Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

A Puskin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.91 KB, 18 trang )

Alexander Sergeevich Pushkin
1799-1837
ALÊCHXAN XECGHÊÊVITS PUSKIN
Puskin là nhà thơ Nga vĩ đại, là niềm tự hào của dân tộc Nga và của chung nhân
loại. Sự nghiệp sáng tác của ông gắn liền với toàn bộ nền văn học Nga, góp phần đưa văn
học Nga lên đến đỉnh cao của sự phát triển. Chính ông đã tiếp thu những tinh hoa của văn
học truyền thống, phát triển và hoàn thiện nó; một mặt ông đã nâng nó lên một trình độ cao
hơn, mở đầu cho một nền văn học tiên tiến và hoàn mĩ.
I.KHÁI QUÁT TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
Cuộc đời của Puskin luôn gắn liền với sự nghiệp sáng tác và có thể chia thành bảy
thời kì khác nhau. Mỗi thời kì phản ánh những sự kiện quan trọng trong cuộc đời thi sĩ,
đồng thời thể hiện những bước trưởng thành trên con đường sáng tác của ông.
1. Thời thơ ấu (1799 - 1811): TOP
Alecxanđrơ Xecgâyêvit Puskin sinh ngày 06 tháng 6 năm 1799 (lịch cũ: 25-6) tại
Matxcơva trong một gia đình quý tộc thượng lưu. Bên nội bên ngoại của ông đều là dòng
dõi quyền quý nhưng lúc này đã sa sút. Tuy nhiên Puskin vẫn có đủ điều kiện để sống một
tuổi thơ êm đềm và thơ mộng.
Từ nhỏ Puskin đã tiếp xúc với không khí văn học và đặc biệt yêu thích nó. Cha của
Puskin - Xecgây Livôvits Puskin- là một người yêu thích văn chương và sân khấu. Chú của
Puskin- Vaxili Livôvits- cũng là một nhà thơ nổi tiếng đương thời. Các nhà thơ lớn như
Caramdin, Giucôpxki, Bachiuscôp, Ðmitơriep vẫn thường xuyên đến nhà ông thảo luận về
các vấn đề văn học. Không khí văn học đó chắc chắn đã có ảnh hưởng không ít đến tâm
hồn nhạy cảm của cậu bé Puskin. Thêm vào đó, Puskin còn được học và đọc rất nhiều bài
thơ và văn xuôi Pháp, được tiếp xúc trực tiếp với văn học dân gian vô cùng phong phú Nga
qua bà nhũ mẫu Arina Rôđiônnôpna và lão nô bộc Nikitia Côdơlôp. Tất cả những điều kiện
thuận lợi đó đã thúc đẩíy tài năng văn học Puskin sớm được nảy nở và phát triển.
2. Thời kì học ở trường Lixê ( 1810-1817 ): TOP
Khi Puskin lên 10 tuổi, cậu vào học ở trưòng Lixê. Ðó là một trường học chỉ dành
riêng cho con em quý tộc nằm cách Matxcơva vài trăm dặm. Trường nằm trong khu đất
của nhà vua và chuyên đào tạo ra những con người phục vụ chế độ chuyên chế, tiếp nối sự
nghiệp thống trị của Nga hoàng.


Nhưng cũng tại Lixê, Puskin đã có dịp tiếp xúc với nhiều tư tưởng tự do của các
giáo sư tiến bô. Nơi đó , trong kí ức của ông sau này, có nhiều người bạn trở thành những
chiến sĩ cách nmạmg phấn đấu vì một nước Nga tiến bộ. Những người bạn đó đã gợi cho
ông nhiều cảm xúc và đó là nguồn cảm hứng to lớn cho nhiều bài thơ bất diệt trong sự
nghiệp sáng tác của Puskin .
Cũng trong thời gian Puskin học tại trường Lixê, cuộc chiến tranh vệ quáôc của
nhân dân Nga cjhống lại sự xâm lược của Napôlêông diẽn ra, sự kện đó đã có ảnh hưởng
to lớn đến nhân sinh quan, thế giới quan của nhà thơ. Tinh thần yêu nước của nhân dân
đã thúc đẩy mãnh liệt tinh thần dân tộc trong tâm hồn Puskin. Ông đã sáng tác bài thơ
Những kỉ niệm hoàng thôn mà nội dung của nó là ca ngợi tinh thần yêu nước của nước
Nga trong cuộc chiến tranh vệ quốc.
3. Thời kỳ Pêtecbua (1817 - 1820): TOP
Tháng 6 năm 1817, Puskin tốt nghiệp xuất sắc trường Lixê. Ngay sau đó ông được
bổ nhiệm làm thư kí bộ ngoại giao ở Pêtecbua. Lúc này Pêtecbua đang trở thành một trung
tâm nóng bỏng không khí chính trị. Chính phủ Nga hoàng ngày càng tỏ ra phản động.
Chương trình cải cách tiến bộ của Xpêranxki bị gạt bỏ. Arăcxêep, một kẻ bảo thủ cực đoan
được Nga hoàng tin dùng, không ngừng đưa ra hàng loạt những chính sách ngu dân, phản
động. Trước tình hình đó, nhiều thanh niên trí thức tiến bộ đã lập ra những tổ chức bí mật
chống lại Nga hoàng. Lúc này vấn đề làm gì ?, sống như thế nào ? đối với Puskin trở thành
một vấn đề quan trọng. Và Puskin đã hòa mình vào không khí cách mạng, liên hệ mật thiết
với nhiều nhà hoạt động cacïh mạng tiến bộ. Ông đã cho ra đời nhiều bài thơ có nội dung
chống chế độ chuyên chế: Tự do (1817), Những câu chuyện thần thoại Noel (1818), Gởi
Sađaép (1818), Làng (1819) ... Những bài thơ này tuy không được đăng công khai nhưng
nó nhanh chóng phổ biến trong nhân dân.
Với tiếng thơ mới mẻ, trẻ trung, tràn đầy sức sống, tràn đầy tinh thần công dân cao
cả, những bài thơ của Puskin đã dấy lên một phong trào thơ ca mới, đầy tinh thần cách
mạng. Lần đầu tiên, thơ ca đã thức tỉnh ý thức nhân dân chống lại chế độ nông nô chuyên
chế Nga hoàng:
Hỡi tên vua chuyên quyền bạo ngược
Ta căm ngươi, ngôi báu của ngươi

Ta thấy trước với niềm vui cay độc
Cái chết của ngươi của cháu con ngươi.
Những bài thơ của Puskin đã làm cho Nga hoàng giận giữ. Ông ta quyết định: Phải
tống cổ Puskin đi Xibiri. Nếu không, hắn sẽ làm cho nước Nga tràn ngập những bài thơ nổi
loạn. Tất cả bọn thanh niên đều đã thuộc lòng thơ của hắn. Thế nhưng, với lòng yêu mến
tài năng và khâm phục những tư tưởng tự do, cách mạng, nhiều nhà thơ, nhà văn có uy tín
như nhà thơ Ðecgiavin, nhà văn Caramdin, nhà thơ Giucôpxki đã ra sức bảo vệ Puskin.
Cuối cùng Nga hoàng phải nhượng bộ và đày Puskin đi phương Nam.
4. Thời kì lưu đày ở phương Nam (1820 - 1824): TOP
Thời kì lưu đày ở phương Nam kéo dài bốn năm, trong thời gian đó Puskin phải di
chuyển qua nhiều nơi: Capca, Crum, Kisinhôp (1820 - 1823), Ôđetxa (1823 - 1824).
Ở phương Nam Puskin lại tiếp tục con đường của mình. Ông đã bắt gặp nơi
phương Nam hoang vắng này những phong cảnh thiên nhiên tráng lệ, những con người lao
động hồn nhiên, chân thật và phóng khoáng. Chẳng những thế Puskin còn gặp gỡ với một
tổ chức cách mạng mà đại diện là Pêxte. Puskin đã nhận định về Pêxte như sau: Ông là một
trong những trí tuệ đặc sắc nhất mà tôi được biết.
Ở phương Nam Puskin thường đi dạo chơi trên bãi biển, trên triền núi, hòa nhập
vào cảnh hoành tráng của thiên nhiên. Có lúc ông lại bỏ ra hàng giờ đi bộ đến những làng
xóm của cư dân địa phương, hỏi han, trò chuyện, tìm hiểu phong tục tập quán, sinh hoạt
của người dân lao động.
Thời gian này, Puskin ý thức một cách sâu sắc hơn về giá trị và bản chất đích thực
của tự do. Tiếng thơ của ông trở nên trầm lắng và thường có tính chất tâm sự. Ông tâm sự
với núi non, với biển ca với cánh chim bị giam lồng... Hàng loạt những bài thơ đã ra đời,
phản ánh cảm giác về tự do thường trực trong tâm hồn nhà thơ: Aïnh mặt trời của ban ngày
đã tắt (1820), Người tù (1822), Con chim nhỏ (1823) Hỡi sóng cả ai ngăn chặn (1823),
Người gieo giống trên đồng vắng (1823).
Môi trường phương Nam và không khí lịch sử - xã hội của thời đại đã đặt ra những
yêu cầu mới cho sáng tác của Puskin. Nhà thơ muốn thể hiện những thể loại lớn hơn:
trường ca; và phương pháp sáng tác mới: phương pháp lãng mạn. Năm 1820, trường ca
Rutxlan và Liutmila ra đời.

Bản trương ca Rutxlan ra đời đã nâng Puskin lên một vị trí mới, đánh dấu sự chiến
thắng của chủ nghĩa lãng mạn đối với các khuynh hướng văn học khác.
Tuy nhiên, Puskin không dừng lại với những thành công đã đạt được. Tiếp theo trường ca
Rutxlan và Liutmila, Puskin đã sáng tạo thêm hàng loạt trường ca: Người tù Capca (1820
-1821), Anh em kẻ cướp (1821 - 1822), Ðoàn người Sưgan (1824). Những tác phẩm này
đã phản ánh sự bất mãn không thỏa hiệp của tầng lớp thanh niên tiến bộ đương thời đối với
trật tự xã hội hiện hành. Với những tác phẩm này, Puskin trở thành đại diện cho khuynh
hướng văn học lãng mạn cách mạng.
Nhưng hiện thực xã hội đòi hỏi Puskin phải không ngừng tìm tòi, sáng tạo, sáng tác
theo một phương pháp phù hợp. Puskin bắt đầu viết tiểu thuyết thơ Epghênhi Ônhêghin,
thể nghiệm phương pháp hiện thực.
5. Thời kì lưu đày phương Bắc (1824- 1826): TOP
Nhận thấy việc lưu đày Puskin về phương Nam không thể đàn áp được tinh thần
của ông, Nga hoàng quyết định đẩy Puskin về phương Bắc. Thời gian lưu đày ở đây ông
sống tại làng Mikhailôpxkôe và bị quản thúc chặt chẽ. Puskin dường như phải sống trong
cô đơn và cách li hoàn toàn. Người thân duy nhất bên ông lúc này là nhũ mẫu Aria
Rôđiônnôpna.
Những đêm mùa đông lạnh lẽo, bà thường kể cho Puskin những câu chuyện cổ tích, hát
những khúc dân ca Nga buồn thương. Chính bà đã giúp cho Puskin hiểu được thế nào là
tâm hồn Nga bình dị, tinh thần cao cả của nhân dân.
Puskin đã viết về nhũ mẫu:
Mái lều ta quạnh hiu
Tiêu điều không ánh lửa
Bà ơi sao ngồi im
Âm thầm bên song cửa?
Hay tiếng rít bảo giông
Ðã làm người muốn nghỉ?
Hay người đang mơ mộng
Theo tiếng sa rền rĩ?
Sống tại làng Mikhailôpxkôie, Puskin vẫn tiếp tục gặp gỡ, tiếp xúc, tìm hiểu cuộc

sống của những người lao động bình dị. Puskin tiến hành ghi chép, sưu tầm, và nghiên cứu
về văn hóa dân gian. Ông tìm thấy trong công việc của mình một niềm lạc quan mới mẻ,
một tinh thần mới ở nhân dân. Puskin bắt tay vào nghiên cứu lịch sử dân tộc và viết vở bi
kịch lịch sử Bôrit Gôđunôp (1825). Cũng trong thời gian này Puskin tiếp tục viết tiểu
thuyết thơ Epghênhi Ônêghin.
Tuy nhiên, công việc sáng tác của Puskin không hề thuận lợi. Có lúc ông bị khủng
hoảng tinh thần trầm trọng. Nhưng cũng vào lúc đó, thiên thần hộ mệnh Kernơ của ông
xuất hiện . Chính tình yêu cao cả đã cứu Puskin và trả lại cho ông niềm cảm xúc tuyệt vời.
Puskin đã viết lên những câu thơ kì diệu:
Anh nhớ mãi phúc giây huyền diệu
Trước mắt anh em bỗng hiện lên
Như hư ảnh mong manh chợt biến
Như thiên thần sắc đẹp trắng trong
... Quả tim lại rộn ràng náo nức
Vì trái tim sống dậy đủ điều
Cả tiên thần, cả nguồn cảm xúc
Cả đời, cả lệ, cả tình yêu
Từ đây, nhiều kiệt tác trữ tình của thơ ca Nga xuất hiện: Con đường mùa đông, Lá
thư bị đốt cháy. Những bài thơ này thường đượm một vẻ buồn, khi phảng phất, khi sâu
lắng nhưng sắc điệu cơ bản của chúng vẫn là một nỗi buồn trong sáng.
Trong khi Puskin đang sống cô đơn tại Mikhailôpxkôie thì rạng sáng ngày 14 tháng
12 năm 1825, một cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra ở Pêtecbua. Sau đó cuộc khởi nghĩa
chống Nga hoàng bị lật đổ và hàng trăm người tham gia bị bắt, bị xử tử, bị kết án đày đi
Xibiri, trong đó có nhiều người là bạn thân thiết của Puskin. Kể từ đây, Puskin phải cùng
lúc đối đầu với hai kẻ thù lớn, đó là Nga hoàng và sự bi quan, thất vọng. Nhưng trong hoàn
cảnh đó, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng của Puskin cùng với lời nhắn gởi thiết tha và
sự hy sinh cao cả của những người bạn đã cổ vũ tinh thần nhà thơ. Tinh thần đó mãi mãi
dư âm trong lòng nhà thơ công dân, thôi thúc nhà thơ sáng tác vì tự do và tiến bộ. Sau này,
những bài thơ xuất sắc như Ariôn (1827), Cây Ansa(1828), Gửi tới Xibia (1829) cũng bắt
nguồn từ tinh thần bất tử đó.

6. Thời kì sau khởi nghĩa tháng Chạp 1825 TOP
Biết không thể khép tội và trấn áp tinh thần Puskin, Nicôlai I bèn thay đổi thủ đoạn.
Hắn cho gọi Puskin về Matxcơva. Lúc này triều đình Nga hoàng ngày càng bộc lộ bản chất
phản động. Nicôlai I biết rõ ảnh hưởng và uy tín của Puskin nên âm mưu muốn biến nhà
thơ nhân dân thaönh nhà thơ cung đình , phục vụ cho việc giải trí. Puskin phải trực tiếp đối
mặt với kẻ thù của nhân dân. Thời gian này ông cho ra đời các bài thơ nổi tiếng: Ariôn
(1827), Cây Ansa(1828), Gửi tới Xibia (1829).
Cũng trong thời gian này, Puskin gặp người bạn đời của mình- tiểu thư Natalia
Nikôlaiepna Gônsarôva (1812- 1863). Tình yêu trong sáng và mãnh liệt đã đem lại cho
Puskin những niềm cảm hứng bất tận. Puskin đã viết về Natalia:
... Nàng trang nghiêm, ánh mắt nàng thông tuệ
Trong hào quang thanh thoát nhân từ
Dưới gốc cọ Xiôn lặng lẽ ưu tư
Chỉ hai người, không thích thần hộ vệ...
Ngày 18 tháng 12 năm 1831 diễn ra lễ cưới của Natalia và Puskin.
7. Những năm cuối cùng: TOP
Giai đoạn cuối cùng của nhà thơ Puskin có thể kể từ 1830 trở đi. Thời kì này, trong
cuộc sống xã hội cũng như trong đời tư của Puskin có nhiều thay đổi. Tôi không có thời
gian rãnh; cuộc sống lạnh lùng, tự do cần thiết cho một nhà văn cũng không có nốt. Tôi
quay cuồng trong xã hội thượng lưu, vợ tôi lại rất ăn diện... Tất cả những cái đó cần có tiền
mà tiền thì kiếm bằng lao động, nhưng muốn lao động thì phải yên tĩnh.
Trong thời gian khó khăn đó, Nicôlai I rất mê sắc đẹp của Natalia. Hắn tìm mọi
cách để tiếp xúc, gần gũi với người đẹp. Nực cười hơn, hắn còn ban cho Puskin chức thiéu
niên thị toöng, một chức mua vui chỉ dành cho những người trẻ tuổi. Puskin bị xúc phạm
nặng nề. Mâu thuẫn giữa Puskin với Nga hoàng ngày càng gay gắt.
Nhưng những lúc khó khăn nhất, Puskin lại tìm thấy niềm vui trong sáng tác nghệ
thuật. Thời gian này, Puskin cho ra những bài thơ xuất sắc: Mùa thu, Tôi trở lại thăm, Ðài
kỷ niệm...
Cũng trong thời gian này, Puskin viết trường ca Kỵ sĩ đồng và hoàn thành tiểu
thuyết thơ Epghênhi Ônêghin .

Trong giai đoạn sáng tác cuối cùng này, Puskin chú ý nhiều về kịch và văn xuôi.
Quyển tiểu thuyết Người con gái viên đại úy được xem là Cuốn bách khoa toàn thư bằng
văn xuôi của đời sống Nga cuối thế kỷ XVIII.
Từ 1830 trở đi, những âm hưởng của chủ nghĩa lãng mạn không còn trong sáng tác
của Puskin. Xu thế chủ nghĩa hiện thực trở thành xu hướng chung trong các sáng tác của
ông.
Trong lúc Puskin tập trung trí lực vào sáng tác thì bọn quý tộc đã tìm mọi cách hãm
hại thi sĩ. Chúng phao tin để gây xung đột giữa tên Pháp lưu vong Ðăngxtet và nhà thơ. Ðể
bảo vệ danh dự và chính nghĩa, Puskin đã đấu súng và mất vào ngày 10 tháng 2 năm 1837.
II. THƠ TRỮ TÌNH CỦA PUSKIN
Thơ trữ tình của Puskin chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong kho tàng thơ ca Nga.
Ông đã sáng tác hơn 800 bài thơ có giá trị. Mặc dù Puskin có viết văn, viết kịch nhưng
thủy chung ông vẫn là nhà thơ.
Thơ Puskin có nội dung rộng lớn nhưng có thể gom về các chủ đề lớn như sau: 1.
Chủ đề phê phán chế độ chuyên chế Nga hoàng, 2. Chủ đề ca ngợi tự do, 3. Chủ đề thiên
nhiên, 4. Chủ đề tình yêu.
1. Chủ đề phê phán chế độ chuyên chế Nga hoàng: TOP
Thơ Puskin gắn liền với quá trình vận động cách mạng ở Nga trong suốt nửa đầu
thế kỷ XIX. Chính nội dung phản ánh cuộc sống nhân dân kết hợp với khí thế thời đại đã
làm nên giá trị các tác phẩm trữ tình của Puskin. Nội dung phản ánh xã hội đương thời là
không thể phủ định, tuy nhiên, cần thấy rõ nội dung phản ánh trong thơ Puskin mang tính
khuynh hướng rõ rệt. Ðó là thái độ phủ định chế độ Nga hoàng một cách trực tiếp thông
qua sự tái hiện một cách chân thật bộ mặt xấu xa của xã hội cùng với sự phê phán gay gắt
xã hội đó.
Thơ Puskin ca ngợi cái đẹp, thơ ông cũng phê phán, phủ định cái xấu. Nhưng cái
xấu ở đây không phải là cái xấu ngẫu nhiên, cái xấu của sự vật tương đối, mà nó là cái xấu
bản chất của xã hội, của chế độ, cái xấu đang bao trùm lên tất cả, chi phối moûi trật tự xã
hội.
Thơ Puskin bộc lộ trực tiếp thái độ phủ định Nga hoàng - tên đầu sỏ của chế độ
chuyên chế :

Hỡi tên vua chuyên quyền bạo ngược
Ta căm ngươi ngôi báu của ngươi
Ta thấy trước với niềm vui cay độc
Cái chết của ngươi, của cháu con ngươi .
( Tự Do )
Puskin đã dùng hình tượng cây Ansa để nói lên tính chất phản động của tên độc tài
trong thế kỷ bạo tàn :
Còn tên chúa lấy ra chất độc
Tẩm mũi tên, tên trúng đích trăm lần
Ðem chết chóc gieo ra ngoài bờ cõi
Qua biên thùy sang các nước lân bang .
( Cây Ansa )
Trong tác phẩm Những câu chuyện thần thoại Noen, nhà thơ đã thể hiện thái độ
châm biếm, nhạo báng đối với hành động và lời nói phỉnh gạt nhân dân của tên vua
chuyên quyền:
Hỡi nhân dân của cả nước Nga
Hãy biết rằng toàn thế gian đã biết
Ta đã may chiến phục cho ta
Theo kiểu nước Áo, Theo kiểu Ðức
Hãy vui lên dân chúng, hãy vui lên;
Ta no, ta béo, ta béo tròn
Bọn viết báo ngợi ca ta trên báo
Ta uống, ta ăn, ta hứa hão
Và việc công ta chẳng nhọc nhằn ...
Ðồng thời với thái độ phê phán, đã kích chính quyền chuyên chế, Puskin còn tái
hiện những kiếp đời bất hạnh triền miên của người dân lao động, và đồng thời bộc lộ thái
độ đồng cảm với họ. Ðó có thể là người thiếu phụ buột phải bỏ đứa con rứt ruột của mình;
đó có thể là những con người suốt đời làm thân nô lệ không dám nghĩ đến hoài bão, ước
mơ:
Theo luống cày còng lưng tê tái

Dưới làn roi khổ nhục ê chề
Ðám nông nô xơ xác chân kéo lê
Trên luống đất bọn chủ nô tàn ác
Aïch nặng nề kéo lê cho tới chết
Không dám nuôi chút hoài bão, ước mong .
( Làng - 1819 ).
Tóm lại, nội dung phê phán đả kích phủ định chế độ nông nô chuyên chế Nga
hoàng chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong việc tạo ra giá trị to lớn trong thơ Puskin.
Lần đầu tiên, với tinh thần tiến bộ và dũng cảm, Puskin đã dám phê phán bản chất chế độ
xã hội đương thời, phê phán từ tên vua cầm đầu cho đến bộ máy chính quyền, xã hội
thượng lưu bệnh hoạn. Ðiều đáng trân trọng ở đây là nhà thơ đã phản ánh đúng bản chất xã
hội và bộc lộ thái độ phê phán một cách mãnh liệt, không hề hòa hoãn, không hề khoan
nhượng. Chính tinh thần dũng cảm, thái độ kiên định, tình cảm phân minh đó đã đem đến
cho những bài thơ của Puskin một sức mạnh vô biên, một khả năng to lớn trong việc thức
tỉnh nhân dân, cổ vũ nhân dân đứng lên chống lại cường quyền, cải tạo xã hội.
2. Chủ đề ca ngợi tự do: TOP
Nội dung ca ngợi tự do trong thơ Puskin có một dung lượng khá lớn và gắn liền với
nội dung phê phán Nga hoàng. Nếu như việc tái hiện về mặt xã hội đem đến cho tác phẩm
một gía trị nhận thức to lớn thì nội dung ca ngợi và khẳng định tự do đem lại cho tác phẩm
một giá trị tư tưởng - tình cảm lớn lao.
Trong bài thơ Tự do Puskin phát biểu Tự do như là một nhà cách mạng quý tộc.
Nhà thơ không nhằm vào cuộc cách mạng toàn dân để thủ tiêu chế độ quân chủ mà trông
cậy vào cuộc cách mạng do các nhà quý tộc cách mạng đang chuẩn bị. Ðối với Puskin Luật
pháp đứng trên nhà vua và nhân dân . Nghĩa là tự do phải dựa trên việc hạn chế quyền
hành của nhà vua, phải tiến hành cải cách từ trên xuống, phải bãi bỏ chế độ nông nô:
Chỉ nơi nào có liên minh chặt chẽ,
Giữa tự do và pháp luật nghiêm minh
Ðưa mộc lên che chở mọi chúng sinh,
Trao thanh kiếm vào tay người trung thực,
Ðể trừng phạt không phân chia đẳng cấp,

Bất cứ kẻ nào gây tội ác gian tham.
Chỉ nơi nào tự do với luật hình,
Không e sợ, không mắc điều tham nhũng,
Chỉ nơi ấy lê dân không thê thảm
Không lao đao dưới trướng của đế vương.
Hỡi các đế vương ! Các ngươi có mũ ngọc ngai vàng
Do luật pháp chứ không do tạo hóa,
Trên nhân dân các ngươi ngồi cao hơn cả
Nhưng muôn đời luật phát trên các ngươi.
Ðối Puskin, tự do là khát vọng cao nhất, là tiếng lòng tha thiết nhất, mãnh liệt nhất
đối với nhân dân. Ông đã dùng nhiều từ ngữ, hình ảnh để diễn tả khái niệm tự do và cùng
với nó là hạnh phúc, giải phóng như: lửa tự do rực cháy; bình minh rực cháy của tự do;
sao hạnh phúc nguy nga hiện sáng; nhân dân cởi tròng thoát ách; dông tố đâu hình ảnh
của tự do; bay, bay đi ta loài chim tự do...
Cả một đời người Puskin mất tự do. Vì vậy thơ Puskin đọng nỗi cay đắng của
người mất tự do. Nga hoàng đã dùng nhiều cách để tước đoạt tự do của nhà thơ: đưa đi
khỏi Pêtecbua, giam lỏng ở vùng quê, kiểm duyệt khắt khe... Từ nỗi đắng cay của mình,
Puskin hiểu nỗi cay đắng của nhân dân. Có lẽ vì thế, với Puskin tự do luôn gắn liền với
nhân dân, gắn liền với giải phóng.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×