Tải bản đầy đủ (.docx) (124 trang)

Phát triển nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.14 KB, 124 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
-----------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Phát triển nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam

Ngành: Tài chính – Ngân hàng – Bảo hiểm
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

Họ và tên học viên: Nguyễn Ngọc Giang
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS TRẦN THỊ LƯƠNG BÌNH
HÀ NỘI - 2017


MỤC LỤC


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan Luận văn Thạc sỹ “Phát triển nghiệp vụ phái sinh
ngoại hối tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam” là công
trình do chính tác giả nghiên cứu và soạn thảo. Các số liệu, thông tin sử dụng trong
luận văn này là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.

Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn


Nguyễn Ngọc Giang


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, người viết luận văn này xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Ban
Giám hiệu trường Đại học Ngoại thương Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo khoa
Sau đại học – những người thầy tâm huyết đã dìu dắt, giảng dạy và tạo điều kiện
thuận lợi để tác giả học tập và hoàn thành tốt khóa học.
Tác giả xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến cô giáo – Tiến sĩ Trần Thị Lương
Bình, người hướng dẫn khoa học đã nhiệt tâm và tận tình hướng dẫn tác giả trong
suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Tác giả cũng muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến các cán bộ Trung tâm vốn –
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, cán bộ Thư viện trường
Đại học Ngoại thương, cán bộ Thư viện Quốc gia đã giúp đỡ tác giả trong quá trình
thu thập tài liệu cho luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả bạn bè, đặc biệt là gia
đình tác giả, những người đã luôn kịp thời động viên, cổ vũ, giúp đỡ và tạo điều
kiện tốt nhất để tác giả có thể hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã rất cố gắng nghiên cứu, tìm tòi, sưu tầm tài liệu nhưng do thời gian
có hạn cũng như trình độ người viết còn hạn chế, luận văn chắc chắn không thể
tránh khỏi còn nhiều thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của
quý thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, tháng 05 năm 2017
Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Giang


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt
AGRIBANK
ATM
BIS
CCPS
CHDCNH
CSTT
CTCP
FOREX
IPCAS
KBNN
KDNH
KDNT
NHNN
NHNo và PTNT
NHTM
NHTƯ
OCC
OTC
PSNH
QLNH
SPDV
SWIFT
TCKT
TCTD
TNHH
TTNH
TTQT
VAMC
WTO

XNK

Nguyên văn
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Automated Teller Machine – Máy rút tiền tự động
Bank for International Settlements – Ngân hàng Thanh toán Quốc tế
Công cụ phái sinh
Cộng hòa dân chủ nhân dân
Chính sách tiền tệ
Công ty cổ phần
Foreign Exchange – Thị trường ngoại hối
Interbank Payment and Customer Accounting System – Hệ
thống thanh toán và kế toán khách hàng
Kho bạc Nhà nước
Kinh doanh ngoại hối
Kinh doanh ngoại tệ
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Trung ương
Office of the Comptroller of the Currency – Cơ quan kiểm soát tiền tệ
Over-the-counter – Chứng khoán giao dịch phi tập trung
Phái sinh ngoại hối
Quản lý ngoại hối
Sản phẩm dịch vụ
Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication
– Hiệp hội Viễn thông Tài chính Liên ngân hàng toàn thế giới
Tổ chức kinh tế
Tổ chức tín dụng
Trách nhiệm hữu hạn

Thị trường ngoại hối
Thanh toán quốc tế
Vietnam Asset Management Company – Công ty quản lý tài sản
của các Tổ chức tín dụng Việt Nam
World Trade Organization – Tổ chức Thương mại Thế giới
Xuất nhập khẩu

DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


7

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Từ khi bắt đầu xuất hiện vào khoảng thế kỷ XVII cho đến nay, các công cụ

phái sinh và các giao dịch dựa trên những công cụ này đã trải qua một khoảng thời
gian dài hình thành và phát triển. Nhờ có các công cụ này mà không chỉ các doanh
nghiệp trên thế giới có khả năng phòng vệ tốt hơn trước nhiều biến động cũng như
các cuộc khủng hoảng trên thị trường, mà còn giúp cho những định chế tài chính và
nhà kinh doanh chênh lệch phòng ngừa rủi ro và thu được các khoản lợi nhuận
khổng lồ từ việc kết hợp hiệu quả các công cụ phái sinh này với nhau. Chính vì
những lợi ích to lớn như vậy nên thị trường tài chính phái sinh nói chung và thị
trường phái sinh ngoại hối nói riêng không chỉ phát triển bùng nổ tại các quốc gia
hàng đầu như Anh, Mỹ, Nhật Bản mà ngay tại các quốc gia mới nổi như Hàn Quốc,

Ấn Độ, Hồng Kông, Singapore, các công cụ này cũng không hề xa lạ.
Trên thị trường ngoại hối thế giới, các công cụ phái sinh được triển khai từ lâu và
đang phát triển rất mạnh mẽ, nhưng tại Việt Nam, dù đã bắt đầu hình thành từ cuối
những năm 90 của thế kỷ trước, số lượng Ngân hàng thương mại thực hiện và giao
dịch thông qua các công cụ phái sinh ngoại hối vẫn còn rất khiêm tốn và hạn chế. Là
một trong những Ngân hàng thương mại hàng đầu tại Việt Nam, Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn – Agribank đã và đang triển khai thực hiện ngày càng
sâu rộng các hoạt động kinh doanh ngoại hối, đi kèm với nó là kết hợp các công cụ
phái sinh nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh và quản lý rủi ro tiền tệ cho các tổ chức,
doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng như phần lớn các ngân hàng khác tại Việt Nam, nghiệp
vụ phái sinh ngoại hối tại Agribank vẫn còn sơ khai, chậm phát triển, thể hiện ở doanh
số giao dịch thấp và số lượng công cụ được sử dụng còn chưa nhiều, có những công cụ
dù đã được triển khai nhưng hầu như không có giao dịch. Thêm vào đó, tuy rằng chính
sách ngoại hối của nước ta đã có nhiều thay đổi quan trọng, một số quy định liên quan
đến các nghiệp vụ mới như nghiệp vụ phái sinh ngoại hối đã thông thoáng hơn so với
trước kia, nhưng trong quá trình hoàn thiện các quy định, văn bản, chính sách quản lý
vẫn còn tồn tại những bất cập và hạn chế, khiến cho thị trường ngoại hối phái sinh nói
chung và hoạt động phái sinh ngoại hối nói riêng tại các ngân hàng trong đó có
Agribank còn gặp nhiều khó khăn, phát triển không đồng bộ. Xuất phát từ thực tế kể


8

trên, ý tưởng nghiên cứu về các biện pháp “Phát triển nghiệp vụ phái sinh ngoại hối
tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam” đã hình thành để góp
một tiếng nói vào công tác xây dựng và phát triển nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại
Agribank nói riêng và tại các ngân hàng thương mại nói chung, giúp cho hoạt động
kinh doanh của các ngân hàng ngày càng hiệu quả và vững mạnh hơn.
2.


Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay trên thế giới, các công cụ tài chính phái sinh nói chung và các công

cụ phái sinh ngoại hối nói riêng đã phát triển không ngừng cả về quy mô và sự đa
dạng. Chính vì thế đã có rất nhiều những ấn phẩm, tạp chí, công trình nghiên cứu
của các học giả trong và ngoài nước viết về mảng đề tài khá rộng này, có thể kể đến
như một số công trình nghiên cứu sau đây:
Đầu tiên, không thể không nhắc đến tác phẩm “Options, Futures, and Other
Derivatives” xuất bản năm 2009 tại NXB Prentice Hall của tác giả John C.Hull – đây
được coi như quyển sách “gối đầu giường” giới thiệu về lý thuyết và thực tiễn áp dụng
các sản phẩm phái sinh và các biện pháp quản trị rủi ro tài chính. Ngoài ra, trên thế giới
còn các tác phẩm tiêu biểu khác về các công cụ phái sinh như “All About Derivatives”
xuất bản năm 2005 của tác giả Michael Durbin, “Derivatives demystified” xuất bản
năm 2005 của tác giả Andrew M. Chisholm hay “Exchange traded derivatives” xuất
bản năm 2003 của tác giả Erik Banks…
Còn tại Việt Nam, các sản phẩm phái sinh ngoại hối cũng được các tác giả
tìm tòi nghiên cứu và trình bày qua các ấn phẩm, tiêu biểu như:
Sách “Thị trường ngoại hối và các nghiệp vụ phái sinh” do GS.TS Nguyễn
Văn Tiến chủ biên xuất bản năm 2010 của NXB Thống kê là một trong những tác
phẩm đầy đủ và chi tiết nhất đề cập đến nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại Việt Nam.
Nội dung sách giới thiệu về thị trường ngoại hối; những vấn đề cơ bản trong kinh
doanh ngoại hối; nghiệp vụ ngoại hối giao ngay và nghiệp vụ phái sinh ngoại hối;
chính sách quản lý ngoại hối quốc gia và thị trường ngoại hối Việt Nam.
Sách “Thị Trường Ngoại Hối Và Các Giải Pháp Phòng Ngừa Rủi Ro” của TS.
Nguyễn Minh Kiều xuất bản năm 2008 tại NXB Thống kê lại giới thiệu về thị
trường ngoại hối và các công cụ phái sinh ngoại hối, đồng thời phân tích quyết định
và giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá của Doanh nghiệp và của các NHTM.


9


Bài viết trên Tạp chí Tài Chính ngày 11/07/2013 của Tiến sĩ Nguyễn Thị Loan,
Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh về “Phát triển công cụ tài chính phái sinh tiền
tệ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam” có nội dung chủ yếu đề cập đến thực
trạng phát triển các công cụ tài chính phái sinh tiền tệ tại các Ngân hàng Thương
mại Việt Nam, thông qua những đánh giá, phân tích, nhận xét về thực trạng đó, bài
viết đề xuất các biện pháp góp phần thúc đẩy sự phát triển các công cụ tài chính
phái sinh tiền tệ tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam không chỉ về phía các
Ngân hàng thương mại mà còn định hướng cho các Hiệp hội ngân hàng, Ngân hàng
Nhà Nước Việt Nam và Bộ Tài chính.
Nhìn chung, những công trình nghiên cứu và các bài viết vừa kể trên chỉ mới đề
cập đến tổng quan chung về thị trường tài chính phái sinh và các công cụ tài chính phái
sinh chứ chưa đi sâu vào hoạt động cụ thể của các công cụ này trong các Ngân hàng
thương mại. Trong luận văn này, tác giả mong muốn trình bày một khía cạnh khác mà
các công trình trên chưa đề cập tới, với hy vọng đem lại một cái nhìn riêng biệt hơn, đó
là đánh giá cụ thể về hoạt động ứng dụng các công cụ phái sinh ngoại hối tại các Ngân
hàng thương mại Việt Nam, mà cụ thể ở đây là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam, để góp một phần nhỏ trong việc thúc đẩy sự phát triển và nâng
cao chất lượng của các nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn nói riêng và các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung.
3.

Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích và đánh giá thực trạng triển khai, áp

dụng nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt Nam hiện nay để tìm ra những mặt tích cực và hạn chế, những điểm còn thiếu sót
hay yếu kém. Dựa trên cơ sở đó, luận văn đưa ra các giải pháp và đề xuất nhằm thúc
đẩy sự phát triển của nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại Agribank trong giai đoạn tới.
4.


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động phái sinh ngoại hối và các công cụ của nó;
các giải pháp và kiến nghị để phát triển nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu lý luận, thực tiễn áp
dụng và tìm kiếm các giải pháp đẩy mạnh nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại Ngân


10

hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, thời gian nghiên cứu là từ
năm 2013 đến năm 2016.
5.

Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về Ngân hàng thương mại, hoạt động kinh doanh

của Ngân hàng thương mại và nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối phái sinh tại các
Ngân hàng thương mại.
- Điều tra, nghiên cứu, phân tích thực trạng triển khai và phát triển nghiệp vụ
phái sinh ngoại hối tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam,
từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá kết quả đạt được.
- Đề xuất các biện pháp và kiến nghị để phát triển nghiệp vụ phái sinh ngoại hối
tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam trong giai đoạn tới.
6.

Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên


cứu sau đây:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp phân tích và
tổng hợp lý thuyết; Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp tổng hợp thống
kê; Phương pháp so sánh kết hợp với đối chiếu tài liệu, bảng biểu đồ thị để phân
tích; phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm
7.

Kết cấu đề tài
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục chữ

viết tắt, mục lục và các phụ lục, nội dung chính của luận văn được thể hiện ở ba
chương sau đây:
Chương I: Cơ sở lý luận về phát triển nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại các
ngân hàng thương mại Việt Nam
Chương II: Thực trạng phát triển nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
Chương III: Giải pháp đẩy mạnh và phát triển nghiệp vụ phái sinh ngoại hối
tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.


11

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ PHÁI SINH NGOẠI HỐI
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1.
Tổng quan về Ngân hàng thương mại và hoạt động kinh doanh của NHTM
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng thương mại


Để đưa ra được một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về Ngân hàng
thương mại (NHTM), người ta thường phải dựa vào tính chất và mục đích hoạt
động của nó trên thị trường tài chính, và đôi khi còn kết hợp tính chất, mục đích và
đối tượng hoạt động. Ví dụ: Theo Peter S.Rose trong tác phẩm Quản trị Ngân hàng
thương mại (2007) thì: ''NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch
vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế.''
Theo Luật Ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: “Ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký
thác hay hình thức khác số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu,
tín dụng hay dịch vụ tài chính”. Hay theo như Luật Ngân hàng của Ấn Độ (1959) đã
nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”.
Tại Việt Nam, theo Luật các tổ chức tín dụng (2010), NHTM là tổ chức tín
dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật Các tổ chức tín
dụng và các quy định khác của pháp luật.
Theo Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2010): Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán.
Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM, nó
tuỳ thuộc vào tập quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ nhưng khi
đi sâu phân tích, khai thác nội dung của từng định nghĩa đó, người ta dễ dàng nhận
thấy rằng: Tất cả các NHTM đều có chung một tính chất đó là việc nhận tiền ký


12

thác - tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay,

chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh khác của chính Ngân hàng. Ngân hàng thương
mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế
thị trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy
động, tạo lập nguồn vốn tín dụng to lớn để có thể cho vay phát triển kinh tế.
Bảng 1.1: Phân biệt NHTM và TCTD phi ngân hàng
NHTM
- Là tổ chức tín dụng

TCTD phi ngân hàng

Là tổ chức tín dụng
- Được thực hiện toàn bộ hoạt
- Được thực hiện một số hoạt động
động ngân hàng
ngân hàng
- Là tổ chức nhận tiền gửi (deposit
- Là tổ chức không nhận tiền gửi
institution)
(nondeposit institution)
- Cung cấp dịch vụ thanh toán
Không cung cấp dịch vụ thanh
toán
Nguồn: Bài giảng NHTM – Đại học Nha Trang, 2012
-

1.1.2. Đặc điểm và chức năng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Đặc điểm của Ngân hàng Thương mại

Tuy nhiên, để có thể hiểu rõ hơn khái niệm về ngân hàng thương mại chúng ta
cần xem xét đặc điểm của ngân hàng thương mại.

Trước hết, hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh kiếm lời, theo đuổi mục
tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình thức hoạt động là kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Trong đó, hoạt động kinh doanh tiền tệ được
biểu hiện thông qua nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình thức khác nhau, để cấp
tín dụng cho khách hàng có yêu cầu về vốn với mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận.
NHTM là người “đi vay để cho vay” nhằm mục đích kiếm lời. Các hoạt động dịch
vụ ngân hàng được biểu hiện thông qua các nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán,
ngoại hối, chứng khoán, để cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng
trong một thời gian nhất định nhằm mục đích thu phí dịch vụ hoặc hoa hồng.


13

Hai là, hoạt động NHTM phải tuân thủ theo quy định của pháp luật, nghĩa là chỉ
khi NHTM thoả mãn đầy đủ các điều kiện khắt khe do pháp luật quy định như điều
kiện về vốn, phương án kinh doanh...thì mới được phép hoạt động trên thị trường.
Ba là, hoạt động NHTM là hình thức kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều so
với các hình thức kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc tới các ngành
khác và cả nền kinh tế. Sở dĩ như vậy là do trong hoạt động ngân hàng đặc biệt là
hoạt động kinh doanh tiền tệ khi các ngân hàng tiến hành huy động vốn của người
khác rồi đem vốn đó để cấp tín dụng cho khách hàng theo nguyên tắc hoàn trả vốn
và lãi trong một thời gian nhất định, nên đã tạo rủi ro cho các hoạt động NHTM.
Rủi ro đến từ phía ngân hàng, khách hàng vay tiền và đến từ những yếu tố khách
quan. Do đó, ngân hàng thương mại phải đối mặt với rủi ro cao, kéo theo là rủi ro
đối với những người gửi tiền ở NHTM cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Để tránh
rủi ro đáng tiếc xảy ra, nhằm kiểm soát, làm giảm nhẹ những tổn hại do ngân hàng
vỡ nợ gây ra, chính phủ các quốc gia đặt ra những đạo luật riêng, nhằm đảm bảo
cho hoạt động này được vận hành an toàn, hiệu quả trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2.2.
a)


Chức năng của ngân hàng thương mại
Chức năng trung gian tín dụng

Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đóng vai
trò là cầu nối giữa người dư thừa vốn và người có nhu cầu về vốn.

Sơ đồ 1.1: Chức năng của ngân hàng thương mại
Nguồn: Đặng Thị Việt Đức, Vũ Quang Kết, Phan Anh Tuấn, 2016
Thông qua việc huy động các khoản vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền
kinh tế, ngân hàng thương mại hình thành nên quỹ cho vay để cung cấp tín dụng
cho nền kinh tế. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là
người đi vay vừa đóng vai trò là người cho vay.


14

Với chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng thương mại đã góp phần tạo lợi
ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền, ngân hàng và người đi vay, đồng
thời thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
 Đối với người gửi tiền, họ thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của mình

dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa, ngân hàng còn đảm bảo
cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán khác.
 Đối với người đi vay, họ sẽ thoả mãn được nhu cầu vốn để kinh doanh, chi tiêu,
thanh toán mà không phải chi phí nhiều về sức lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi
cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp.
 Đối với NHTM, họ sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch

giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này

chính là cơ sở để tồn tại và phát triển của ngân hàng thương mại.
 Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình tái sản xuất được
thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, ngân hàng
thương mại đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích
quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại vì nó phản ánh bản chất của ngân hàng thương mại là đi vay
để cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Đồng thời nó cũng
là cơ sở để thực hiện các chức năng khác.
b)

Chức năng trung gian thanh toán

Ngân hàng thương mại làm trung gian thanh toán khi nó thực hiện thanh toán
theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh
toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền
thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Ở đây ngân hàng thương mại
đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ
tài khoản của họ.
Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở
thực hiện chức năng trung gian tín dụng vì tiền đề để khách hàng thực hiện thanh


15

toán qua ngân hàng chính là một phần tiền gửi trước đó. Việc các ngân hàng thương
mại thực hiện chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ
nền kinh tế. Với chức năng này, các ngân hàng thương mại cung cấp cho khách

hàng nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi. Nhờ đó, các chủ thể kinh tế sẽ tiết
kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian đi tới gặp chủ nợ, người phải thanh toán và
lại đảm bảo được việc thanh toán an toàn. Qua đó, chức năng này thúc đẩy lưu
thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp
phần phát triển kinh tế. Đồng thời, việc thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân
hàng đã giảm được lượng tiền mặt trong lưu thông, dẫn đến tiết kiệm chi phí lưu
thông tiền mặt như chi phí in ấn, đếm nhận, bảo quản tiền...
Đối với NHTM, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân
hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Thêm nữa, nó còn làm tăng nguồn vốn
cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có trong tài khoản tiền gửi của khách
hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở hình thành chức năng tạo tiền của NHTM.
c)

Chức năng tạo tiền

Khi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng, hình thành nên ngân hàng phát
hành và các ngân hàng trung gian thì ngân hàng trung gian không còn thực hiện
chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng nữa. Nhưng với chức năng trung gian tín
dụng và trung gian thanh toán, ngân hàng thương mại có khả năng tạo ra tiền tín
dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại
NHTM. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền được sử dụng trong các giao dịch.
Ban đầu từ những khoản tiền dự trữ tăng lên, ngân hàng thương mại sử dụng
để cho vay bằng chuyển khoản, sau đó những khoản tiền này sẽ được quay lại ngân
hàng thương mại một phần khi những người sử dụng tiền gửi vào dưới dạng tiền gửi
không kỳ hạn. Quá trình này tiếp diễn trong hệ thống ngân hàng và tạo nên một
lượng tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức
mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này chịu tác động bởi
các yếu tố: tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với
tiền gửi thanh toán của công chúng.



16

Với chức năng "tạo tiền", hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Rõ
ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do ngân hàng trung
ương phát hành ra mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do
các ngân hàng thương mại tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông
tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả
năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Các chức năng của ngân hàng thương mại có mối quan hệ chặt chẽ, bổ sung,
hỗ trợ cho nhau, trong đó chức năng trung gian tín dụng là chức năng cơ bản nhất,
tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời khi ngân hàng thực hiện
tốt chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng
nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng.
1.1.3.

Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của Ngân hàng thương mại
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như một doanh nghiệp

thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng
thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay lại. So với các doanh
nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng hoá của Ngân hàng thương mại là một loại
hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn. Giá cả của loại hàng hoá này biểu hiện ra bên
ngoài là các mức lãi suất huy động hoặc lãi suất cho vay, nó chịu tác động bởi quan
hệ cung - cầu vốn trên thị trường và trên cơ sở khoản lợi nhuận đạt được khi đưa
vốn vay vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ yếu của hoạt động ngân
hàng sẽ là khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động với thu nhập từ lãi cho
vay. Để có hàng hoá kinh doanh, ngân hàng phải đưa ra một giá mua hợp lý cũng

như đa dạng các hình thức huy động.
Đồng thời ngân hàng cũng đa dạng hoá các hình thức cho vay nhằm phân tán
giảm thiểu rủi ro. Với vị thế kinh doanh Ngân hàng thương mại thực hiện các dịch
vụ trung gian hưởng hoa hồng. Ngày nay, hệ thống Ngân hàng thương mại phát
triển mạnh mẽ, tham gia sâu rộng vào tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Sự đa dạng


17

và phong phú các nghiệp vụ kinh doanh đã làm cho Ngân hàng thương mại trở
thành một tổ chức kinh doanh không thể thiếu trong tiến trình phát triển kinh tế.
1.1.3.1.

Nghiệp vụ nhận tiền gửi

Đây là một hoạt động cơ bản của NHTM. Ngân hàng nhận được các khoản
tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của cá nhân,
của tổ chức và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi cho khách
hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng đến rút tiền ở ngân hàng.
1.1.3.2.

Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng

Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ liên
quan đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực thanh toán
bình thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ đặc
trưng nhất của NHTM. Nó tạo ra hình thức tín dụng ngân hàng và ngân hàng sẽ tiến
hành phân phối có trọng điểm nguồn vốn đã hình thành trong nghiệp vụ huy động,
điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, bổ sung vốn cho sản xuất kinh doanh. Đối

với ngân hàng, đây là nghiệp vụ quan trọng nhất, sử dụng phần lớn nguồn vốn và
tạo ra thu nhập chủ yếu.
Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân thành:


Căn cứ vào mục đích:

- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp.
- Thuê mua và các loại khác.


Căn cứ vào thời hạn cho vay


18

- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu
được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn
của các doanh nghiệp.
- Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam thì loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 năm.
Tín dụng trung hạn thường sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến
hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, xây dụng các dự án mới có quy
mô nhỏ với thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm
(theo quy định của NHNN Việt Nam).

Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà
ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.


Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng

- Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của bên thứ ba mà chỉ dựa vào sự uy tín của bản thân khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải
có tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.


Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng

- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được
cung cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được thực
hiện bằng các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ,...
- Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa
dạng, ví dụ như tài trợ thuê mua.


Căn cứ vào phương pháp hoàn trả

- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.


19


Ngoài các loại cho vay trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh
cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này, ngân hàng không
phải cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ
theo hợp đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì thế,
nghiệp vụ này còn được gọi là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao
gồm: tín dụng chấp nhận, tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.
1.1.3.3.

Nghiệp vụ đầu tư

Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ chêch lệch
thị giá chứng khoán mua bán trên thị trường.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện hùn vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp
vốn vào các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới.
1.1.3.4.

Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối

Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối (KDNH) của NHTM là việc mua bán các loại
ngoại tệ khác nhau nhằm đảm bảo cân đối các nhu cầu về ngoại tệ cho ngân hàng và
tìm cách thu lợi nhuận thông qua chênh lệch tỷ giá và lãi suất giữa các loại tiền tệ
khác nhau.
Ngoại hối là hàng hóa mua bán trên thị trường ngoại hối (TTNH), nhưng trên
thực tế tại Việt Nam chỉ giao dịch mua bán ngoại tệ, còn các loại hình khác của
ngoại hối như giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ và vàng không được giao dịch trực
tiếp trên TTNH. Chính vì vậy, TTNH Việt Nam được hiểu theo nghĩa hẹp là thị
trường mua bán và kinh doanh ngoại tệ, và nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối tại các
NHTM có thể được hiểu là kinh doanh ngoại tệ.
So với các nghiệp vụ kinh doanh khác của NHTM, nghiệp vụ kinh doanh

ngoại hối có những đặt trưng riêng, đó là :
-

Nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối được phân thành hai loại là nghiệp vụ KDNH
sơ cấp (hay còn gọi là nghiệp vụ KDNH gốc) và nghiệp vụ phái sinh ngoại hối.


20

Nghiệp vụ KDNH là một trong những loại hình kinh doanh chứa đựng nhiều

-

rủi ro nhất, có thể kể đến như rủi ro tỷ giá, rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro
-

hoạt động,…
Nghiệp vụ KDNH là một nghiệp vụ phức tạp, đặc trưng cho sự phát triển của
một ngân hàng hiện đại. Nghiệp vụ này đòi hỏi phải có đầy đủ cơ sở vật chất, các
thiết bị hiện đại, các phương tiện thông tin và hệ thống công nghệ tân tiến mới

-

mang lại hiệu quả kinh doanh cao.
Nghiệp vụ KDNH là một hoạt động đòi hỏi các nhà kinh doanh cũng như các
giao dịch viên phải có đủ chuyên môn về nhiều lĩnh vực, phải có những kỹ năng
nhất định, phải có trình độ quản lý, tiếp cận thông tin và khả năng nắm bắt thị
trường một cách linh hoạt để theo kịp những biến động tức thời từ thị trường và các
nhân tố ngoại lai khác.
Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ nhằm

đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh doanh ngoại tệ
còn góp phần thúc đẩy trong công tác thanh toán quốc tế, tài trợ cho xuất nhập
khẩu, v.v…
1.1.3.5.

Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng

- Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ chuyển
tiền để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển tiền là chuyển
tiền bằng điện và chuyển tiền bằng thư.
- Thu chi hộ tiền hàng: là nghiệp vụ ngân hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài
khoản tiền gửi của khách hàng theo lệnh ủy nhiệm chi hoặc ủy nhiệm thu để chuyển
trả tiền hàng hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng khi nhận được
chứng từ khách hàng nhờ thu hộ...
- Nghiệp vụ uỷ thác: là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác của
khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo quản chứng
khoán, vàng bạc, giấy tờ có giá... để hưởng hoa hồng.
- Mua bán hộ: theo sự uỷ nhiệm của khách hàng, ngân hàng thực hiện nghiệp
vụ phát hành hộ trái phiếu hoặc chứng khoán cho các công ty, hoặc phát hành trái


21

phiếu Chính phủ. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có được một khoản thu nhập
dưới hình thức hoa hồng phát hành.

1.2.
Nghiệp vụ phái sinh ngoại hối tại Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm nghiệp vụ phái sinh


Công cụ phái sinh là những công cụ tài chính mà giá trị của nó phụ thuộc
(hoặc bắt nguồn từ) giá trị của những biến số cơ sở (John Hull, 2009). Ở đây, biến
số cơ sở là những yếu tố (như giá trị, mức độ biến động giá…) của một tài sản cơ sở
(underlying asset) được giao dịch trong hợp đồng phái sinh (hay còn gọi là tài sản
gốc). Tài sản gốc có thể là bất cứ thứ gì (hàng hóa, cổ phiếu, USD…). Giá trị của tài
sản gốc là giá trị của tài sản được giao dịch, giá trị này luôn biến động. Như vậy,
công cụ phái sinh gắn kết người thực hiện nó với những rủi ro và lợi nhuận của một
tài sản cơ sở nào đó mà họ không cần phải trực tiếp sở hữu tài sản cơ sở đó.
Nghiệp vụ tài chính phái sinh là nghiệp vụ sử dụng các công cụ tài chính phái
sinh nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán, phòng ngừa rủi ro về lãi suất,
chứng khoán, ngoại tệ…; kinh doanh, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận; lợi dụng
chênh lệch giá và đầu cơ.
Nghiệp vụ phái sinh ngoại hối (hay còn gọi là nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối
phái sinh) là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ dựa trên tỷ giá bắt nguồn từ tỷ giá giao
ngay và mức chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền chứ không phải hình thành trực
tiếp từ quan hệ cung cầu trên thị trường (Nguyễn Văn Tiến, 2005). Nghiệp vụ phái
sinh ngoại hối chính là một loại hình bảo hiểm rủi ro tài chính khi thực hiện các hợp
đồng kinh tế mà bản chất là phân tán rủi ro tiềm ẩn và đương nhiên, lợi nhuận của
các giao dịch cùng được chia sẻ cho các bên tham gia.
Từ các định nghĩa trên, có thể thấy, nghiệp vụ phái sinh ngoại hối của NHTM
là việc mua bán các loại ngoại tệ khác nhau thông qua các công cụ phái sinh nhằm
đảm bảo cân đối về nhu cầu ngoại tệ cho ngân hàng và tìm cách thu lợi nhuận thông
qua chênh lệch tỷ giá và lãi suất giữa các loại tiền tệ khác nhau, đồng thời phòng vệ
rủi ro cho khách hàng và cho ngân hàng. Đây là những công cụ tài chính có thể đem


22

lại lợi nhuận rất cao cho NHTM, nhưng nó cũng chứa đựng nhiều rủi ro, vì khi tham
gia hoạt động kinh doanh tiền tệ này, ngân hàng sẽ tạo ra trạng thái ngoại tệ mở và

dẫn đến rủi ro về tỷ giá cho ngân hàng (Nguyễn Thị Loan, 2013).
1.2.2. Phân loại nghiệp vụ phái sinh

Trên thị trường ngoại hối và tại các ngân hàng thương mại hiện nay có năm
nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối phổ biến là: giao ngay, kỳ hạn, tương lai, hoán đổi
và quyền chọn, trong đó, nghiệp vụ giao ngay là nghiệp vụ gốc (hay còn gọi là
nghiệp vụ sơ cấp), còn các nghiệp vụ khác là phái sinh, tức là được bắt nguồn từ
nghiệp vụ giao ngay. Nghiệp vụ giao ngay được gọi là nghiệp vụ gốc bởi vì tỷ giá
áp dụng cho các hợp đồng giao ngay được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu
trên thị trường, trong khi đó, bốn nghiệp vụ phái sinh còn lại áp dụng tỷ giá không
được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu trên thị trường mà được bắt nguồn từ
tỷ giá giao ngay và chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền. Sau đây ta sẽ đi vào
nghiên cứu cụ thể từng loại nghiệp vụ phái sinh ngoại hối đó.
1.2.2.1.

Nghiệp vụ kỳ hạn (Forward)

Hợp đồng kỳ hạn (Forward Contract) là một thỏa thuận mua hoặc bán một tài
sản tại một thời điểm ấn định trong tương lai, với mức giá đã được định trước
(Eugene F. Brigham, Joel F. Houston, 2009).
Trong thực tế kinh doanh, ngày giá trị (tức ngày thanh toán) có thể là bất cứ
khi nào kể từ ngày ký kết hợp đồng cho đến vài năm sau trong tương lai. Ví dụ, đó
có thể là ngày giá trị hôm nay (today value date), ngày mai (tomorrow value date),
ngày kia (spot value date), hay kỳ hạn (forward value date). Trong đó, ngày giá trị
giao ngay là quan trọng nhất, nó được xem là cơ sở để xác định các ngày giá trị
khác. Căn cứ vào mốc là ngày giá trị giao ngay, ta định nghĩa: “Những giao dịch có
ngày giá trị xa hơn ngày giá trị giao ngay được gọi là giao dịch kỳ hạn (Forward
Transaction)” (Nguyễn Văn Tiến, 2008).
Trên thị trường ngoại hối, hợp đồng kỳ hạn được định nghĩa là một giao dịch
trong đó hai bên cam kết sẽ mua hoặc bán một đồng tiền cụ thể với khối lượng xác

định, vào một thời điểm xác định trong tương lai, tại mức giá được ấn định ở hiện


23

tại (Jeff Madura, 2006). Tại NHTM, các hợp đồng ngoại hối kỳ hạn được ký kết và
giao dịch giữa các ngân hàng và khách hàng, hay giữa hai ngân hàng với nhau.
Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối kỳ hạn là giao dịch trong đó hai bên (Ngân hàng với
tổ chức kinh tế hoặc định chế tài chính khác) cam kết mua, bán với nhau một số
lượng ngoại tệ theo một tỷ giá cụ thể được xác định vào thời điểm cam kết mua bán
và việc thanh toán sẽ được thực hiện vào thời điểm xác định trong tương lai.
Ngày nay, giao dịch kỳ hạn đã phát triển mạnh mẽ và đóng vai trò quan trọng
trên thị trường ngoại hối. Giao dịch kỳ hạn rất hiệu quả trong việc phòng ngừa rủi
ro tỷ giá hối đoái đối với công ty khi tham gia xuất nhập khẩu, vay nợ nước ngoài
hay thực hiện đầu tư nước ngoài. Thị trường kỳ hạn còn là nơi hoạt động tích cực
của các nhà đầu cơ để kiếm lời.
Thị trường ngoại hối kỳ hạn có liên quan chặt chẽ với thị trường giao ngay.
Hai thị trường này có những đặc điểm chung về: phạm vi nhân sự tham dự và tổ
chức thị trường, kỹ thuật ký kết các hợp đồng, đồng USD được chấp nhận là đồng
tiền quy đổi, là đơn vị hạch toán. Tuy nhiên, hai thị trường này cũng có những đặc
tính khác nhau và chúng bị tách ra độc lập do thời hạn thực hiện hợp đồng khác
nhau. Điểm khác biệt sâu sắc nhất giữa chúng thể hiện ở chỗ, trên thị trường kỳ hạn
tỷ giá giao dịch ít phụ thuộc vào mức độ cung cầu thời hạn, mà phụ thuộc lớn vào
mức chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền giao dịch.


Đặc điểm

- Giao dịch ngoại hối kỳ hạn không diễn ra trên sở giao dịch mà được thực
hiện trên thị trường ngoại hối phi tập trung (OTC).

- Đây là giao dịch không hủy ngang, không thể chuyển giao hay bán lại hợp
đồng trước hạn. Các bên tham gia phải có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng khi đáo hạn.
- Tỷ giá áp dụng trong mua bán ngoại tệ kỳ hạn được gọi là tỷ giá kỳ hạn. Tỷ
giá kỳ hạn (Forward Rate) là tỷ giá được thỏa thuận hôm nay làm cơ sở cho việc
trao đổi tiền tệ tại một ngày xác định xa hơn ngày giá trị giao ngay. Thông thường,
giữa tỷ giá kỳ hạn và tỷ giá giao ngay luôn có một độ lệch nhất định được gọi là
điểm kỳ hạn (Forward Points) (Nguyễn Văn Tiến, 2008).


24

Bảng 1.2: Công thức xác định tỷ giá kỳ hạn
Theo lãi kép:

Trong đó:
-

F: Tỷ giá kỳ hạn
S: Tỷ giá giao ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng
: Lãi suất của đồng tiền định giá tính theo năm
: Lãi suất của đồng tiền yết giá tính theo năm
t: Kỳ hạn quy định trong hợp đồng tính theo năm

Theo dạng phân tích từ công thức trên:
Tỷ giá kỳ hạn = Tỷ giá giao ngay + Điểm kỳ hạn


Điểm kỳ hạn: P =




Trong đó:
-

Nếu > : Điểm kỳ hạn > 0 được gọi là mức điểm kỳ hạn gia tăng
Nếu < : Điểm kỳ hạn < 0 được gọi là điểm kỳ hạn khấu trừ
Nguồn: Nguyễn Văn Tiến, 2011
- Kỳ hạn hợp đồng ngoại hối kỳ hạn thường là bội số của 30 ngày: 1; 2; 3; 4;

5; 6; 9; 12 tháng. Tuy nhiên, hai bên có thể thỏa thuận các kỳ hạn lẻ hay kỳ hạn
nhiều hơn 1 năm. Thông thường kỳ hạn tối thiểu của hợp đồng kỳ hạn đối với các
cá nhân và doanh nghiệp (khách hàng bán lẻ) là 1 tháng, và từ 7 đến 15 ngày đối với
thị trường liên ngân hàng. Ngoài ra cũng có một số ít hợp đồng với thời hạn không
phải là bội số của 30 ngày nhưng loại hợp đồng này thường khó thỏa thuận hơn loại
hợp đồng có thời hạn là bội số của 30 ngày.
Đối với hợp đồng mua kỳ hạn, người mua sẽ có lãi khi mà giá giao ngay khi
đáo hạn lớn hơn mức giá đã ký kết trong hợp đồng đúng một khoản bằng mức chênh
lệch giữa hai loại giá đó trừ đi phí thực hiện hợp đồng. Ngược lại, đối với hợp đồng
bán kỳ hạn, nếu giá giao ngay khi đáo hạn lớn hơn giá trong hợp đồng thì người mua
sẽ bị lỗ bằng với mức chênh lệch giữa hai mức giá cộng với phí thực hiện hợp đồng.


Các ứng dụng của giao dịch ngoại hối kỳ hạn


25

- Bảo hiểm rủi ro tỷ giá
Hợp đồng kỳ hạn được sử dụng phổ biến để bảo hiểm rủi ro tỷ giá trong kinh
doanh quốc tế. Nếu doanh nghiệp có một khoản phải thu, một tài sản hay một thu

nhập trong tương lai định giá bằng ngoại tệ (gọi tắt là tài sản định giá bằng ngoại
tệ), giá ngoại tệ đang có xu hướng giảm xuống, doanh nghiệp có thể bảo hiểm rủi ro
này bằng cách tạo ra một tình trạng đóng (offsetting) cho tài sản này thông qua thị
trường kỳ hạn. Cụ thể là doanh nghiệp sẽ bán kỳ hạn tài sản này. Do tỷ giá trên hợp
đồng kỳ hạn được xác định vào ngày ký kết hợp đồng nên dù tỷ giá hối đoái trên thị
trường giao ngay thay đổi như thế nào, giá trị của tài sản tính bằng đồng bản tệ vẫn
không thay đổi. Ngược lại, nếu doanh nghiệp có một khoản nợ định giá bằng ngoại
tệ, doanh nghiệp sẽ mua kỳ hạn ngoại tệ để tạo ra một trạng thái đóng bằng đồng
bản tệ cho khoản nợ của mình. Nếu sự biến động của tỷ giá giao ngay đúng như dự
đoán của doanh nghiệp, doanh nghiệp đã bảo hiểm được cho tài sản (nợ) của mình.
Nếu ngược lại, sự thiệt hại trên hợp đồng kỳ hạn được xem như là chi phí bảo hiểm.
- Đầu cơ
Hoạt động đầu cơ không thể thiếu được trong kinh doanh tiền tệ và là một yếu
tố giúp làm tăng tính thanh khoản của thị trường ngoại hối. Ở các quốc gia có thị
trường ngoại hối kém phát triển, chưa đủ điều kiện để áp dụng các nghiệp vụ phức
tạp như tương lai hay quyền chọn, ban đầu có thể thực hiện đầu cơ thông qua
nghiệp vụ kỳ hạn. Việc đầu cơ có thể được tiến hành như sau: Nếu một nhà đầu tư
cho rằng tỷ giá kỳ hạn trong tương lai sẽ tăng, họ sẽ mua một hợp đồng kỳ hạn với
tỷ giá cố định thỏa thuận ngày hôm nay. Đến ngày hợp đồng đáo hạn, nếu tỷ giá
giao ngay cao hơn tỷ giá kỳ hạn của hợp đồng có nghĩa là nhà đầu tư đã mua rẻ hơn
giá thị trường tại thời điểm đó, như vậy là anh ta có lãi.
- Kinh doanh chênh lệch lãi suất có bảo hiểm rủi ro tỷ giá.


Nhược điểm của giao dịch kỳ hạn

Giao dịch ngoại tệ kỳ hạn thỏa mãn nhu cầu mua bán ngoại tệ của khách hàng
mà việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện trong tương lai. Tuy nhiên, do giao



×