề
Về xã hội: mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ chưa được giải quyết thị mâu thuẫn giữa
dân tộc ta với bọn pháp thống trị và tay sai phát sinh.
Sinh trưởng trong nước thuộc địa nữa phong kiến, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và giai cấp
công nhân chịu sự áp bức của pháp, phong kiến tay sai và tư sản. đó là cơ sở khách quan thuận
lợi để có sự liên minh ra đời và phát triển trong quá trình cách mang
+ ĐCS ra đời dã chứng tỏ :
- Chấm dứt được sự khủng hoảng về vai trò lãnh đạo
- CMVN đã trở thành bộ phận của cách mạng thế giới
- Tạo bước ngoặc vĩ đại của CMVN
- Chứng tỏ sự trưởng thành lơn mạnh của gc VSVN
- Đó là sự đúng đắn phù hợp với CMVN
Câu 83: Vì sao CNH phải gắn liền với hiện đại hóa?
Vì dặc điểm của nước ta là nươc nghèo nàn lạc hậu, kém phát triển, lại bị chiến tranh phá
hoại nặng nề, cơ chế quản lý tập trung quan lieu bao cấp trước đây đã dẫn nền kinh tế bị tụt hậu
so với thế giới, điều đó đòi hỏi nước ta phải tiến hành CNH
Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, nếu như nước ta ko kịp thời tiến hành
CNH,HDH thì bị bỏ lại phía sau. Đòng thời nươc ta tận dụng được lợi thế của các nươc phát
triển tiếp thu được công nghệ mà không phải bỏ công sức ra để tìm tòi, phát minh


×