U NHẦY RUỘT THỪA
(Appendiceal mucocele)
I.
II.
III.
Khái quát
- U nhầy ruột thừa là một bệnh lý hiếm gặp, chiếm 0.2-0.3% trong tổng số các ca mổ
ruột thừa, chiếm khoảng 8% các loại u của ruột thừa, Bệnh thường lành tính chỉ
khoảng 10% có diễn biến thành u ác tính.
- U nhầy ruột thừa được mô tả lần đầu tiên năm 1842 bởi Rokitansky nhưng chính
thức đặt tên bởi Feren năm 1876. U nhầy ruột thừa là sự giãn nở cua ruột thừa bởi sự
tích tụ của các chất nhầy, diễn tiến từ từ và không có dấu hiệu nhiễm trùng
-U nhầy ruột thừa được hình thành do sự tắc nghẽn ở gốc ruột thừa gây ra sự dãn nỡ
phần còn lại của ruột thừa và tích tụ chất nhầy bên trong. Tùy theo nguyên nhân tắc
nghẽn mà diễn tiến của u nhầy có thể cấp tính như viêm ruột thừa (do sỏi phân) hay
mạn tính (do tăng sản)
- bệnh có thể gặp ở bất cứ độ tuổi nào, nhưng thường thấy ở tuổi trên 35, nữ nhiều
hơn nam (nữ/nam từ 3/1 – 4/1)
Phân loại
- Có thể phân loại u nhầy ruột thừa dựa vào đặc điểm mô học:
+ U nhầy đơn thuần ( do viêm, tắt nghẽn hay u nang): đặc trưng bởi sự thoái hóa biểu
mô, tắc nghẽn và căng to của ruột thừa, không có sự tăng sản bất thường hay niêm
mạc điển hình.
+ U nhầy tăng sản: giãn nở ruột thừa do sự tăng sản bất thường của lớp niêm mạc ruột
thừa hoặc manh tràng như polyp ở đại tràng.
Trong cả 2 trường hợp thì chất nhầy thường vô bào.
+ U nang niêm mạc (u lành tính): các biểu mô loạn sản như polyp kết tràng, chiếm
63-84% các trường hợp
+ Carcinoma u tuyến niêm mạc ( u ác tính biến chuyển từ U nang niêm mạc): loạn
sản nặng và di căn tế bào mô đệm.
Kích thước u lành tính thường nhỏ hơn u ác tính và chưa ghi nhận trường hợp u
nhỏ hơn 2cm
Triệu chứng
- 25 – 51% u nhầy ruột thừa không có triệu chứng, 50% u nhầy ruột thừa được phát
hiện tình cờ qua siêu âm, nội soi đường tiêu hóa, trong lúc mổ một bệnh lý khác
1. lâm sàng: bệnh ít biểu hiện trên lâm sàng, có 1 số triệu chứng không đặc hiệu
- gần 50% có biểu hiện đau bụng vùng hố chậu phải (Thời gian khởi phát triệu chứng
thay đổi từ 1 ngày đến 2 năm, thời gian trung bình là 2 tháng)
- Thay đổi thói quen đi cầu
- Xuất huyết tiêu hóa
- Sụt cân
- Sờ thấy khối vùng hố chậu phải
- Buồn nôn, nôn
- Thiếu máu
- một số ít bệnh nhân có biểu hiện sốt khi nhập viện, sốt kèm đau bụng cấp thương
gợi ý đến chẩn đoán viêm ruột thừa cấp trước mổ
2. Cận lâm sàng: bệnh chủ yếu chẩn đoán dựa vào siêu âm và chụp CT
IV.
V.
- siêu âm : Tổn thương vùng hố chậu phải, điển hình là nang có truyền âm và tăng
cường âm vách sau.
+ Nếu nang có vôi hoá thường có bóng lưng sau nhưng ít được chú ý.
+ Bề dày vách thay đổi, nhưng nếu vách dày hơn 6mm được xem là biến chứng của
viêm ruột thừa cấp.
+ Lòng u nhày ruột thừa không có echo (anechoic) hay có echo dày (hyperechoic)
uốn sóng hay xếp từng lớp (dấu vảy hành, oignon skin sign). Lòng có vách hay có
dạng polyp và đường viền không đều thường là ác tính dù dạng polyp thường có ở
mucinous cystadenoma.
+ Các chẩn đoán phân biệt của siêu âm là tụ dịch ruột non, dịch trong túi thừa đại
tràng, áp xe ruột thừa hay áp xe túi thừa và nang thanh dịch mạc treo (mesenteric cyst
seroma). Ở phụ nữ đang thời sinh sản chẩn đoán phân biệt còn là viêm vòi trứng hoặc
thai ngoài tử cung.
- CT: Tổn thương là một khối nang với thành mỏng, tỉ trọng thấp(30-40 HU), thông
với manh tràng.Có thể quan sát chính xác mối liên quan giữa tổn thương với cơ quan
lân cận và bất cứ bất thường khác có liên quan đến u nhầy
+ Các u nhày có dạng bất thường hay phức tạp thường là mucinous
cystadenocarcinoma, với 1 nang hay nhiều nang và thành phần đặc. Có thể xâm
nhiễm các cơ quan lân cận như đại tràng, bàng quang, và niệu quản.
+ Vôi hoá dạng chấm hay đường uốn cong thường là mucinous cystadenoma, không
thấy trên phim bụng không chuẩn bị. Vôi hoá không định hình thường là ác tính, do
viêm mạn tính vì chất nhày kích thích.
+ Nên tìm thêm xem có u kết hợp với u nhày ruột thừa không như u đại tràng (xuất độ
6 lần đối với colon adenocarcinoma) hay u buồng trứng tiết nhày (mucin-secreting).
- Nội soi đại tràng: có thể hiển thị một khối hồng ban mềm, với một “miệng núi lửa”
trung tâm do phần nhô ra của lỗ ruột thừa, có thể tăng hoặc giảm theo nhịp thở, có thể
cho thấy sự hiện diện của đồng bộ các tổn thương ung thư trong đại tràng.
- Sinh thiết: phân biệt hình thức lành tính hay ác tính CEA có thể tăng trong trường
hợp u ác tính
- U nhày ruột thừa nên được xem là chẩn đoán phân biệt cho các khối vùng hố chậu P.
Để có chẩn đoán chính xác trước mổ, bắt buộc phải làm CT. Tất cả nhằm giúp phẫu
thuật viên cẩn thận hơn để tránh làm vỡ u nhày ruột thừa làm rò chất nhày vào ổ bụng
gây giả u nhày phúc mạc.
Biến chứng
- Biến chứng của u nhầy ruột thừa khá ít. Nhiều khảo cứu cho thấy có sự liên quan
giữa u nhầy ruột thừa với u bường trứng, tử cung, đại tràng.
- Biến chứng nhiêm trọng nhất của u nhầy ruột thừa là giả u nhầy phúc mạc. Biến
chúng này thường gặp hơn trong u nhầy ruột thừa ác tính (95%). Hậu quả của giả u
nhầy phúc mạc và tiên lượng nhìn chung tốt hơn ở bệnh nhân được chẩn đoán và
chữa trị sớm đã chứng tỏ phẫu thuật cắt bỏ đơn giản và thám sát kỹ càng trong u
nhầy ruột thừa là cần thiết
Điều trị
- U tân sinh tiềm ẩn ác tính có thể được điều trị phẫu thuật cắt triệt căn nhưng đối
với những trường hợp lành tính c phải được chữa bảo tồn vì những biến chứng có thể
xảy ra do nhiễm trùng phúc mạc hay manh tràng và khả năng ác tính hóa.
- Hiện nay phẫu thuật cắt khối nhày bằng phương pháp mổ hở hay mổ nội soi là vấn
đề còn tranh cãi. Có nhiều tác giả khuyên nên mổ hở cắt ruột thừa vì sợ ruột thừa bị
vỡ làm chất nhày lan vào khoang phúc mạc dẫn đến u giả nhày phúc mạc
(Pseudomyxoma peritonei) hoặc khi gặp loại ung thư nang tuyến nhày mà để vỡ hoặc
đụng chạm vào thành bụng đều là tai hoạ khó lường.
+ Tuy nhiên với kỹ thuật mổ nội soi cắt ruột thừa ngày nay cùng với sự khéo tay của
phẫu thuật viên, u nhày ruột thừa có thể được cắt gọn gàng sau khi được cột gốc cẩn
thận và đưa vào trong túi nylon để đưa ra ngoài ổ bụng một cách sạch sẽ và gọn gàng.
- Cắt bỏ 1 phần manh tràng nơi thông với ruột thừa được thực hiện trong trường hợp
thoát vị màng nhầy khi ruột thừa lớn hơn 2cm hay có khối u ở manh tràng. Việc này
giúp cho việc ngăn chặn di căn các tế bào ung thư trong ổ bụng.
- Sau khi lấy bệnh phẩm làm giải phẫu bệnh mà thấy có tế bào ác tính thì phải
thực hiện ngay một cuộc phẫu thuật cắt đại tràng phải hay chí ít là cắt đoạn manh
tràng, với mục tiêu cắt toàn bộ chuỗi bạch huyết của vùng này vì khả năng di căn cao.
Hóa trị sau phẫu thuật thường dùng fluorouracil-5 trong năm ngày đầu sau phẫu thuật,
ngăn cản tế bào ung thư phát triển và dây dính ở vết thương.