Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên CĐSP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.57 KB, 105 trang )

1


më ®Çu
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Từ khi mới sinh ra con người đã luôn luôn gặp những khó khăn trở ngại
trong hoạt động và chính từ những khó khăn đó đã đòi hỏi con người phải có
sự nỗ lực vượt qua bằng cách này hay cách khác để đạt được mục đích như
mong muốn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi miền Bắc hoàn toàn
giải phóng và bắt tay vào lao động sản xuất, xây dựng đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy vai trò vô cùng quan trọng
của giáo dục, và nhiệm vụ mang tính chiến lược được đặt ra là phải tạo nên
những thế hệ giáo viên có trình độ chuyên môn cao, phẩm chất nhân cách tốt
để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Các nhà trường CĐSP là một khâu mắt xích không thể thiếu trong nhiệm vụ đó, nó có một vai trò vô cùng quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy trường CĐSP
phải thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo những sinh viên sư phạm, trang bị
cho họ những tri thức khoa học, nghiệp vụ sư phạm để họ trở thành những
người giáo viên có đủ khả năng dạy học và giáo dục.
Mục tiêu của Đảng và nhà nước ta hiện nay là đưa đất nước phát triển đi
lên về mọi mặt, bên cạnh đó rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các tỉnh
miền núi so với các tỉnh đồng bằng. Nhiệm vụ đó đã được thực hiện thông qua
nhiều chính sách đầu tư, đặc biệt trong đó có giáo dục, thể hiện như: xây dựng
cơ sở hạ tầng, cung cấp trang thiết bị cho các trường học, đào tạo đội ngũ giáo
viên có trình độ đáp ứng các yêu cầu của sự đổi mới. câu hỏi đặt ra là làm thế
nào để nâng cao chất lượng dạy - học của của giáo viên - học sinh luôn là vấn
đề được quan tâm.
Trong quá trình học tập tại trường CĐSP, sinh viên phải trải qua rất
nhiều khó khăn, nhất là đối với sinh viên năm thứ nhất và đặc biệt là sinh viên
2



các dân tộc thiểu số miền núi. Những sinh viên này phải tiếp cận với nội dung
tri thức mới với số lượng và nội dung lớn hơn, phức tạp hơn so với phổ thông.
Cách thức học tập cũng như phương pháp dạy của thầy cũng rất khác so với
phổ thông. Phần lớn những sinh này đều xuất thân từ những gia đình có kinh
tế khó khăn, trình độ học vấn của bố mẹ thấp, họ học tập ở môi trường phổ
thông với điều kiện không thuận lợi. vậy nên trình độ đầu vào của những sinh
viên này tương đối thấp, tiếng phổ thông chưa được thạo, chưa có sự bạo dạn
trong giao lưu học hỏi. Những yếu tố trên đã gây không ít những khó khăn
tâm lý cho sinh viên trong quá trình học tập. Đứng trước những khó khăn tâm
lý đó nếu không có những cách thức khắc phục khó khăn thì sẽ dễ làm cho
sinh viên chán nản, bỏ bê. Từ đó tạo cho họ sự trì trệ, buông xuôi, phó mặc và
không có động lực để phấn đấu.
Việc tìm ra các biện pháp để khắc phục những khó khăn tâm lý trong
hoạt động học tập của sinh viên các dân tộc thiểu số, đồng thời giúp những
sinh viên này tự tìm ra cho bản thân cách thức học tập hợp lý, ý thức đầy đủ
về khó khăn tâm lý sẽ gặp phải trong hoạt động học tập là việc làm rất cần
thiết nhằm góp phần nâng cao kết quả học tập của họ.
Hiện nay đã có một số đề tài nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong hoạt
động học tập của sinh viên CĐSP song thật đáng tiếc chưa có đề tài nào thực
sự nghiên cứu về khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên các dân tộc
thiểu số.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi lựa trọn và nghiên cứu đề tài
"Những khó khăn tâm lý trong hoạt động học tập của sinh viên các dân tộc
thiểu số năm thứ nhất trường CĐSP Sơn La"

3


2. Mục đích nghiên cứu

Phát hiện những khó khăn tâm lý trong học tập của sinh viên các dân
tộc thiểu số năm thứ nhất, nguyên nhân của những khó khăn đó, từ đó đưa ra
các biện pháp, cách thức tác động nhằm hạn chế những khó khăn.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3. 1 Đối tượng nghiên cứu: Những khó khăn tâm lý trong hoạt động học
tập của sinh viên các dân tộc thiểu số năm thứ nhất trường CĐSP Sơn La
3. 2 Khách thể nghiên cứu: Sinh viên dân tộc thiểu số năm thứ nhất
trường CĐSP Sơn La (thăm dò khoảng trên 150 sinh viên dân tộc thiểu số năm
thứ nhất)
4. Giả thuyết khoa học
Sinh viên các dân tộc thiểu số thường gặp những khó khăn tâm lý trong
học tập đặc biệt là năm thứ nhất, cụ thể như: Khó khăn tâm lý trong nhận thức,
thái độ, hành vi; trong phương pháp học, điều kiện học tập, môi trường sống
và môi trường học tập; khả năng hiện có của của các em. Những khó khăn đó
có ảnh hưởng nhất định đến kết quả học tập của họ. Nếu rèn luyện cho các em
thói quen tự tin, bạo dạn trong học học tập cũng như trong giao tiếp và các kỹ
năng cần thiết trong học tâp thì sẽ nâng cao được chất lượng kết quả học tập.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm giải quyết những nhiệm vụ sau:
5. 1 Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đề tài
nghiên cứu (học tập, khó khăn tâm lý trong học tập, ảnh hưởng của khó khăn
tâm lý đến kết quả học tập.
5.2 Phát hiện thực trạng những khó khăn tâm lý trong học tập của sinh
viên dân tộc thiểu số năm thứ nhất trường CĐSP và nguyên nhân nảy sinh
những khó khăn tâm lý đó.
4


5.3 Xây dựng chân dung điển hình về khăn tâm lý trong học tập của
sinh viên dân tộc thiểu số năm thứ nhất trường CĐSP Sơn La

5.4 Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn tâm lý
đó
6. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng những khó khăn tâm lý trong hoạt
động học tập của sinh viên các dân tộc thiểu số năm thứ nhất, thử nghiệm một
vài biện pháp tác động nhằm hạn chế những khó khăn tâm lý đó.
7. Địa bàn nghiên cứu
Trường CĐSP Sơn La và một số gia đình có con em là sinh viên các
dân tộc thiểu số năm thứ nhất trường CĐSP Sơn La ở các huyện lân cận.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1 Các phương pháp nghiên cứu lý luận
8.2 Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
8.2.1 Phương pháp trò chuyện phỏng vấn
8.2.2 Phương pháp quan sát
8.2.3 Phương pháp điều tra viết
8.2.4 Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
8.2.5 Phương pháp nghiên cứu điển hình
8.3 Phương pháp thống kê toán học

5


Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. 1 SƠ LƯỢC LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Khó khăn tâm lý trong học tập là một vấn đề còn ít được quan tâm
nghiên cứu trong lịch sử tâm lý học trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Sau
đây chúng tôi xin đưa ra một số quan điểm nghiên cứu về khó khăn tâm lý
trong học tập của một số tác giả của nước ngoài và Việt Nam.
1.1.1 Ở nước ngoài

Trong thập kỷ 70 của thế kỷ XX bà Bianka. Zazzo, giáo sư đại học
EPHE Pari cùng các cộng sự là 12 chuyên gia cấp cao về tâm lý, y khoa và
giáo dục đã nghiên cứu trẻ em từ lớp mẫu giáo đến cuối lớp 1 đã chỉ ra:
“khó khăn tâm lý lớn nhất mà trẻ gặp phải làm cản trở đến sự thích ứng với
HĐHT của trẻ là sự thay đổi môi trường hoạt động một cách triệt để , gọi là
chuyển dạng hoạt động chủ đạo. trẻ mẫu giáo lấy hoạt động vui chơi làm
hoạt động chủ đạo, vừa học vừa chơi, hoạt động đa dạng, tính tự do tuỳ
hứng cá nhân nặng hơn là tính chỉ đạo của giáo viên, người lớn tuổi. Bước
sang lớp 1, học tập là hoạt động chủ đạo, học sinh phải chấp hành nghiêm
chỉnh mọi quy định theo sự chỉ đạo chặt chẽ của giáo viên, theo nguyên tắc
lớp học. Vì thế, trẻ nào vượt qua được khó khăn này thì sẽ học tốt, còn
không vượt được thì sẽ dẫn đến tình trạng chán học, kết quả không cao”.
Theo [42;19].
- Cũng với đối tượng nghiên cứu là học sinh lớp 1, tác giả A.V
Petrovxki đã chia khó khăn tâm lí của trẻ em khi đi học lớp 1 làm ba loại.
+ Những khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học tập mới
+ Khó khăn trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp mới với thầy cô và
bạn bè

6


+ khó khăn trong việc thích nghi với hoạt động mới, lúc đầu trẻ được
chuẩn bị của gia đình, nhà trường, xã hội nên trẻ có tâm trạng vui thích, sẵn
sàng đi học, và sau giảm dần khát vọng và chán học. [33;52].
Bên cạnh đó, tác giả đã đề cập đến những nguyên nhân dẫn đến khó
khăn, ảnh hưởng của những khó khăn nêu trên đến đời sống của trẻ và đề xuất
một số biện pháp giải quyết khó khăn cho trẻ. Như vậy, tác giả đã đi sâu
nghiên cứu những khó khăn tâm lý đối với hoạt động học tập nhưng đó mới
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ở học sinh lớp 1.

Theo nhà tâm lí học Mauricé Deberse, trong công trình khó khăn tâm lí
của trẻ đã chỉ ra rằng: Đứng trước ngưỡng cửa của lớp 1, trẻ em gặp rất nhiều
khó khăn tâm lí. Điều này đã ảnh hưởng đến sự thích ứng với hoạt động học
tập, làm cho trẻ sợ học, không muốn tới trường và kết quả học tập không cao.
Ballard và Clauchy (1985) đã chỉ ra những khó khăn tâm lí trong quá
trình học tập của từng SV châu Á khi học tại các trường đại học của Úc . Hai
tác giả đã khẳng định : SV đến từ các nên văn hoá khác nhau thường đặt ra các
mục đích khác nhau trong cách nghĩ và cách học của họ. Hầu hết SV nghĩ và
học theo cách mà họ đã được đào tạo ở trường phổ thông và đại học vì vậy họ
có thể đã thành công ở ngôi trường và đất nước của họ nhưng lại gặp thất bại ở
đất nước khác, môi trường học tập khác. Bằng kinh nghiệm và kiến thức khoa
học của mình các tác giả và một số sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu
sinh người Nhật, Singapo, Indonexia tháo gỡ một số khó khăn tâm lí trong quá
trình học tập và nghiên cứu tại trường ĐH của 2 ông. Các tác giả kết luận:
Sinh viên cần phải có một sự chuyển biến lớn giữa các nền văn hoá, kiến thức
khác nhau để thích ứng với môi trường học tập mới.
P.N Sullivan trong bài báo của mình đã tìm thấy: “ảnh hưởng của văn
hoá xã hội đến những kiểu tương tác trong lớp học” tác giả đã chỉ ra rằng:
“những sinh viên Việt Nam đã quen với kiểu học tương tác mà trong đó việc
7


nói “đan xen và đồng thời” là chuẩn mực khi sang học các lớp học ở Mỹ lại
“im lặng” là do khó khăn tâm lí. Ở Việt Nam, khi giáo viên đặt câu hỏi, một
sinh viên đứng lên trả lời, còn những SV khác nói lên những suy nghĩ của
mình một cách “đan xen và đồng thời” với SV đó. Vì vậy, SV này có thể liên
hợp các câu trả lời đúng. Còn ở Mỹ, khi giáo viên đặt câu hỏi, SV thường tự
trả lời, không trông chờ bất cứ một sự giúp đỡ nào từ bạn bè, do vậy khi học ở
Mỹ, SV Việt Nam có thể cảm thấy nhút nhát hoặc im lặng bởi không khí mà
trong đó có một người nói tại một thời điểm là cưỡng bức, SV Việt Nam

thường coi những thành viên khác trong lớp là một phần cơ thể của mình,
thiếu họ, SV ấy cảm thấy mất tự tin.
1.1.2 Ở Việt Nam:
Từ trước đến nay, vấn đề khó khăn tâm lí được các nhà tâm lí học, giáo
dục học nghiên cứu chưa nhiều, một số tác giả tiêu biểu như Trần Trọng Thuỷ,
Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Thị Nhất, Phạm Thị Đức đã có một số bài viết đề
cập đến vấn đề này.
- Nguyễn Khắc Viện trong tác phẩm “Nỗi khổ của con em chúng ta” đã
nêu ra những khó khăn tâm lí mà học sinh lớp 1 gặp phải đó là:
+ Trẻ phải giữ kỉ luật lớp học , phải ngồi yên cả buổi, cả tiết học, chịu
áp lực, gò bó
+ Trẻ phải học một chương trình nặng hơn so với tuổi mẫu giáo
+ Trẻ ít được vỗ về, âu yếm hơn trước và trẻ luôn chịu sự kiểm tra,
đánh giá của bố mẹ.
- Trong tác phẩm “6 tuổi vào lớp 1” Nhà giáo dục Nguyễn Thị Nhất đã
chỉ ra nhiều khó khăn tâm lí mà trẻ lớp 1 phải vượt qua. Tác giả cho rằng:
“Trong quá trình lớn lên của trẻ em có những bước ngoặt chuyển từ giai đoạn
này sang giai đoạn khác, trẻ em đòi hỏi phải thay đổi phương thức hoạt động

8


một cách triệt để”. Đồng thời tác giả cũng nêu ra một số khó khăn tâm lí cụ
thể mà trẻ lớp 1 phải vượt qua:
+ Trẻ phải rời bỏ cuộc sống thoải mái, đa dạng, vui nhộn, hoạt động tuỳ
hứng ở mẫu giáo để khép mình vào kỉ luật nghiêm khắc của lớp học phổ
thông.
+ Trẻ gặp những khó khăn trong quan hệ với thầy cô
+ Trẻ bị “vỡ mộng” khi vào lớp 1 vì sự hân hoan chờ đón những điều
hấp dẫn, được thay bằng những điều khác xa với tưởng tượng của trẻ. [34]

- Trong bài viết “Chuẩn bị tâm lí cho trẻ vào lớp 1” tác giả Phạm Thị
Đức cũng nêu ra một số khó khăn tâm lí của trẻ em khi đi học:
+ Trẻ chưa quen với chế độ học tập
+ Chưa có thói quen nắm các dữ kiện câu hỏi của bài tập, yêu cầu của
cô giáo trước khi bắt tay vào hành động
+ Nhút nhát, mất bình tĩnh trước hoàn cảnh mới.
+ Chưa có động cơ học tập đúng đắn
Năm 1995, trong bài “Những khó khăn tâm lí” trong quá trình giải toán
của học sinh tiểu học”, tác giả Nguyễn Thị Hải đã đề cập đến các nguyên nhân
khác nhau và hạn chế năng lực giải toán của học sinh tiểu học
- Tác giả Nguyễn Thanh Sơn trong bài viết “Những khó khăn của học
sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam” đã phân tích những
khó khăn của học sinh miền núi khi học tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam
và chỉ ra những khó khăn mà học sinh gặp phải là:
+ Hoàn cảnh giao tiếp của học sinh miền núi bị hạn chế
+ Vốn từ ngữ của học sinh miền núi còn thiếu và yếu
+ Năng lực cảm thụ một câu, một đoạn thơ yếu
Theo tác giả nguyên nhân đến tình trạng này là do tầm văn hoá, vốn
sống, vốn hiểu biết của SV còn hạn chế [37;22]. Do vậy để nâng cao cảm thụ
9


văn học ở SV thì trước hết phải nâng cao tầm văn hoá của SV lên, cần mở
rộng tầm hiểu biết cuộc sống, xã hội cho SV. Những hoạt động ngoại khoá,
tham quan du lịch, câu lạc bộ văn học … là những hoạt động rất bổ ích đối với
SV.
- Trong bài viết “Một số trở ngại tâm lí của trẻ khi vào học lớp 1” tác
giả Vũ Ngọc Hà đã chỉ ra một số trở ngại tâm lí mà trẻ thường gặp khi vào học
lớp 1 đó là:
+ Khó khăn trong việc thích nghi với môi trường mới

+ Khó khăn trong các mối quan hệ
+ Khó khăn khi phải đến trường [9]
- Tác giả Nguyễn Xuân Thức với các bài viết “Khó khăn tâm lí của trẻ
em đi học lớp 1”; “Thực trạng khó khăn tâm lí và biểu hiện của chúng ở học
sinh lớp 1 tiểu học” và “Các nguyên nhân khó khăn tâm lí của học sinh khi đi
học lớp 1” đã cho rằng: Trẻ em mẫu giáo lớn khi bước vào học lớp 1 gặp
những khó khăn tâm lí mà chính những khó khăn này làm cản trở sự thích ứng
với hoạt động học tập của các em, dẫn đến trẻ sợ học và kết quả học tập không
cao, trong đó tác giả đồng ý với quan điểm của A.V Petropxki cho rằng: khó
khăn tâm lí của trẻ khi đi học lớp 1 gồm 3 loại:
+ Thứ nhất: Những khó khăn có liên quan đến đặc điểm của chế độ học
tập mới mẻ
+ Thứ hai: Khó khăn trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp mới với thầy
cô và bạn bè, đặc biệt là giao tiếp với bạn bè.
+ Thứ ba: Trẻ mất dần khát vọng học tập ban đầu và chán học [44;32]
- Những năm gần đây có một số luận văn thạc sỹ đã quan tâm nghiên
cứu về khó khăn tâm lí trong hoạt động học tập của sinh viên như:
+ Năm 2001. Nguyễn Thị Nhân Ái với đề tài: “Tìm hiểu những khó
khăn tâm lí trong quá trình giải bài tập hình học của học sinh lớp 11 THPT”.
1
0


+ Năm 2002. Nguyễn Thị Thu Huyền với đề tài “Thực trạng khó khăn
tâm lí trong quá trình giải bài tập thực hành các thao tác kĩ thuật của sinh viên
trường CĐSP kĩ thuật Vinh”
+Năm 2004. Nguyễn Văn Diệp với đề tài “Những khó khăn tâm lí trong
quá trình học tập của sinh viên năm thứ nhất trường CĐSP Điện Biên.
+ Năm 2005 Đỗ Văn Bình với đề tài “Nghiên cứu khó khăn tâm lí trong
hoạt động học tập của sinh viên năm thứ nhất CĐSP Quảng Trị”

Nhìn chung vấn đề khó khăn tâm lí đã được các nhà tâm lí, giáo dục
trong và ngoài nước đề cập đến song còn rất ít hoặc chưa làm rõ được bản chất
của khó khăn tâm lí, đặc biệt là khó khăn tâm lí trong học tập với sinh viên
dân tộc thiểu số thì chưa có tác giả nào quan tâm nghiên cứu, Xuất phát từ
những lí do trên chúng tôi đã đi vào nghiên cứu và chọn đề tài này làm luận
văn tốt nghiệp của mình.
1.2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÓ KHĂN TÂM LÝ TRONG
HỌC TẬP CỦA SV NÓI CHUNG VÀ SV DTTS NĂM THỨ NHẤT NÓI
RIÊNG.
1.2.1 Khó khăn tâm lí

1.2.1.1 Khó khăn nói chung
Trong từ điển Anh - Việt [18;tr278] từ “difficulty” được dùng để chỉ sự
khó khăn, sự gay go, sự khắc nghiệt đòi hỏi nhiều nỗ lực để khắc phục..
Người ta hay dùng từ “shock” để chỉ sự khó khăn, sự sỗc, sự choáng
váng trước một môi trường mới
Theo từ điển Pháp - Việt thì từ “difficulté” chỉ sự khó khăn, sự việc gây
trở ngại. [8; tr335]
Theo từ điển tiếng Việt thông dụng [49;tr357] khó khăn có nghĩa là có
nhiều trở ngại làm mất nhiều công sức

1
1


Theo “từ điển láy tiếng Việt” [14; tr20] Khó khăn nghĩa là có nhiều trở
ngại, làm mất nhiều công sức.
Qua định nghĩa về khó khăn của các từ điển trên ta có thể hiểu khó khăn
là những trở ngại, rào cản, sự khắc nghiệt mà muốn vượt qua đòi hỏi phải có
sự nỗ lực.

1.2.1.2 Khó khăn tâm lý
Qua nghiên cứu và tổng hợp các tài liệu chúng tôi đưa ra định nghĩa về
khó khăn tâm lý như sau: Khó khăn tâm lí là toàn bộ những yếu tố tâm lí của
cá nhân, nảy sinh trong quá trình hoạt động, mà những yếu tố này tác động
tiêu cực, thường làm cản trở, ảnh hưởng xấu tới tiến trình và kết quả của hoạt
động đó.
Trong thực tiễn cuộc sống, bất kì một hoạt động nào của con người
cũng đều gặp phải những khó khăn, kể cả những hoạt động đã được coi là đã
trở thành kĩ năng, kĩ xảo. Những khó khăn gặp phải nếu con người ta không
biết cách khắc phục thì sẽ không vượt qua được hoặc nếu vượt qua thì hiệu
quả công việc sẽ là rất thấp. Đặc biệt là khi làm quen với hoạt động mới, môi
trường mới.
Những khó khăn, đặc biệt là những khó khăn tâm lí làm xuất hiện
những hiện tượng tiêu cực, gây sốc, choáng, mệt mỏi, nhìn chung là làm mất
phương hướng và những điều đó làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng và hiệu
quả công việc, đặc biệt là đối với lứa tuổi mới lớn còn làm ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự định hình về mặt nhân cách.
Nhìn chung khó khăn tâm lí do những yếu tố bên ngoài (khách quan) và
yếu tố bên trong (chủ quan) gây nên.
Những yếu tố bên ngoài được kể đến như là những điều kiện, phương
tiện hoạt động, môi trường gia đình, môi trường xã hội vv… những yếu tố
này ảnh hưởng gián tiếp đến quá trình học tập của con người.
1
2


Những yếu tố bên trong, chính là những yếu tố xuất phát từ bản thân nội
tại mỗi cá nhân khi tham gia vào hoạt động: Kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng,
kĩ xảo, hứng thú động cơ, những yếu tố này ảnh hưởng đến tiến trình và kết
quả hoạt động.

Xét theo phương diện, nguồn gốc xuất phát, các yếu tố bên trong có thể
phân làm 2 loại: yếu tố sinh học và yếu tố tâm lý
1.2.2 Hoạt động học tập của SVSP
1.2.2.1 Khái niệm hoạt động học tập
Hoạt động học tập là một dạng hoạt động trí tuệ, là một trong những
hình thức lao động chính của con người. Nó quyết định trực tiếp đến sự phát
triển, hoàn thiện nhân cách con người cũng như sự tiến bộ, phát triển của lịch
sử nhân loại
Cuộc sống con người là một chuỗi những hoạt động đan xen, kế tiếp
nhau, hoạt động học tập là một dạng hoạt động chính nhằm tiếp thu, lĩnh hội
những thành tựu tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử mà loài người đã tích luỹ
được trong suốt chiều dài lịch sử.
Trong quá trình học tập, lĩnh hội kinh nghiệm xã hội, tri thức của nhân
loại, cá nhân có thể tiến hành bằng nhiều cách học khác nhau. Thông thường
học có 2 dạng: học ngẫu nhiên và học có mục đích.
Học ngẫu nhiên: Đây là kiểu học được thực hiện một cách không chủ
định, nghĩa là người học lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm hình thành kĩ năng, kĩ
xảo thông qua việc thực hiện các hoạt động khác nhau trong đời sống hàng
ngày. Kết quả của hoạt động này là những tri thức thu được rời rạc, không hệ
thống chỉ là những tri thức ngẫu nhiên tiền khoa học, mục đích của việc học sẽ
không trùng với mục đích của hoạt động.. Người học chỉ lĩnh hội những gì
liên quan trực tiếp tới nhu cầu, hứng thú, các nhiệm vụ trước mắt, còn những
cái khác thì bỏ qua. Với cách học này chỉ mang lại cho con người những kiến
1
3


thức tiền khoa học , có tính chất ngẫu nhiên, rời rạc, không hệ thống chứ chưa
thực sự là những tri thức khoa học.
Trong thực tiễn, để tồn tại và phát triển cũng như để cải biến thế giới

hiện thực, con người không thể chỉ dừng lại ở những tri thức kinh nghiệm mà
đòi hỏi phải có hệ thức khoa học thực sự có hệ thống, phải hình thành những
năng lực thực tiễn mà cách học ngẫu nhiên dựa trên cơ sở hoạt động sống
hàng ngày không thể đáp ứng được. Do vậy con người phải tiến hành hoạt
động học tập dưới hình thức khác có hiệu quả hơn đó là học có mục đích.
Học có mục đích: Đây là một dạng hoạt động đặc thù của con người.
Người học chỉ có thể thực hiện được khi họ đã đạt được ở một trình độ nhất
định như có khả năng điều chỉnh được những hành động của mình bằng mục
đích đã được ý thức, khả năng này chỉ bắt đầu được hình thành vào lúc trẻ
khoảng 5 – 6 tuổi. cách học này giúp chủ thể lĩnh hội tri thức một cách có hệ
thống, đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Hoạt động học diễn ra theo
kế hoạch, chương trình đã được vạch ra từ trước phù hợp với tâm sinh lí lứa
tuổi.
Như vậy chỉ có thực hiện hoạt động học theo đúng nghĩa là hoạt động
có ý thức , có mục đích, có kế hoạch của con người thì mới có thể hình thành
ở người học những tri thức khoa học, hình thành hành vi tích cực, hình thành
cấu trúc tương ứng của hoạt động tâm lí và sự phát triển toàn diện nhân cách
Khi bàn về hoạt động học tập có rất nhiều quan niệm khác nhau tuỳ
theo góc độ nghiên cứu của các tác giả.
Theo L. B. Enconhin: Hoạt động học tập là việc lĩnh hội tri thức, là việc
xác định bởi cấu trúc và mức độ phát triển của hoạt động học tập[4; tr88]
A.N. Leonchiev, P. Ia Ganperin và N. Ph. Taludia coi học tập xuất phát
từ mục đích trực tiếp và từ nhiệm vụ giảng dạy được biểu hiện ở hình thức bên
ngoài và bên trong của hoạt động đó [27;89]
1
4


I. B Intensơn cho rằng: Hoạt động học tập là dạng hoạt động đặc biệt
của con người có mục đích nắm vững những tri thức, kĩ năng kĩ xảo và các

phương thức nhất định của hành vi. Nó bao gồm cả ý nghĩa nhận thức và thực
tiễn
A.V Petrovxki cho rằng: hoạt động học tập là vấn đề phẩm chất tư duy
và kết hợp các loại hoạt động trong việc thực hiện mục đích và nhiệm vụ
giảng dạy
Còn N.V Cudơmina khi bàn về hoạt động học tập của sinh viên cũng đã
coi hoạt động học tập là loại nhận thức cơ bản của sinh viên được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của cán bộ giảng dạy. Trong quá trình này việc nắm vững
nội dung cơ bản các thông tin mà thiếu nó thì không thể tiến hành được hoạt
động nghề nghiệp tương lai.
Như vậy các tác giả trên chưa có sự thống nhất hoàn toàn trong việc
quan niệm về hoạt động học tập, tuy nhiên họ đều xem xét hoạt động học tập
hoặc có liên quan đến nhận thức hoặc liên quan chỉ với tư duy hay nghề
nghiệp. Mỗi quan niệm thường nhấn mạnh một khía cạnh nào đó, nhưng các
tác giả cũng có điểm chung về hoạt động học tập là có mục đích tự giác, có ý
thức về động cơ và trong đó diễn ra quá trình nhận thức, đặc biệt là quá trình
tư duy.
Ở trong nước, trong những năm gần đây, nghiên cứu về hoạt động học
tập luôn được các nhà tâm lí học, giáo dục học quan tâm.
Theo tác giả Nguyễn Quang Uẩn “Hoạt động học tập” là hoạt động
được thực hiện theo phương thức nhà trường, do người học thực hiện dưới sự
hướng dẫn của người lớn (thầy giáo) nhằm lĩnh hội tri thức, khái niệm khoa
học, và hình thành những kĩ năng, kĩ xảo tương ứng, làm phát triển trí tuệ và
năng lực con người để giải quyết các nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra [46; tr148]

1
5


Theo tác giả Bùi Văn Huệ, “Hoạt động học tập là hoạt động có ý thức

nhằm thay đổi bản thân chủ thể hoạt động. Trong hoạt động này, các phương
thức chung của việc thực hiện những hành động nhận thức và thực tiễn trở
thành mục đích trung tâm của hoạt động [19 - 22]
Tác giả cũng cho rằng hoạt động học thực chất là hoạt động nhận thức
được tổ chức một cách chuyên biệt để chiếm lĩnh những khái niệm khoa học.
Nhà bác học nhận thức thế giới và phát hiện ra cái mới cho nhân loại. Học
sinh bằng hoạt động lĩnh hội những cái mà các nhà bác học đã khám phá ra
dưới sự tổ chức của giáo viên. Nhờ vậy học sinh cũng lặp lại đúng quy luật
như quá trình phát minh của các nhà bác học. Học sinh phát hiện ra cái mới
cho chính bản thân mình, từ đó mà họ hoàn thiện nhân cách cho bản thân.
Cùng quan điểm với Bùi Văn Huệ khi bàn về hoạt động học tập, tác giả
Lê Văn Hồng đã đưa ra khái niệm rất khoa học và được nhiều người thừa
nhận. Theo ông: “hoạt động học là hoạt động đặc thù của con người, đựơc
điều khiển bời mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo,
những phương thức hành vi và các dạng hoạt động nhất định” [17;tr 106]
Như vậy từ những quan điểm của các tác giả nêu trên cho phép chúng ta
hiều hoạt động học tập là hoạt động có mục đích của chủ thể nhằm lĩnh hội
những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo của loài người được kết tinh trong nền văn hoá
xã hội, biến nó thành vốn riêng của bản thân để từ đó vận dụng vào thực tiễn
phục vụ cho cuộc sống và hoàn thiện nhân cách của bản thân.
Hoạt động học tập có các đặc điểm cơ bản thể hiện bản chất của nó như
sau: 1/đối tượng của hoạt động học tập là những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo tương
ứng với nó; 2/hoạt động học tập là hoạt động hướng vào làm thay đổi và phát
triển tâm lí của chính chủ thể học tập; 3/Hoạt động học tập là hoạt động được
điều khiển bởi mục đích có ý thức nhằm tiếp thu những tri thức, kĩ năng, kĩ
xảo; 4/Hoạt động học tập không chỉ hướng vào việc tiếp thu những tri thức, kĩ
1
6



năng, kĩ xảo mới (cái) mà còn tiếp thu cả những tri thức của chính bản thân
hoạt động (cách).
1.2.2.2 Hoạt động học tập của sinh viên sư phạm
* Hoạt động học tập của sinh viên.
Hoạt động học tập trong các trường ĐH, CĐ là hoạt động chủ đạo của
người SV vì qua hoạt động này, các mục đích cơ bản của việc đào tạo người
chuyên gia được thực hiện. Hoạt động này có ảnh hưởng sâu sắc nhất đến sự
phát triển các quá trình và các thuộc tính tâm lý của SV, đến sự lĩnh hội tri
thức khoa học, các thông tin, các kĩ năng, kĩ xảo nghề nghiệp quan trọng của
họ.
Tác giả Nguyễn Thạc đã định nghĩa “HĐHT ở ĐH là một hoạt động tâm
lý được tổ chức một cách độc đáo của SV nhằm mục đích có ý thức là chuẩn
bị trở thành người chuyên gia phát triển toàn diện, sáng tạo và có trình độ
nghiệp vụ cao” [38;tr90]
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục ở bậc ĐH, CĐ, từ yêu cầu của xã hội
nên hoạt động học tập của người SV ngoài những đặc điểm chung của hoạt
động học tập còn có những đặc điểm nổi bật sau:
HĐHT mang tính chất nghề nghiệp, tức là vào ĐH,CĐ thì sự phân hoá
về chuyên môn, chuyên ngành hẹp đã sâu sắc hơn nhiều so với phổ thông.
Hoạt động học tập với tính chất chủ yếu là phục vụ cho các lĩnh vực nghề
nghiệp trong tương lai nên trong quá trình học tập SV phải hoàn thành nhiệm
vụ chủ yếu là tiếp thu có sáng tạo, có phê phán ở trình độ cao những hiểu biết ,
kĩ năng cơ bản của nghề nghiệp tương lai. Tức là họ phải phấn đấu nắm được
cơ sở, những vấn đề then chốt của nghề nghiệp mà họ cần đảm nhận sau khi
tốt nghiệp ĐH, CĐ với tư cách là một cán bộ khoa học, kĩ sư, chuyên viên, cử
nhận, thợ có trình độ cao. Do vậy, những tri thức họ lĩnh hội không phải là
những tri thức phổ thông cơ bản mà là hệ thống các tri thức khoa học cơ bản,
1
7



cơ sở, tri thức chuyên nghành, tri thức công cụ và các kĩ năng, kĩ xảo tương
ứng với chuyên ngành ấy.
Hoạt động học tập của SV mang tính chất nghiên cứu, bên cạnh việc
lĩnh hội cái mới đối với bản thân (giống như học sinh phổ thông), SV bắt đầu
tham gia tìm kiếm, phát hiện cái mới (cái chưa hề biết) đối với nhân loại một
cách vừa sức. Vì thế, nghiên cứu khoa học trở thành một bộ phận có mối quan
hệ hữu cơ với hoạt động học tập. Qua việc tập dượt nghiên cứu,

giúp hình

thành ở SV những phẩm chất, tác phong, phương pháp nghiên cứu, phương
pháp luận khoa học … của nhà nghiên cứu; góp phần giải quyết một cách
khoa học những vấn đề do thực tiễn xã hội, thực tiễn cuộc sống, thực tiễn nghề
nghiệp đặt ra. Từ tính chất nghiên cứu của hoạt động học tập đòi hỏi người SV
phải có thêm tính sáng tạo, tính thực tiễn, tính kiên nhẫn …vv. Điều này có
nghĩa là, trong quá trình học tập, dưới vai trò chủ đạo của giảng viên, SV
không được nắm máy móc những chân lí có sẵn mà họ có khả năng tiếp nhận
những chân lí đó với óc phê phán, có thể khẳng định, phủ định, hoài nghi khoa
học, lật ngược vấn đề, đào sâu, mở rộng hoặc tìm ra cái mới. Tính sáng tạo
của SV một mặt xuất phát từ kết quả của sự trưởng thành lứa tuổi, mặt khác do
yêu cầu của bản thân hoạt động học tập của SV trong thời đại mới. Bên cạnh
tính sáng tạo, người SV phải biết dự đoán chiều hướng phát triển và ứng dụng
chuyên môn vào thực tiễn như thế nào. Chú trọng đến việc đi sâu, nắm vững
các tri thức chuyên môn, tránh “í luận suông” hoặc “thực tiễn mù quáng” nên
hoạt động học tập phải thực hiện theo nguyên lí giáo dục “học phải đi đôi với
hành, lí luận gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn liền với sản xuất xã hội”
Hoạt động học tập của SV là hoạt động lao động trí óc căng thẳng. Điều
này do khối lượng tri thức cần tiếp thu ở ĐH, CĐ là tương đối lớn, tính chất
đa dạng cùng với mức độ phức tạp, trừu tượng của nội dung học tập. Cường

độ hoạt động trí tuệ của SV phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Nội dung, tính chất
1
8


phức tạp của các nhiệm vụ, trình độ tri thức, các kĩ năng kĩ xảo, năng lực,
động cơ và tâm thế chung của nhân cách người SV. Vì vậy, cần có sự động
viên có mục đích của giáo viên đối với SV trong quá trình giảng dạy và có sự
chỉ dẫn cần thiết nhưng không mang tính chất áp đặt một chiều đối với họ.
Tính độc lập trí tuệ cao trong học tập. Do tính chất của hoạt động học
tập ở ĐH, CĐ, do yêu cầu của thực tiễn cuộc sống đã đòi hỏi SV phải có sự
độc lập trí tuệ cao trong học tập. Họ phải tự ý thức về việc học tập của bản
thân. Đó là sự tự nhận thức được bản thân là chủ thể của hoạt động học tập, là
người tích cực, chủ động trong việc lĩnh hội, khám phá tri thức. Tính độc lập
trong hoạt động học tập của SV thể hiện trong suốt quá trình học tập, từ việc
giải quyết các nhiệm vụ học tập đến việc sưu tầm tài liệu tham khảo, lập kế
hoạch học tập phù hợp và thực hiện nó. Trong HĐHT ngoài lớp không bắt
buộc, SV có thể đi thư viện đọc các tài liệu liên quan, tự cập nhật thông tin
qua đài, báo, tivi, qua mạng internet… tự ý thức về học tập là vấn đề nhân lõi
trong nhân cách của sinh viên. Nó được thể hiện ở sự nhận thức về động cơ,
mục đích, phương pháp học tập. Điều này sẽ giúp SV học tập tốt hơn và tạo
được khả năng thích ứng nhanh với HĐHT ở ĐH, CĐ. Sở dĩ SV có khả năng
độc lập cao trong HĐHT là do kết quả phát triển tương đối hoàn thiện của các
chức năng tâm sinh lí ở lứa tuổi này. Sự trưởng thành về mặt trí lực, tư duy
lôgic, thế giới quan và nhân sinh quan là cơ sở quan trọng của tính độc lập nói
chung và trong học tập nói riêng của sinh viên. Trên đây là những đặc điểm cơ
bản trong HĐHT của SV, giúp chúng ta thấy được sự khác biệt với các cấp
học, bậc học khác. Nhưng đê hiều rõ hơn về hoạt động học tập ở ĐH, CĐ thì
không thể dừng lại ở đây mà phải tìm hiều ở một số khía cạnh khác.
Tính thực tiễn: SV học tập với tính năng động cao, phải biết dự đoán

chiều hướng phát triển và ứng dụng chuyên môn vào thực tiễn như thế nào.
Trong học tập SV cần chú trọng phương pháp bộ môn, chuyên nghành, cách
1
9


thức nghiên cứu khoa học, thực hành, thí nghiệm, phục vụ cho nghề nghiệp
tương lai. Quá trình học tập của SV trên cơ sở nắm vững hệ thống kiến thức lý
luận ở tầm cao, phát triển kĩ năng ứng dụng và năng lực sáng tạo trong một
chuyên môn hẹp. Tính thực tiễn trong học tập của SV còn cho thấy sự đáp ứng
về những đòi hỏi của xã hội với việc đào tạo đội ngũ chuyên gia trong các lĩnh
vực hoạt động của đời sống xã hội trong thời đại mới. Ngày nay ngoại ngữ và
tin học là những yêu cầu mang tính thời đại đối với SV, với tư cách là phương
tiện học tập, “chìa khoá” để mở ra kho tàng tri thức nhân loại và nghề nghiệp
trong tương lai
Căn cứ vào phương diện thời gian, không gian, HĐHT ở đại học được
chia thành ba hình thức sau
HĐHT trên lớp được quy định bởi mục đích, chương trình học tập,
được thể chế hoá bằng thời khoá biểu, giáo trình, tài liệu học tập. HĐHT được
tiến hành dưới sự hướng dẫn của giảng viên và bao gồm các giờ nghe giảng,
thảo luận, xemine, ôn tập …vv. Kết quả của hoạt động này do giảng viên đánh
giá.
HĐHT ngoài lớp bắt buộc thường được tiến hành sau những giờ học ở
trên lớp, là sự hoàn tất một cách lôgic các giờ học trên lớp, ví dụ: Thực hành,
thí nghiệm, thực địa, thực tế …vv. Hoạt động này có thể có hoặc không có sự
kiểm tra, giám sát của giảng viên nhưng kết quả sẽ được họ phân tích, đánh
giá.
HĐHT ngoài lớp không bắt buộc của SV có liên quan đến việc nghiên
cứu sâu và theo định hướng riêng, ví dụ: Hoạt động tự học, tự nghiên cứu …
vv. Hình thức này không có sự kiểm tra, giám sát của giảng viên. Nó đòi hỏi

sự nỗ lực ý chí, động cơ, tình cảm, niềm tin và nó mang tính chất sáng tạo,
tính độc lập rõ nét.

2
0


Sự phân chia thành các hình thức khác nhau của HĐHT ở ĐH, CĐ trên
chỉ mang tính chất tương đối. Trong thực tế, có những hoạt động không thể
phân biệt ranh giới, xét ở góc độ này nó ở hình thức này, ở góc độ khác nó lại
thuộc hình thức khác.
Một vấn đề nữa cần đề cập trong HĐHT của sinh viên là phương pháp
học tập. M. Klinin khi viết cho các sinh viên mới nhập học tại trường ĐH tổng
hợp Lêningrat đã nhấn mạnh: Nếu các bạn thu nhiều kiến thức đủ loại mà
người ta không cung cấp cho bạn phương pháp, không dạy bạn cách tự lực xử
lý các vấn đề thì trường đại học đã không hoàn thành nhiệm vụ của nó. Rõ
ràng, cách học ở ĐH của sinh viên sẽ khác với cách học của học sinh phổ
thông. Đây là một vấn đề cần hết sức quan tâm trong hoạt động học tập của
SV. Trong thực tiễn hiện nay, khi mà thời gian học thông thường là một hằng
số (cố định, bất biến trong khoảng từ 3 đến 6 năm), lượng tri thức ở ĐH, CĐ
là cái “vạn biến” (luôn tăng nhanh cả về lượng và chất). Vậy không thể học
hết được, giải pháp hữu hiệu nhất là phải trang bị cho người học những
phương pháp học tập đúng đắn, giúp cho họ có được những công cụ, phương
tiện để họ có thể làm việc ở bất kỳ môi trường nào. Không thể có cách học nào
bao trùm, thay thế hết thảy cho các cách học khác. Ở ĐH,CĐ tuỳ từng môn
học có một cách học đặc thù riêng. Do đó người giảng viên bên cạnh việc
truyền đạt tốt tri thức còn cần phải hướng dẫn cho sinh viên cách học môn học
đó. Mặt khác, ở ĐH, CĐ khối lượng tri thức dành cho SV tương đối lớn,
trong khi đó thời gian nghe giảng ở trên lớp lại không nhiều. Mâu thuẫn này
chỉ có thể giải quyết bằng việc tự học của SV. Do vậy, tự học và sử dụng thời

gian hợp lí được coi là một cách thức học tập hiệu quả của SV. Qua việc tự
học, sinh viên sẽ mở rộng được kiến thức của mình đồng thời họ dần tạo ra
cho mình một phương pháp làm việc độc lập, có hiệu quả. Tuy nhiện việc tự

2
1


học cũng phải đặt trong mối quan hệ với vai trò của người giảng viên (người
tổ chức, hướng dẫn, điều khiển, điều chỉnh).
Tóm lại, hoạt động học tập của sinh viên thực sự là một loại lao động trí
óc căng thẳng. Học tập của SV diễn ra trong môi trường chuyên nghiệp mang
tính chất đặc thù của nghề nghiệp tương lai như của ngành học. Nghĩa là học
tập của SV đồng thời phải đáp ứng yêu cầu cả về chuyên môn và nghiệp vụ ở
trình độ cao. Trong quá trình học tập, SV phải giải quyết các nhiệm vụ học tập
thông qua việc thực hiện hệ thống hành động học tập cũng như sự tự kiểm tra
và đánh giá các kết quả của chúng. Nội dung học tập bao gồm việc học thông
tin, học kĩ năng, thái độ, học cách chuyển giao học tập. Học tập nhằm các mục
đích cơ bản là thu thập thông tin, xây dựng phương pháp học tập, ghi nhớ có
chọn lọc tài liệu học tập, phát triển tư duy sáng tạo, trí tuệ của chủ thể và áp
dụng thông tin vào thực tế. Có thể nói rằng ở trường ĐH, CĐ mục tiêu học tập
của sinh viên là học cách học để làm tiền đề cho việc học tập suốt đời. Hiện
nay trong xu thế thời đại, SV học tập thực sự vì cuộc sống, vì nghề nghiệp
tương lai của bản thân. Do vậy SV luôn phải biết làm chủ quá trình học tập,
biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, biết kết hợp quá trình nhân
hoá với quá trình xã hội hoá tron học tập của bản thân nhằm đạt tới việc tự học
suốt đời.
* Hoạt động học tập của sinh viên sư phạm
Hoạt động học tập của SVSP về cơ bản diễn ra như hoạt động học tập
của các SV khác. Song do đặc thù của nghề nghiệp nên nó vẫn có một số đặc

trưng khác biệt, đó là: SVSP học tập để tích luỹ tri thức, hình thành kĩ năng, kĩ
xảo tương ứng theo chuyên ngành, chuyên môn sâu, đồng thời tích cực rèn
luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm với mục đích khi kết thúc học tập ở các
trường ĐH, CĐSP họ sẽ là lực lượng tri thức trẻ tham gia vào hoạt động giảng
dạy, giáo dục thế hệ trẻ đáp ứng nguồn nhân lực cho xã hội. Do vậy bên cạnh
2
2


những đặc điểm về hoạt động học tập của sinh viên nói chung, hoạt động học
tập của SVSP còn có một số đặc điểm nổi bật sau:
Việc học tập của SVSP không chỉ đáp ứng nhu cầu chuyên môn, chuyên
sâu mà còn phải đáp ứng yêu cầu nghiệp vụ, nghề nghiệp, hình thành và phát
triển nhân cách người giáo viên tương lai. Hoạt động học tập của SVSP bên
cạnh việc “học chữ” điều quan trọng cần chú ý là học làm thầy. Để trở thành
những thầy cô giáo tương lai dẫn dắt các thế hệ trẻ trở thành những công dân
có ích cho đất nước. Khi còn là SV họ phải được đào tạo một cách toàn diện
nhằm hoàn thiện nhân cách người thầy giáo với tư cách là “công cụ chủ thể”
trong hoạt động nghề nghiệp.
Nội dung học tập của SVSP bao gồm:
Khoa học cơ bản: Triết học, lịch sử Đảng, kinh tế - chính trị học nhằm
trang bị hệ thống kiến thức khoa học về kinh tế - chính trị - xã hội làm cơ sở
hình thành, củng cố thế giới quan khoa học cho những thầy cô giáo trong
tương lai.
Khoa học chuyên ngành: Toán học, vật lí, hoá học, văn học … trang bị
những kiến thức chuyên sâu của việc đào tạo chuyên gia và làm cơ sở để SV
tham gia nghiên cứu khoa học và tiếp tục học tập suốt đời.
Nghiệp vụ sư phạm: Tâm lí học, giáo dục học, phương pháp giảng dạy
bộ môn, giao tiếp sư phạm, thực tế, kiến tập, thực tập sư phạm nhằm trang bị
hệ thống kiến thức khoa học cần thiết làm cơ sở cho công tác dạy học và giáo

dục sau này, qua đó kết hợp “học đi đôi với hành” nhằm hình thành và phát
triển kĩ năng nghề nghiệp cho SV.
Ngoại ngữ, tin học: với tư cách là công cụ “chìa khoá” là phương tiện
học tập phục vụ việc nghiên cứu công tác giảng dạy và xu thế học tập suốt đời.
Thể dục: nhằm rèn luyện sức khoẻ. Việc học tập quân sự nhằm hình
thành phát triển tri thức, nghĩa vụ công dân, nâng cao tinh thần kỷ luật
2
3


Các môn học tự chọn: Nữ công, nhạc hoạ phát triển năng khiếu trình
độ thẩm mỹ.
Hoạt động học tập của SV sư phạm có đối tượng là hệ thống kiến thức,
kĩ năng, kĩ xảo và cách thức chiếm lĩnh chúng thuộc các lĩnh vực khoa học
chuyên ngành, nghiệp vụ sư phạm. Đó chính là động cơ thời sự của hoạt động
học tập chứa đựng khả năng đáp ứng nhu cầu học tập. Đối tượng của hoạt
động là động cơ thật sự của hoạt động. Dĩ nhiên nó có thể là vật chất hay tinh
thần, là có trong tri giác thực sự hay là chỉ có trong tưởng tượng, trong ý nghĩ.
Điều chủ yếu là đằng sau nó bao giờ cũng là nhu cầu, nó bao giờ cũng đáp
ứng một nhu cầu này hay một nhu cầu khác. Bản thân đối tượng của hoạt động
hiện ra được chủ thể cũng như là đối tượng đáp ứng một nhu cầu này hay nhu
cầu khác của chủ thể và “chính đối tượng của hoạt động không những sinh ra
đối tượng của hình tượng mà còn sinh ra đối tượng của nhu cầu”.
Trong quá trình học tập ở trường SP, SV phải xác định và hoàn thành
các mục đích cơ bản của việc đào tạo người thầy giáo tương lai. Thông qua
hoạt động học tập, SV trang bị cho mình hệ thống kiến thức khoa học đáp ứng
yêu cầu nghề dạy học. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, những yêu cầu đối với
việc học tập của SVSP là rất cao, không chỉ về chuyên ngành mà còn cả về
nghiệp vụ sư phạm, cách giao tiếp, ứng xử. Ngoài những yêu cầu về chuyên
môn, SVSP còn phải học các phương pháp sư phạm, cách thức tổ chức, thiết

kế, tiến hành các hoạt động sư phạm, sử dụng các phương tiện dạy học hiện
đại, đáp ứng yêu cầu của việc chuyển dịch kép “từ mô hình truyền thống sang
mô hình thông tin” đồng thời cố gắng từng bộ phận đi vào mô hình kiến thức.
Vì vậy các trường SP cần phải dạy “cách học mới cho SVSP, tạo cho họ khả
năng tự học”
Trong xu thế phát triển của thời đại, sự tác động mạnh mẽ của tiến trình
toàn cầu hoá, nhiều vấn đề mới đã được đặt ra cho các nền giáo dục của các
2
4


quốc gia nói chung, đối với hệ thống giáo dục của Việt Nam, đặc biệt là giáo
dục ĐH nói riêng. Chính vì vậy, hoạt động học tập của SVSP không nằm
ngoài sự tác động đó. Theo nhận định của các chuyên gia: trong thế kỷ XXI,
với ảnh hưởng sâu sắc của công nghệ thông tin, một mô hình giáo dục ĐH
mới sẽ được hình thành và phát triển. Trong đó việc học tập trên mạng “không
gian điều khiển” nắm giữ vai trò chính trong quá trình chuyển giao kiến thức
có hiệu quả. Vì vậy vai trò của người thầy giáo cũng sẽ thay đổi từ một giáo
viên trên bục giảng trở thành “người thầy trên mạng”. Không gian và thời gian
giáo dục sẽ không còn bị bó hẹp như trước đây mà sẽ được mở rộng và có thể
học tập suốt đời nếu chủ thể có nhu cầu, để đáp ứng yêu cầu mới của thời đại,
học phải có trình độ chuyên môn cao, có khả năng phân tích và phê phán, sáng
tạo và thực hiện các nghĩa vụ xã hội. SVSP trong quá trình học tập phải học
cách dạy học nói chung và dạy bộ môn nói riêng thông qua việc học tập lí luận
dạy học kết hợp với việc học tập phương pháp dạy học mỗi bộ môn cụ thể.
Học cách chuyển tải. tổ chức cho người học lĩnh hội kiến thức một cách dễ
dàng, mạch lạc, dễ hiểu và hấp dẫn. Học cách sử dụng các phương tiện dạy
học hiện đại. SVSP không chỉ học cách dạy chữ (dạy học) mà còn phải biết
cách dạy người (giáo dục) nghĩa là học hướng vào việc hình thành và phát
triển năng lực đối với bản thân. Đồng thời để có thể thực hiện tốt dạy học và

giáo dục sau này, mỗi SVSP phải tích cực học tập, rèn luyện khả năng giao
tiếp sư phạm, trau dồi vốn ngôn ngữ, khả năng diễn đạt trước học sinh.
Có thể nói một cách khái quát rằng, ở trường ĐH, CĐ mục tiêu học của
SVSP là học cách học, làm tiền đề cho việc học suốt đời của bản thân, đồng
thời làm chuyên gia dạy về cách học cho HS sau khi tốt nghiệp trở thành giáo
viên. Trong xu thế thời đại, SVSP ngày nay phải thực sự làm chủ quá trình học
tập, biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo, biết kết hợp quá trình cá
nhân hoá với quá trình xã hội hoá trong học tập của bản thân nhằm đạt tới việc
2
5


×