Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Huyền học trong triết học Ả rập và triết học Hồi giáo.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.6 KB, 11 trang )

Huyền học trong triết học Ả rập và triết học Hồi giáo
Huyền học trong ngữ cảnh Hồi giáo được quyện chặt theo truyền thống với khái niệm
Ḥikmah, [khái niệm này] vừa là sự hiền minh vừa là Triết học (Nars 1996). Nguồn
suối của huyền học và các yếu tố huyền học trong Hồi giáo phải được lần đến kinh
Qur’an và chính học thuyết Hồi giáo.
Một vài đoạn kinh Qur’an được các nhà huyền học và các nhà huyền học-triết gia của
Hồi giáo như là những gợi ý có tính dụ ngôn và bí truyền cho những ai có thể nhìn ra
được những điều ấy. “Thượng đế là cái Bên ngoài và cái Bên trong” (Qu’ran 57:3);
Ngài là người được mang lại sự hiền minh, Ngài đích thực đã nhận được sự thiện thừa
mứa” (Qu’ran 2:29) và những đoạn kinh thi [light verse] nổi tiếng.
Thượng đế là Ánh sáng của bầu trời và mặt đất, cái giống như ánh sáng của Ngài thì
giống như một hốc tường mà trong đó là một ngọn đèn, ngọn đèn là một tấm thủy
tinh, và có thể nói là thủy tinh như một ngôi sao lấp lánh được khơi lên từ một cái
cây được ban phước, một cây ô liu không ở phương Đông chẳng ở phương Tây mà
dầu của nó hầu như có thể phát sáng, cho dù không có ngọn lửa nào chạm vào; ánh
sáng chồng chất trên những ánh sáng; Thượng đế dẫn dắt người nào mà Ngài muốn
[để đi] đến ánh sáng của Ngài. Và Thượng đế khơi gợi những sự giống nhau cho con
người, Ngài có tri thức về mọi điều. (Qu’ran 24:35).
Tất cả điều này có thể được xem như hàm chứa một thức nhận bí truyền. Qua hàng
thế kỷ, các đoạn kinh này đã truyền cảm hứng cho nhiều nhà ngộ đạo, chẳng hạn
một vài trong số họ như Shihāb al-Dīn Suhrawardī (TK 12 SCn) và Mullā Ṣadrā (TK
16 SCn), đã viết bình giải về các đoạn kinh này (ví dụ: tác phẩm On the
Hermeneutics of the Light Verse of the Quran [Về Thông diễn học của đoạn kinh thi
của kinh Qu’ran] của Mullā Ṣadrā.
Vì thế, từ một viễn tượng huyền học, mọi sự phát triển và tương tác về sau giữa triết
học Hồi giáo với những truyền thống tinh thần khác nên được nhìn nhận như là
những sự biểu đạt duy lý về các yếu tố của huyền học bên trong một bầu không khí
[milieu] Hồi giáo. Các yếu tố huyền học tồn tại trong Hồi giáo theo hai cách thức
khác nhau và độc lập nhau. Trên phương diện thực hành, thuyết Sufi[1] đại diện cho
các kích thước bí truyền của Hồi giáo trong hình thức thuần túy nhất của nó, trong
khi về mặt lý thuyết, các đặc trưng nổi bật của huyền học Hồi giáo đã được hợp nhất


dần dần vào trong truyền thống triết học Hồi giáo. Vì thế, huyền học Hồi giáo dựa
trên hai cột trụ: thứ nhất là sự thực hành, thứ hai là triết học. Tức là, sự hiền minh bí
truyền có thể đạt tới hoặc thông qua sự hiền minh thực hành, gồm sự thanh lọc bên
trong và thuyết khổ hạnh, hoặc thông qua một loại hình triết học gồm sự suy luận
suy lý, nhưng không bị giới hạn vào nó.
1. Thuyết Plato mới và thuyết Sufi
Theo sau các trường phái tư tưởng thần học sơ kỳ trong Hồi giáo, trong đó có cả các
nhà quyết định luận (Quadarites), các nhà mạt thế luận (Murj‘aites và Wa‘idites) và
các nhà thần học dựa trên đặt cơ sở trên đức tin (Ash‘arites), truyền thống triết học
Hồi giáo và nhiều trường phái tư tưởng khác biệt của nó đã xuất hiện. Mặc dù Al-
Kindī được xem là nhà triết học Hồi giáo đầu tiên, [nhưng] sự tác động đầy đủ của tư
tưởng thời Hy lạp hóa lên triết học Hồi giáo được thấy rõ nhất trong lâu đài triết học
của Abū Nasr Fārābī (TK 10 SCn). Al-Fārābī, người được xem như là cha đẻ của lô-gíc
học trong truyền thống triết học Hồi giáo, cũng là người đầu tiên đi theo thuyết Plato
mới, dù theo một nghĩa giới hạn. Chính hệ hình của ông đã lót đường cho huyền học
bước vào triết học Hồi giáo.
Thuyết Plato mới, học thuyết vẫn là một trong những đặc trưng nổi bật của triết học
Hồi giáo, thực hiện hai chức năng: chức năng trí tuệ và chức năng thực hành, cả hai
chức năng đều đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của việc sống cuộc đời triết
học. Trên phương diện triết học, thuyết Plato mới đưa ra những lời giải đáp cho hầu
hết những câu hỏi lớn bên trong văn cảnh Hồi giáo, chẳng hạn như làm thế nào cái
nhiều [multiplicity] trở thành cái một [cái thống nhất] và làm thế nào mà tính hữu
hình bắt nguồn từ một thượng đế vô hình, cũng như giải thích sự trật tự đi lên và trật
tự đi xuống của các tồn tại.
Trong Al-Fārābī, huyền học biểu lộ theo hai cách: triết học và thực hành. Về mặt triết
học, hiện rõ trong tác phẩm Risālah fi’l-‘aql [Bức thư về trí tuệ], sự lý giải của ông về
khái niệm về bốn trí tuệ lót đường cho người kế tục ông, Avicenna (Ibn Sīnā) (981–
1037 SCn), người đã khai thác trọn vẹn thuyết Plato mới. Trong các trước tác của
mình, Al-Fārābī không chỉ cố gắng dung hòa các quan niệm của Plato và Aristoteles,
trong đó Plato được xem như có gì đó như một hình tượng huyền bí, mà, trong

những bài luận của ông về triết học chính trị, ông còn thay [quan niệm] vua-triết gia
của Plato bằng một thầy tế (Imam) mà nhận thức của thầy tế về chân lý là có tính
trực giác, thầy tế là người không chỉ biết các đức hạnh thần học mà còn là đức hạnh
thực hành. Tuy nhiên, mặc dù các sáng tác âm nhạc của ông được cất lên giữa một
dòng tu Sufi nào đó ở Thổ nhĩ kỳ, đại lục Ấn-Pakistan, và người ta có thể nhận thấy
ảnh hưởng của thuyết Sufi trong tác phẩm Fuṣūṣ al-ḥikam [Những làn gió của sự
hiền minh], những tường thuật về việc ông là một Sufi thực hành là khá mơ hồ.
Sự hiện diện đầy đủ của huyền học còn rõ ràng nhiều hơn trong các tác phẩm của
Avicenna, đạo sư của phái Tiêu dao [Peripatetics]. Luận đề trung tâm nằm bên dưới
phần lớn Hồi giáo Sufi và Hồi giáo ngộ đạo (‘irfān) là sự thống nhất của nơi chốn căn
nguyên, nơi con người cư ngụ, đã trở thành cái nhiều của thế giới của những hiện
hữu. Câu hỏi nổi bật là, làm thế nào một người có thể quay trở lại sự thống nhất của
căn nguyên? Avicenna đã xem câu hỏi làm thế nào cái nhiều trở thành cái thống nhất
một cách rất nghiêm túc và câu hỏi này có cảm hàm ý triết học lẫn hàm ý huyền
học. Bằng cách dựa trên sơ đồ về sự dẫn xuất của thuyết Plato mới, Avicenna mang
lại cho thuyết Sufi một khung trí tuệ mà bên trong đó câu hỏi làm thế nào mà hành
trình tinh thần hướng tới Thượng đế có thể diễn ra, đã được trả lời. Tuy nhiên, trong
lĩnh vực huyền học, trong khi sự gặp gỡ của Avicenna với đạo sư Sufi vĩ đại là Abū
Sa‘īd Abu’l-Khayr (mất 1049 SCn) và sự hiện diện của một “triết học Đông phương”
(al-ḥikmat al-mashraqiyyah) trong trước tác của ông được hầu hết các học giả đương
đại xem là ngụy tạo, thì sự hiện diện của các yếu tố Sufi và các yếu tố huyền học
trong một vài tác phẩm của ông là không thể chối cãi được (Aminrazavi 2003). Trong
chương 9 của một kiệt tác triết học của ông al-Ishārāt wa’l-tanbihāt [Những Nhận
định và Nghiên cứu], trong một mục có tiêu đề là Fī maqāmāt al-‘ārifin [Về những
điểm dừng chân của người biết], Avicenna đề nghị một sự giải thích cho học thuyết
Sufi và công khai bảo vệ phương pháp đạt tới chân lý của phái ngộ đạo và phái Sufi.
Trong một vài trước tác có tính dụ ngôn hơn của ông, như Mi‘rāj nāmah [Thảo luận
về sự đi lên], Risālat al-ṭaīr [Thảo luận về loài chim], Salmān và Absāl, Ḥayy ibn
Yaqẓān [Con trai của sự tỉnh thức sống động] và Risālah fi’l-‘ishq [Khảo luận về Tình
yêu] không đề cập đến bài thơ nổi tiếng của ông al-Qaṣidah al-‘ayniyyah [Thi ca của

Linh hồn], sự hiện diện của các yếu tố Sufi và các yếu tố ngộ đạo là trong suốt một
cách sinh động.
Nơi Avincena, người đại diện cho đỉnh cao triết học duy lý ở Ba tư (Persia), có hai
khuynh hướng tinh thần. Một mặt, có nhân vật lỗi lạc là Abū Ḥāmid Ghazzālī, người
đã hoàn toàn phản bác mọi triết học và trở thành người duy nhất diễn giải thuyết
Sufi. Mặt khác, nảy sinh triết học Ismā‘īlīs, nơi kết hợp mạnh mẽ các ý niệm của Sufi
với các ý niệm của phái Hermetico-Pythagoras[2] bên trong một ngữ cảnh triết học.
Ghazzālī, một nhà luật học chính thống [giáo] và là một diễn giả lớn về thần học đặt
cơ sở trên đức tin (Ash‘arite) đã nghiên cứu triết học, đã suy tưởng về suy luận đứng
được đặt trên một cơ sở vững chắc nhưng đã sớm quay qua chống lại triết học, khi
đưa ra một phê phán có tính phá hủy lý tính trong tác phẩm Tahāfut al-falāsifah [Sự
không nhất quán của các triết gia] của ông. Sau khi mất ảo tưởng với những khoa
học tinh thần, ông đã thực hành thuyết khổ hạnh trong một vài năm ở nơi hẻo lánh
và cuối cùng đã tìm thấy những câu trả lời của mình trong truyền thống Sufi. Hành
trình tinh thần của Ghazzālī từ nhà luật học chính thống đến một nhà Sufi là một
trong các nghiên cứu đáng chú ý nhất của sự biến hình của một nhà hiền triết Hồi
giáo người chuyển từ cuộc sống Hồi giáo bên ngoài đến cuộc sống Hồi giáo bên trong
và đã tìm thấy thuyết Sufi là con đường duy nhất dẫn tới chân lý. Ông dành nửa cuối
cuộc đời cho việc giảng dạy, sáng tác và thực hành thuyết Sufi của mình.
Ghazzālī là một trong số ít nhà huyền học mà tên thuyết Sufi của ông chứa đựng
chính thống giáo tôn giáo, một khung tinh thần ngộ đạo, và kích thước có nhiều tính
thực hành và khổ hạnh hơn của con đường tinh thần. Trái với các nhà Sufi chống-
luật, người đã phá vỡ luật Hồi giáo (Shari‘ah) và thái độ mềm mỏng hơn của một số
nhà Sufi khác, Ghazzālī là một tín đồ nghiêm khắc và nhiệt thành của luật Hồi giáo.
Ông đã viết nhiều về huyền học, chứng minh nó là một con đường đúng đắn duy
nhất đến với chân lý. Một phần đáng ghi nhận giữa các trước tác của ông về huyền
học Mishkāt al-anwār [Hốc Ánh sáng], một tác phẩm quan trọng về một bản tính
giác ngộ luận và một tác phẩm đã ảnh hưởng tới sự hình thành một học thuyết về sự
giác ngộ (ishrāq) của Suhrawardī (Aminrazavi 1996). Ngoài ra, các phần của tác
phẩm lớn của ông, Iḥyā’ al-‘ulūm al-dīnī [Sự hồi sinh của các khoa học tôn giáo], như

quyển 35 của Iḥyā’: The Book of Faith in Divine Unity and Trust in Divine Providence
[Quyển sách về Đức tin trong sự Thống nhất thần thánh và về sự Tin tưởng trong sự
Thiên hựu thần thánh], được dành chủ yếu cho một sự giải thích về học thuyết Sufi.
Ông cũng đã viết nhiều bài bình chú ngắn về ý nghĩa tinh thần của việc ăn kiêng, cầu
nguyện, sự khấn vái các tên gọi và các vật tượng trưng thiêng liêng, và âm nhạc tinh
thần như là các nhạc cụ cho việc thanh tẩy linh hồn.
2. Truyền thống Isma‘ili
Về phía Isma‘ili, các triết gia phái này đi theo sự sử dụng học thuyết Hermes[3]
[Hermeticism] bí truyền và những lời giảng huyền học của phái Greco-Alexandrian.
Những khái niệm như sự dẫn xuất từ cái Một, thuyết khổ hạnh, thể xác như là ngục
tù với linh hồn như tù nhân của thân xác, sự khai tâm vào những huyền nhiệm của
sự ngộ đạo (ma‘rifah), các cấp độ của những sự lý giải của thông diễn học tinh thần
(ta’wīl), hình học thần thiêng với thuyết biểu trưng huyền học của nó, những vòng
tuần hoàn của sự tiên tri, và vai trò khai tâm của các thầy tế Shi‘ite nằm trong nhiều
chủ đề huyền học của truyền thống triết học Ismā‘īlī. Nằm trong số những nhân vật
nổi tiếng nhất của phái Ismā‘īlī trong thế kỷ 10 và 11 SCn là Jabir Ibn Ḥayyān,
(khoảng 721 – 815 SCn) là một nhà khoa học và hóa học nhiều hơn [nhà huyền học]
và với cương vị ấy đã đưa ra trong tác phẩm Kitāb al-aḥjār [Sách về những viên đá]
một sự lý giải huyền học của khoa học về các mẫu tự và các khái niệm toán học bí
truyền vốn chịu ảnh hưởng bởi hình học phái Pythagoras. Ta cũng nên lưu ý rằng ông
là một tên tuổi lớn mà chủ biên những tác phẩm quy tụ nhiều nhà tư tưởng khác.
Abū Ya‘qub Sijistānī cũng là nhân vật nổi tiếng trong phong trào này những trước tác
huyền học của ông trong tác phẩm Kashf al-maḥjūb [Khai mở cái bị ấn dấu] và Kitāb
al-yanābi‘ [Sách về những giếng suối] đã đưa ra một bình giải bí truyền về những
vấn đề lớn của triết học và tôn giáo (xem Nasr và Aminrazavi 1999/2001). Sijistānī,
người mà những trước tác của ông phải được xem như là một bình giải tinh thần về
học thuyết ngộ đạo gắn liền với cuộc đấu tranh của linh hồn trong việc hướng tới
trạng thái niết bàn của nó, tập trung quanh tính duy nhất của Thượng đế, những trí
tuệ vừa mang tính thần thánh vừa mang tính người, và các loại linh hồn khác nhau
cũng như mối liên hệ của chúng với thân xác. Trong các tác phẩm đã được đề cập ở

trên, Sijistānī thảo luận một cách có hệ thống các khái niệm về sự sáng tạo, vai trò
của các nhà tiên tri như những người hướng dẫn tinh thần, và thuyết biểu trưng được
che giấu của những lời giảng của họ. Khi một người đi từ cấp độ bên ngoài vào cấp
độ bên trong và bí truyền của Hồi giáo, người ấy sẽ có được ý thức, tức chìa khóa
cho việc hiểu thuyết biểu trưng trong những lời giảng tiên tri. Giữa những nhân vật
lớn và những văn bản huyền học bí truyền khác trong khuynh hướng này, có Abū
Ḥātim Rāzī's (811–891 SCn) [với tác phẩm] A‘lām al-nubuwwah [Khoa học về tiên
tri], ở đây Abū Ḥātim Rāzī's áp dụng khái niệm về sự dẫn xuất vào khái niệm vũ trụ
học về kun [Tồn tại] và đưa ra một bình giải huyền học về làm thế nào mà linh hồn
con người là một dấu vết của những linh hồn cao hơn vốn là hoàn hảo.
Ngoài ra, cần phải đề cập đến Ḥamīd al-Dīn Kirmānī (mất năm 996–1021 SCn) và vô
vàn trước tác nổi tiếng của ông về thuyết Sufi và thuyết ngộ đạo, trong đó nổi tiếng
nhất là cuốn Rāḥat al-‘aql [Sự thư thái của trí tuệ] của ông. Một triết gia phái Ismā‘īlī
nổi bật, người được một số triết gia gọi là “Ismā‘īlīs’ Ibn Sīnā, đã lập luận rằng một
hiểu biết về chân lý được đặt cơ sở trên hai giới luật. Đầu tiên, một người phải sống
một đời sống đức hạnh trên phương diện luân lý, và thứ hai, người thành thạo [điều
thứ nhất] phải sẵn sàng trên phương diện triết học. Các chương của tác phẩm Rāḥat
al-‘aql được gọi là aswar (bức tường) và đoạn văn, mashāri‘ (những đường mòn).
Người mới tu tập phải đi qua 56 lối bên trong 7 bức tường để linh hồn đặt được nhận
thức về Thực tại. Thực tại, theo Kirmānī, được phân chia thành 4 cấp bậc khác nhau:
thứ nhất là thế giới của sự sáng tạo Thần thánh hay thế giới phi vật chất [vô hình]
(‘alām al-ibdā‘), thứ hai, vương quốc vật chất hữu hình (‘ālam al-jism), thứ ba, lĩnh
vực của tôn giáo (‘alām al-dīn), và cuối cùng, sự quay trở lại của thế giới đến sự
thống nhất sơ khởi của nó với Thượng đế (Baumstark 1932; Corbin 1961; Corbin
1964, 130–1; Hunzai 1986).
Có lẽ nhân vật quan trọng nhất của truyền thống Ismā‘īlīs, một người vừa là nhà thơ
vừa là triết gia, là Nāṣir-i Khusraw (1004– khoảng 1072 SCn). Trong tập hợp những
bài thơ mô phạm và huyền học của ông được biết đến là Divān, hoặc trong những tác
phẩm huyền học Đông phương chẳng hạn như Jāmi‘ al-ḥikmattayīn [Tổng của hai sự
hiền minh] và Gushāyesh wa rahāyesh [Nhận thức và sự giải phóng], ông không

ngớt đưa ra lời khuyên về sự thanh tẩy của linh hồn và việc theo đuổi hành trình tinh
thần ấy. Ta có thể thấy nỗ lực của Nāṣir-i Khusraw nhằm hòa giải thuyết Sufi với lý
tính trong tác phẩm Tổng của hai sự hiền minh của ông, ở đây ông lập luận rằng
“những bậc hiền nhân của tôn giáo thực sự” (ḥukamāy-i dīn-i ḥaqq) và các triết gia
đều nhất trí với nhau. Đối với Nāṣir-i Khusraw, khoa học về linh hồn là con đường đạt
đến nhận thức thực sự, tức nhận thức vượt lên trên sự khác biệt giữa người nhận
thức và sự nhận thức. Trong một bài thơ, ông viết:
Between the knower and the known.
There lies a distinction by one who
Has awakened from sleep of heedlessness.
[Giữa người biết và cái được biết
Có một sự phân biệt bởi một người
tỉnh thức khỏi giấc ngủ của sự lơ đãng.]
Nāṣir-i Khusraw đưa ra những hướng dẫn rõ ràng việc một người mới tu tập phải đi
theo con đường tinh thần, dựa trên những sự thực hành khổ hạnh riêng biệt, như thế
nào. Giống với những nhân vật của là Thánh Augustin và thánh Francis của Assisi,
Nāṣir-i Khusraw theo đuổi một lối sống theo thuyết khoái lạc [hedonistic] trong giai
đoạn đầu của cuộc đời nhưng đã trải qua một sự biến hình tinh thần và rồi hiến dâng
mình cho con đường Sufi. Ta có thể nhìn thấy tiếng vang từ cả hai giai đoạn của đời
ông xuyên suốt những tác phẩm của ông (Hunsburger 2000).
Cũng có một vài tác phẩm bách khoa thư về truyền thống Ismā‘īlī của các tác giả vô
danh. Nhiều tác phẩm này giải quyết những ý niệm huyền học và Sufi. Những tác
phẩm có ảnh hưởng lớn trong sự lan truyền của các ý niệm ngộ đạo là những khảo
luận như Ikhwān al-ṣafā [Giáo hữu của sự Thuần khiết] và Umm al-kitāb [Mẹ của
những cuốn sách] (Daftary 1990; Nasr & Aminrazavi 1999/2001).
3. “Thời kỳ ngưng trệ” và trường phái Shira
Theo truyền thống, những nhà sử học về triết học đã khẳng định rằng sau Ghazzālī ở
thế kỷ TK 11 SCn, hoạt động triết học ở Ba tư và phần phía Đông của thế giới Hồi
giáo bị chặn lại và di chuyển tới Tây ban nha Hồi giáo. Có những người quy điều này
cho sự công kích quyết liệt của Ghazzālī đến các triết gia, nhưng điều này hầu như

chỉ là một huyền thoại. Thế giới Hồi giáo lúc ấy quá rộng, và bầu không khí tinh thần
quá phong phú và khác biệt, đến nỗi không một quyển sách riêng lẻ nào đặt một dấu
chấm hết cho triết học và sự suy luận suy lý của nó. Trong khi đúng thực là triết học
phái Tiêu dao đã chịu đựng một sự lu mờ tạm thời ở Ba tư, lí do của điều này nằm ở
những thực tế chính trị-xã hội của triều đại Saljūq và sự đấu tranh của thế giới Hồi
giáo với các thế lực bên ngoài như các cuộc Thập tự chinh. Giới học giả gần đây đã
phát hiện rằng thời đại gọi là thời kì ngưng trệ ấy lại thực sự là một kỷ nguyên thịnh
vượng của các hoạt động trí tuệ trong phần phía Nam Ba tư nơi mà đã nổi lên cái
được gọi là “Trường phái Shiza”. Trường phái này, với đặc trưng nổi bật của nó là sự
tổng hợp thuyết duy lý, huyền học và trực quan trí tuệ và thậm chí là thuyết Sufi
bình dân, không nghi ngờ gì là điều báo trước cho trường phái Isfahan.
Giữa những đạo sư vĩ đại của huyền học triết học đến từ Tây ban nha, Ibn Masarrah
(883–931 SCn) là người nổi bật. Ông là một nhà khổ hạnh mà những quan niệm của
ông về cuộc truy tìm huyền nhiệm về tính thống nhất của linh hồn với Thượng đế đã
tạo thành một chủ đề lớn trong huyền học triết học của ông. Những người khác gồm
có Ibn Ḥazm (994–1064), người nhấn mạnh tình yêu huyền học, Ibn-Bājjah (1095–
1138 SCn), người luận giải khái niệm trực quan trí tuệ và huyền học như là quan
năng kinh nghiệm những thực thể Thần thánh, Ibn Al-Sid of Badajoz (1052–1127
SCn), người phát triển một vài điều được gọi là huyền học toán học và Ibn-Ṭufayl
(khoảng 1105–1185 SCn), người mà dụ ngôn huyền học của ông Ḥayy ibn Yaqẓān
[Đứa con của những tỉnh thức sống động và khái niệm của ông về Trí tuệ Tác động,
đã biến ông trở thành diễn giả lớn của huyền học trong truyền thống triết học Hồi
giáo. Cuối cùng là triết gia Sufi, Sab‘īn (1217–1268 SCn), người đã đưa ra một nỗ lực
nhằm mang ra một sự tái xác lập quan hệ giữa triết học với thuyết Sufi trong một sự
luận giải có hệ thống về những chủ đề huyền học.
Mặc dù tầm quan trọng của các nhân vật trên, không một ai trong họ đạt tới địa vị
cao trọng của một bậc đạo sư vĩ đại nhất của thuyết Sufi triết học và ngộ đạo,
Shaykh Muḥyī al-Dīn Ibn ‘Arabī (1165–1240 SCn) thường được quy đến là Shaykh al-
Akbar (Bậc đạo sư Vĩ đại nhất). Ibn ‘Arabī, mà những tác phẩm bách khoa của ông,
Fuṣūṣ al-ḥakam [Vát cạnh của sự hiền minh] và Futuḥāt al-Makkiyah [Thắng lợi

×