Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Một số biện pháp phát huy vai trò nhóm trưởng nhằm nâng cao chất lượng trong hoạt động giáo dục thể chất ở trường Tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.17 KB, 15 trang )

Đề tài
“Một số biện pháp phát huy vai trò nhóm trưởng nhằm nâng cao chất
lượng trong hoạt động giáo dục thể chất ở Trường Tiểu học Ninh Hà.”
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đảng và nhà nước ta xem đổi mới giáo dục là nhiệm vụ hàng đầu. Thể hiện
trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị
quyết số 29-NQ/TW) với nội dung Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu của đổi mới là: Tạo chuyển biến căn
bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt
hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo
dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả
năng sáng tạo của mỗi cá nhân. Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực
nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý,
gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng;
chuẩn hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo.
Trong những năm gần đây việc đưa Mô hình trường học mới tại Việt Nam
(VNEN) là một phương thức sư phạm mới, mang tính chuyển đổi từ phương
pháp dạy học truyền thống sang phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm
trung tâm.
Học sinh: Tự giác, tự quản; Tự học, tự tin, tự trọng,..
Đối với Mô hình trường học mới hoạt động học của học sinh là cơ bản, hoạt
động quy mô lớp thành hoạt động nhóm. Vai trò của người giáo viên chi là
người tổ chức lớp học; Quan sát hoạt động của mỗi cá nhân, của mỗi nhóm; Hỗ
trợ học sinh khi cần thiết; Chốt lại những điều cơ bản nhất của bài học; Đánh giá
quá trình và kết quả của học sinh.
Nhóm trưởng là người thay mặt giáo viên điều hành các thành viên trong
nhóm. Nhóm trưởng là linh hồn của nhóm học tập, là người điều hành, giám sát
hoạt động học của mỗi thành viên trong nhóm. Nhóm trưởng là người hổ trợ tích


cực giáo viên trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động và báo cáo với giáo
viên kết quả học tập hay những vướng mắc trong học tập của nhóm cần hổ trợ.
Giáo dục thể chất trong nhà trường là một bộ phận quan trọng trong giáo dục
con người toàn diện. Nó được tiến hành phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa
tuổi, giới tính của học sinh. Ba nhiệm vụ của Giáo dục thể chất (sức khoẻ, giáo
dục, giáo dưỡng) được thực hiện trong tất cả các giờ thể dục. Tuy nhiên, trong
giờ thể dục nhiệm vụ giáo dưỡng đóng vai trò chủ đạo. Nhiệm vụ này cần phải
được cụ thể hoá để đảm bảo tính hệ thống về kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo vận
động qua mỗi giờ học.
1


Mục tiêu công tác Giáo dục thể chất là góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo
đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lí kinh tế, văn hóa xã hội, phát triển hài
hoà, đáp ứng yêu cầu chuyên môn nghề nghiệp, có thể chất cường tráng. Đó là
phương hướng chiến lược Giáo dục thể chất trong trường học, trong đó đòi hỏi
các mặt giáo dục phải hướng tới phát triển toàn diện: Đức – Trí – Thể - Mỹ để
họ trở thành những con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa.
Trong hoạt động giáo dục thể chất mọi hoạt động đều tổ chức ngoài sân với
khoảng không rộng thì đòi hỏi người giáo viên rất cần những nhóm trưởng để
điều hành hoạt động học tập của học sinh. Tuy nhiên đội ngũ này chưa thể hiện
hết vai trò của mình dẫn đến chất lượng giờ học chưa cao. Qua thực tế tôi thấy
việc giáo viên chưa phát huy hết vai trò nhóm trưởng, chưa thật sự quan tâm chú
ý đến các nhóm trưởng của các nhóm trong lớp. Vậy người giáo viên phải làm
sao? Phải làm như thế nào? Phải dùng những biện pháp nào để phát huy hết vai
trò các nhóm trưởng để nâng cao chất lượng hoạt động giáo dục thể chất.
Xuất phát từ điều đó tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến kinh nghiệm: “Một số
biện pháp phát huy vai trò nhóm trưởng nhằm nâng cao chất lượng trong hoạt
động giáo dục thể chất ở trường Tiểu học Ninh Hà”
1. Mục đích đề tài:

a) Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát huy vai trò nhóm trưởng nhằm nâng cao chất lượng trong
hoạt động giáo dục thể chất.
b) Cơ sở nghiên cứu
Đề tài được viết dựa trên cở sở lý luận về đổi mới giáo dục, đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực lấy học sinh làm trung tâm, theo mô hình
trường học mới.
Dựa trên việc phat huy vai trò các nhóm trưởng của giáo viên ở Trường Tiểu
học Ninh Hà.
c) Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu lý thuyết về việc phát huy vai trò của nhóm trưởng.
Đưa ra biện pháp phát huy vai trò các nhóm trưởng nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục.
2. Phương pháp
a) Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp tìm kiếm, xử lý thông tin.
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp luyện tập
2


b) Giới hạn của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp phát huy vai trò các nhóm trưởng ở
khối lớp 2 và khối lớp 5 của trường Tiểu học Ninh Hà.
II. THỰC TRẠNG
1. Thuận lợi
Học sinh rất thích học môn thể dục, thích làm nhóm trưởng để thể hiện
mình.

Nhà trường tạo mọi điều kiện cho giáo viên về cơ sở vật chất trang thiết bị
dạy học.
Bản thân là giáo viên được đào tạo chuyên ngành giáo dục thể chất nên vận
dụng được các phương pháp tích cực trong hoạt động giáo dục thể chất.
Phụ huynh chăm lo đến việc học của con em mình.
2. Khó khăn
Học sinh tiểu học các em còn nhỏ hiếu động việc tập trung chú ý chưa cao
và không nghe theo sự điều khiển, tổ chức của nhóm trưởng trong việc tập
luyện.
Một số nhóm trưởng còn rụt rè e ngại khi tổ chức điều hành nhóm, chưa
phát huy hết vai trò của mình.
Học sinh nhóm trưởng ở lớp nhỏ các em còn hạn chế trong ngôn ngữ, trong
việc hiểu các câu lệnh lời chỉ dẫn của giáo viên. Cũng như đưa ra các lệnh để
điều hành các thành viên nhóm.
Một số giáo viên chưa nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của nhóm
trưởng đối với việc điều hành, tổ chức nhóm hoạt động, giáo viên còn lung
túng trong việc sử dụng các nhóm trưởng.
Tài liệu hướng dẫn dành cho học sinh không có.
Theo mô hình trường học mới đòi hỏi khả năng tự học của học sinh rất
cao, các vấn đề học tập được giải quyết theo nhóm học tập vai trò của
nhóm trưởng là rất quan trọng. Nhưng không phải giáo viên nào cũng biết
phát huy hết vai trò của nhóm trưởng, đặc biệt đối với các em học sinh tiểu
học thì càng khó khăn hơn nhiều.
Ở trường Tiểu học Ninh Hà nhìn chung các em nhóm trưởng thực hiện được một
số yêu cầu nhiệm vụ của mình trong các giờ học trong lớp. Đa phần các em còn
nhiều lúng túng, còn bị động chưa thực hiện hết vai trò của mình ở các tiết hoạt
động giáo dục thể chất làm cho các nhóm làm việc chậm trể, không đạt hiệu quả
giờ học. Nhất là các nhóm trưởng ở các lớp nhỏ 2,3
Chất lượng giáo dục thể chất thống kê Giữa Học Kì I
ST

T

Khối lớp

Tổng số
học sinh

Hoàn
thành tốt

Tỉ lệ %

Hoàn
thành

Tỉ lệ %
3


1

2

90

30

41,11

60


58,89

2

5

119

40

33,61

79

66,39

B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học:
1.1. Các em tin tưởng người lớn tuyệt đối:
Các em đã dần dần không còn muốn loanh quanh luẩn quẩn ở xó nhà góc
bếp, nhưng bắt đầu thích làm quen nhiều bạn nhỏ và nhiều người lớn khác. Vì
vậy, nếu các em nhận ra nơi các người lớn như cô chú, thầy cô giáo, anh chị...
một sự bảo bọc chở che, nhất là sự quan tâm, cảm thông thật sự, các em sẽ dần
dần quấn quít, tin cậy đến mức tuyệt đối.
Hãy tránh đừng bao giờ đùa chơi với các em bằng cách xí gạt để các em mắc lừa
cho vui. Cũng đừng bao giờ tạo cho các em cảm tưởng bị người lớn áp đặt, ăn
hiếp, lấn lướt, sai bảo vặt và khống chế các em bằng luật lệ mà chính người lớn
chưa chắc đã tuân thủ đàng hoàng.

1.2. Các em ôm ấm nhiều giấc mơ:
Các em rất giàu trí tưởng tượng, nhiều khi quá tin vào những điều
huyền hoặc, những truyện cổ tích thần tiên, những truyện thần thoại dân gian
được kể trong các lớp học hoặc trước khi đi ngủ buổi tối. Từ đó các em tự thêu
dệt những mơ mộng rất dễ thương đến bất ngờ.
Sau này, lớn hơn một chút, tính thần thoại chuyển dần sang khía cạnh thần tượng
hóa một cách đơn giản. Khi các em được tiếp xúc thân tình với một người lớn
nào đó có nhân cách cao thượng, các em sẽ nhanh chóng hình thành các ước mơ
sẽ có được nhân cách ấy (ví dụ: "Lớn lên em sẽ làm cô giáo như cô..."; "Mai mốt
con sẽ đi tu như cha..."; "Em sẽ là một Ronaldo của Việt Nam..." ).
Do đó, nếu người lớn biết khéo nương theo trí tưởng tượng và những mơ mộng
hồn nhiên trong sáng của các em, có thể hướng dẫn các em dần dần gạn lọc đi
những nét viễn vông huyền hoặc để chuyển những giá trị tốt đẹp hiện thực nơi
nhân cách các em.
Bước đầu thấu hiểu được những nhu cầu khát vọng ngây thơ của các em rồi, vẫn
chưa đủ, bởi tính khí các em luôn bị đột biến, thay đổi hoặc bị tổn thương. Do
vậy, ngoài việc hòa mình cùng chơi, cùng trò chuyện với các em, người lớn còn
cần khéo léo tạo sức thu hút lâu dài bền bỉ, bằng cách lồng các hoạt động tập thể
vào các trò chơi (học và làm mà là chơi, chơi mà lại là học và làm một cách hữu
ích ).
Đồng thời, cũng đừng quên tiếp xúc riêng từng em, giúp các em tập nỗ lực nho
nhỏ để vươn lên trong từng khát vọng, từng ước mơ hồn nhiên của chính mình,
mỗi ngày một chút theo phương pháp giáo dục tiệm tiến. Ở điểm này, người
4


sống với các em phải là một người bạn trẻ trung, tâm huyết, đáng tin cậy trong
mọi mặt sinh hoạt vui nhộn cũng như tâm linh sâu lắng của các em.
1.3. Các em rất hiếu động:
Năng lực ở độ tuổi đang tăng trưởng nơi các em luôn dồi dào. Bên cạnh

đó, các em cũng đang trải qua một cơn khủng hoảng về trí tuệ, còn gọi là khủng
hoảng về ý thức cử động ( idée motrice ).
Về mặt sinh hoạt thể lý, các em, kể cả các bé gái, cần phải luôn tay luôn
chân, chạy nhảy, leo trèo, nô đùa và hò hét thỏa thích, hoặc im lặng ngồi táy
máy, hì hục nghịch phá một trò nào đó, hay làm một việc gì đó vừa sức mình.
Riêng bên nam, các em rất thích các trò chơi đối kháng, mang tính giao chiến và
đua tranh giữa hai phe (ví dụ: kéo co, cướp cờ, đánh trận giả...). Các em sẵn
sàng chơi hăng say hết mình, bởi đối với các em, chuyện thắng thua rất là quan
trọng, nó nhằm mục đích tự khẳng định cá tính cho dù các em chưa đủ lý luận
cao xa gì lắm về bản thân. Với các em nữ, vấn đề cũng tương tự như khi các em
đặc biệt thích các trò chơi tuy nhẹ nhàng hơn con trai, nhưng cũng là chuyện
luân phiên thi đua giành phần thắng cho mình (ví dụ: nhảy cò cò, đánh chuyền,
nhảy lèo, chơi ô ăn quan...).
Trong thực tế, người lớn đang bận việc, rất ghét sự ồn ào náo động, lại
cho rằng các em đang chơi những trò quá hiếu động, có hại về sức vóc lẫn tâm
lý, nên thường la rầy ngăn cấm các em. Người lớn không ngờ đã đẩy các em
sớm rơi vào tình trạng dồn nén, có thể tạo ra những tình cảm rối loạn, rất có hại
về lâu về dài.
Về sinh hoạt học tập, các em cũng rất dễ hào hứng để cho cuốn theo các ý
tưởng, các kiến thức lý thú mới lạ, để không ngừng đặt ra các câu hỏi tò mò thắc
mắc. Một khi nơi các em lý trí bắt đầu hoạt động âm thầm, các ý tưởng như thế
dần dần sáng tỏ ra, cho dù các em chưa thể lý luận suy diễn theo dạng đặt vấn đề
"vì vậy", "cho nên", "do đó" như người lớn... Nhưng mặt khác, các em đã không
còn thỏa mãn với dạng câu hỏi "tại sao?" mà đã chuyển dần sang câu hỏi khó
hơn nhiều: "làm thế nào ?" tức là có khuynh hướng khách quan hơn, sâu xa hơn.
Dù vậy, các em chưa thể tập trung tư tưởng lâu để kịp phân tích vấn đề và
quan sát một
cách kiên nhẫn, các em cũng chưa thể tự mình biết cách học hỏi sao cho đúng
mức nếu không được người lớn hướng dẫn dưới dạng "học mà chơi" đầy hấp
dẫn.

1.4. Các em có thể trung tín đến cùng:
Khi gặp một hoàn cảnh đặc biệt hoặc trong một trường hợp bất ngờ, nếu
các em được người lớn tin cậy trao phó một trách nhiệm quan trọng nào đó, với
lời giải thích kỹ lưỡng và căn dặn chi tiết, các em sẽ hết sức ý thức về công việc,
cảm thấy vinh dự và hãnh diện để cố gắng chu toàn hơn cả mong đợi của người
lớn. Ấn tượng sâu sắc này sẽ theo các em suốt cuộc đời, hình thành một nhân
cách khó gì có thể làm biến dạng.
5


Tại trường học, có nơi, nếu biết huấn luyện tinh thần và kỹ thuật tới nơi
tới chốn, người lớn có thể tin tưởng giao phó cho các em ở các lớp tiểu học đảm
nhận một số vai trò nào đó, nhóm trưởng, lấy dụng cụ v.v... mà không sợ gặp sự
cố trục trặc, bởi các em ý thức khá chững chạc về tính cách quan trọng và trang
nghiêm của công việc cùng với niềm hãnh diện được đại diện cho toàn trường.
1.5.Hoạt động của học sinh tiểu học
- Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến
tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt
động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt động học
tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như:
+ Hoạt động vui chơi: Trẻ thay đổi đối tượng vui chơi từ chơi với đồ vật
sang các trò chơi vận động.
+ Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản thân
và gia đình như tắm giặt, nấu cơm, quét dọn nhà cửa,...Ngoài ra, trẻ còn còn
tham gia lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng hoa,...
+ Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của
trường, của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,...
1.6.Những thay đổi kèm theo
- Trong gia đình: các em luôn cố gắng là một thành viên tích cực, có thể
tham gia các công việc trong gia đình. Điều này được thể hiện rõ nhất trong các

gia đình neo đơn, hoàn cảnh, các vùng kinh tế đặc biệt khó khăn,...các em phải
tham gia lao động sản xuất cùng gia đình từ rất nhỏ.
- Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các môn học đều
thay đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương pháp,
hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý thức học
tập tốt.
- Ngoài xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội mang
tính tập thể (đôi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt là các em
muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết đến mình.
1.7.Tư duy
Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan
hành động.
Các phẩm chất tư duy chuyển dần từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng khái
quát
Khả năng khái quát hóa phát triển dần theo lứa tuổi, lớp 4, 5 bắt đầu biết khái
quát hóa lý luận. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ
đẳng ở phần đông học sinh tiểu học.
1.8. Tưởng tượng
6


Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong phú hơn so với trẻ
mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh nghiệm ngày càng dầy dạn. Tuy
nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang một số đặc điểm nổi bật sau:
Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa bền vững và dễ
thay đổi.
Ở cuối tuổi tiểu học, tưởng tượng tái tạo đã bắt đầu hoàn thiện, từ những
hình ảnh cũ trẻ đã tái tạo ra những hình ảnh mới. Tưởng tượng sáng tạo tương
đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm
thơ, làm văn, vẽ tranh,... Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này

bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện
tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.
1.9. Chú ý và sự phát triển nhận thức của học sinh tiểu học
Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khả năng kiểm
soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú không chủ định chiếm
ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến những môn
học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều tranh ảnh,trò
chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,...Sự tập trung chú ý của trẻ còn yếu và
thiếu tính bền vững, chưa thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình
học tập.
Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ năng tổ chức, điều chỉnh chú ý
của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ
lực về ý chí trong hoạt động học tập như học thuộc một bài thơ, một công thức
toán hay một bài hát dài,...Trong sự chú ý của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn
của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng được khoảng thời gian cho phép để làm
một việc nào đó và cố gắng hoàn thành công việc trong khoảng thời gian quy
định.
Tuổi tiểu học là tuổi của sự phát triển hồn nhiên bằng phương thức lĩnh
hội. Cùng với việc lĩnh hội, tiếp thu một hệ thống tri thức về các môn học, trẻ
em học cách học, học kĩ năng sống trong môi trường trường học và môi trường
xã hội. Cùng với sự ảnh hưởng khá lớn của môi trường giáo dục gia đình và
quan hệ bạn bè cùng tuổi, cùng lớp và trường học, học sinh tiểu học lĩnh hội các
chuẩn mực quy tắc đạo đức của hành vi. Sự lĩnh hội trên tạo ra những biến đổi
cơ bản trong sự phát triển tâm lí của học sinh tiểu học. Chúng không chỉ đảm
bảo cho các em thích ứng với cuộc sống nhà trường và hoạt động học, mà còn
chuẩn bị cho các em những bước ngoặt quan trọng trong cuộc sống ở tuổi thiếu
niên- lứa tuổi có xu thế vươn lên làm người lớn. Về việc này, N.X.Leytex đã
khắc họa: “ Tuổi tiểu học là thời kì của sự nhập tâm và tích lũy tri thức, thời kì
mà sự lĩnh hội chiếm ưu thế. Chức năng trên được thực hiện thắng lợi nhờ các
đặc điểm đặc trưng của lứa tuổi này – sự tuân thủ tuyệt đối vào những người có

uy tín với các em (đặc biệt là thầy, cô giáo), sự mẫn cảm, sự lưu tâm, đặc biệt là
thái độ vui chơi ngây thơ đối với các đối tượng mà các em được tiếp xúc.
1.10. Sự phát triển nhân cách của học sinh tiểu học
7


Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong môi trường
nhà trường còn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sôi nổi, mạnh
dạn...Sau 5 năm học, "tính cách học đường" mới dần ổn định và bền vững ở trẻ.
Nhìn chung việc hình thành nhân cách của học sinh tiểu học mang những
đặc điểm cơ bản sau: Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn
nhiên, trong quá trình phát triển trẻ luôn bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình
cảm, ý nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân
cách của các em lúc này còn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các
em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc lộ
và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em còn mang tính đang hình thành,
việc hình thành nhân cách không thể diễn ra một sớm một chiều, với học sinh
tiểu học còn đang trong quá trình phát triển toàn diện về mọi mặt vì thế mà nhân
cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển của mình.
2. Phương pháp dạy học tích cực
2.1.Khái niệm:
Phương pháp dạy học tích cực ( PPDH tích cực ) là một thuật ngữ rút
gọn , được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục , dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực , chủ động , sáng tạo của người học.
“Tích cực” trong PPDH – tích cực được dùng với tức là hoạt động , chủ
động , trái nghĩa với không hoạt động , thụ động chứ không dùng theo nghĩa trái
với tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa , tích cực hóa hoạt động nhận thức
của người học , tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ
không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy , tuy nhiên để dạy

học theo phương pháp tích cực thì thầy giáo phải nỗ lực nhiều so với dạy theo
phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học
, nhưng trái lại thói thường học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của
thầy. Chẳng hạn , có trường hợp học sinh đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động
nhưng thầy giáo chưa đáp ứng được , hoặc có trường hợp thầy giáo tích cực vận
dụng PPDH tích cực nhưng không Thành tựu vì học sinh chưa thích nghi , vẫn
quen với lối học tập thụ động. Vì thế , thầy giáo phải bền chí dùng cách dạy hoạt
động để dần dần xây dựng cho học sinh phương pháp học tập chủ động một cách
vừa sức , từ thấp lên cao. Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp
tác cả của thầy và trò , sự phối hợp ăn nhịp hoạt động dạy với hoạt động học thì
mới Thành tựu. Như vậy , việc dùng thuật ngữ “Dạy và học tích cực” để phân
biệt với “Dạy và học thụ động”.
2.2. Dạy học thông qua các hoạt động của học sinh
Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp HS
tự khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri
thức được sắp đặt sẵn. Theo tinh thần này, giáo viên không cung cấp, áp đặt kiến
thức có sẵn mà là người tổ chức và chỉ đạo HS tiến hành các hoạt động học tập
8


như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức
đã biết vào các tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn,...
2.3. Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học
Chú trọng rèn luyện cho HS những tri thức phương pháp để họ biết cách
đọc sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức
đã có, biết cách suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới,... Các tri thức
phương pháp thường là những quy tắc, quy trình, phương thức hành động, tuy
nhiên cũng cần coi trọng cả các phương pháp có tính chất dự đoán, giả định (ví
dụ: phương pháp giải bài tập vật lí, các bước cân bằng phương trình phản ứng

hóa học, phương pháp giải bài tập toán học,...). Cần rèn luyện cho HS các thao
tác tư duy như phân tích, tổng hợp, đặc biệt hoá, khái quát hoá, tưởng tượng,
quy lạ về quen... để dần hình thành và phát triển tiềm năng sáng tạo của họ.
` 2.4. Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác
Tăng cường phối hợp học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương
châm “tạo điều kiện cho HS nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều
hơn”. Điều đó có nghĩa, mỗi HS vừa cố gắng tự lực một cách độc lập, vừa hợp
tác chặt chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới.
Lớp học trở thành môi trường giao tiếp thầy – trò và trò – trò nhằm vận dụng sự
hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các
nhiệm vụ học tập chung.
2.5. Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến
trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Chú trọng
phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của HS với nhiều hình thức
như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có
thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.
3. Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam là một Dự án về sư
phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến,
hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt
Nam.
Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 19952000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo nguyên
tắc lấy học sinh làm trung tâm. Mô hình này vừa kế thừa những mặt tích cực của
mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu đào
tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy – học, cách đánh
giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho dạy – học…
Điểm nổi bật của mô hình này là đổi mới về các hoạt động sư phạm, một
trong những hoạt động đó là đổi mới về cách thức tổ chức lớp học. Theo mô
hình của trường học mới, quản lí lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”, các
“ban” trong lớp, do học sinh tự nguyện xung phong và được các bạn tín nhiệm.

Sự thành lập cũng như hiệu quả hoạt động của “Hội đồng tự quản học sinh”, các
9


“ban” rất cần sự tư vấn, khích lệ, giám sát của giáo viên, phụ huynh, sự tích cực,
trách nhiệm của học sinh. “Hội đồng tự quản học sinh” là một biện pháp giúp
học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập, giáo dục. Học sinh có
điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi trường giáo dục, được rèn các
kĩ năng lãnh đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác trong các hoạt động.
Đối với Mô hình trường học mới hoạt động học của học sinh là cơ bản,
hoạt động quy mô lớp thành hoạt động nhóm. Vai trò của người giáo viên chỉ là
người tổ chức lớp học; Quan sát hoạt động của mỗi cá nhân, của mỗi nhóm; Hỗ
trợ học sinh khi cần thiết; Chốt lại những điều cơ bản nhất của bài học; Đánh giá
quá trình và kết quả của học sinh.
Nhóm trưởng là người thay mặt giáo viên điều hành các thành viên trong
nhóm. Nhóm trưởng là linh hồn của nhóm học tập, là người điều hành, giám sát
hoạt động học của mỗi thành viên trong nhóm. Nhóm trưởng là người hổ trợ tích
cực giáo viên trong việc tổ chức, điều hành các hoạt động và báo cáo với giáo
viên kết quả học tập hay những vướng mắc trong học tập của nhóm cần hổ trợ.
II. CÁC GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1.Công tác tổ chức phân chia nhóm.
Phân chia lớp thành các nhóm mỗi nhóm 1 nhóm trưởng và một nhóm phó
điều hành nhóm. Nhóm trưởng điều hành mọi hoạt động của nhóm trong các tiết
học. Các nhóm phó giúp đỡ cho các nhóm trưởng khi cần thiết.
Các cách phân chia nhóm:
- Các nhóm gồm những người tự nguyện, chung mối quan tâm, sở thích.
- Phân chia ngẫu nhiên
- Nhóm có học sinh khá giỏi để hỗ trợ học sinh yếu kém
- Phân chia học sinh nam và nữ
Có rất nhiều cách để phân chia nhóm tùy vào những ưu điểm, nhược điểm

của các cách chia nhóm mà giáo viên thực hiện cho thích hợp và hiệu quả trong
giảng dạy.
2. Lựa chon và bồi dưỡng nhóm trưởng:
2.1.Lựa chọn nhóm trưởng
2.1.1Yêu cầu và kỹ năng của nhóm trưởng:
Giáo viên điều hành để các nhóm hoạt động có hiệu quả là công việc
không dễ dàng. Đây có thể coi là một trong những thách thức đối với giáo viên.
Để các em tham gia hoạt động nhóm có hiệu quả, trước hết mỗi học sinh phải
hiểu rõ những gì mình phải làm, bằng cách giao cho các em một số vai trò đơn
giản trong nhóm cùng những công việc cụ thể kèm theo. Trưởng nhóm có vai trò
rất quan trọng trong các hoạt động của nhóm, được coi như “cô giáo thầy giáo
nhỏ”. Trưởng nhóm giúp giáo viên quản lý hoạt động của nhóm, phân biệt và
phân vai cho các thành viên trong nhóm, tổ chức, thảo luận, giúp đỡ các thành
10


viên cùng nhau làm việc, đọc nhiệm vụ, đưa ra các hướng dẫn, giải thích, làm
cầu nối giữa nhóm với giáo viên toàn lớp... Nhóm trưởng sã là người đại diện
cho nhóm trình bày trước lớp các ý kiến, quan điểm của nhóm mình.
Trưởng nhóm cũng là một học sinh đang cùng học tập với các bạn, cũng
phải lo hoàn thành học tập một cách xuất sắc. Do đó, giáo viên cần hướng dẫn,
tập dợt và hỗ trợ cho trưởng nhóm hết sức cụ thể. Có như vậy trưởng nhóm mới
điều hành, triển khai các hoạt động của nhóm thuận lợi và đạt hiệu quả.
Yêu cầu đối với nhóm trưởng:
Luôn có ý thức hoàn thành nhiệm vụ học tập và gương mẫu trong các hoạt động
của lớp của nhóm.
Có khả năng điều hành nhóm, điều phối các thành viên nhóm hoạt động và kết
nối giữa nhóm với lớp, với giáo viên; nhanh nhẹn, hoạt bát.
Có uy tín trong lớp, bảo ban, cuốn hút các bạn cùng thực hiện các hoạt động
trong nhóm; chú ý lắng nghe và tôn trọng ý kiến của các bạn trong nhóm.

Biết tiếp thu và tổng hợp các nội dung thảo luận trong nhóm một cách thực tế và
trung thực.
2.1.2.Cách lựa chọn:
Giáo viên đưa ra các tiêu chí thích hợp cho một nhóm trưởng từ đó cùng
với các em trong nhóm tự ứng cử. Nếu không có bạn ứng cử thì tổ chức bình
bầu các bạn có đủ tiêu chí đó lên làm nhóm trưởng. Trong quá trình đó sẽ có một
số bạn được bầu làm nhóm trưởng nhưng còn hạn chế một vài tiêu chí thì giáo
viên động viên các em từ đó có cách bồi dưỡng cho các em hoàn thiện hơn.
Giáo viên phải định hướng cho học sinh bình bầu các bạn trong nhóm làm
nhóm trưởng để tăng sự tín nhiệm của các bạn với nhóm trưởng từ đó nhóm
trưởng sẽ thành công hơn trong việc điều hành điều khiển các bạn tập.
Giáo viên chọn những bạn học sinh khá, giỏi, có khả năng điều hành
nhóm, học sinh có năng khiếu thể thao, nhanh nhẹn, có giọng nói tốt, có uy tín
được nhiều bạn trong nhóm tín nhiệm.
Một nhóm trưởng tốt là phải tạo cơ hội để mọi thành viên tự giác trong tự
học, tự tập luyện, tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Không làm thay, làm
hộ, bao che cho bạn mà phải biết động viên giúp đỡ bạn hoàn thành bài tập.
Thông thường giáo viên dạy hoạt động thể chất lấy ngay nhóm trưởng các
nhóm ở các tiết học văn hóa trong lớp. Song đội ngũ này có thể không điều hành
tốt các hoạt động trong tiết học đó cũng chính là lý do làm giảm khả năng phát
huy tính tích cực trong tiết học.
Chính vì vậy, người giáo viên phải nhạy bén trong việc lựa chọn đội ngũ
nhóm trưởng, giáo viên có thể giữ nguyên hay cũng có thể thay đổi đội ngũ này.
Giáo viên nên quan sát, phân tích các yếu tố cần đạt được để lựa chọn các nhóm
trưởng có năng lực điều hành nhóm tốt.
11


2.2. Bồi dưỡng nhóm trưởng:
2.2.1 Nội dung cần bồi dưỡng:

Ngoài việc lựa chọn giáo viên cần chăm chú bồi dưỡng cho các em nhóm
trưởng những kỹ năng điều hành nhóm thường xuyên, hướng dẫn cách tổ chức
cho nhóm học tập, chỉ cho các em cách quản lý thành viên trong nhóm tích cực,
tự giác thực hiện các hoạt động học, chỉ các em cách động viên khích lệ, quan
tâm đến bạn yếu...
Giáo viên tập huấn cho các nhóm trưởng việc tổ chức nhóm theo các đội
hình tập hàng dọc, hàng ngang, vòng tròn, nêu ra ưu, khuyết điểm của các đội
hình tập, lợi ích khi triển khai nhiều đội hình tập khác nhau sẻ tạo cho bạn hứng
thú tập, chỉ cách vận dụng các đội hình vào từng bài học cụ thể. Từ đó tạo cho
các em tư duy cách triển khai đội hình tập phù hợp bài học. Ví dụ: Giáo viên bồi
dưỡng các đội hình tập cho Bài thể dục phát triển chung các em có thể tổ chức
hoạt động cá nhân, nhóm đôi, nhóm lớn theo đội hình hàng ngang, vòng tròn,
đội hình nửa vòng tròn, hình cánh cung... để nhóm trưởng linh động áp dụng tạo
tiết học sinh động tăng hứng thú tập luyện trong nhóm.
Bồi dưỡng vị trí đứng điều khiển của nhóm trưởng cũng rất quan trọng.
Nhóm trưởng đứng sao để bao quát hết các bạn trong nhóm, tập luyện không
làm trở ngại cho bạn, nói hô khẩu lệnh các bạn đều nghe được. Vị trí tập hợp đội
hình sao cho các bạn không bị trở ngại, không nắng chiếu vào mặt, sau gáy,
khoảng cách đứng tập của bạn tập hợp lí nâng cao hiệu quả bài tập. Tiếp thu
hướng dẫn của giáo viên một cách nhanh chóng.
Giáo viên bồi dưỡng các phương pháp tổ chức, điều khiển các thành viên
hoạt động nhóm, rèn kĩ năng nói, kĩ năng giao tiếp với các bạn, kĩ năng nhận xét
các bạn. Giáo viên cung cấp đầy đủ chính xác các câu lệnh, chỉ cho cách hô
lệnh, hô nhịp, gợi ý những lời nhận xét bạn sao cho thích hợp, nhẹ nhàng mang
tính giúp đỡ động viên bạn. Đưa ra tình huống thường gặp để các em tập xử lí.
Thông qua mỗi hoạt động nhóm giáo viên đến nhắc nhở, hướng dẫn, chỉ ra điểm
chưa hợp lý trong quá trình tổ chức hoạt động trong nhóm để các em rút ra kinh
nghiệm cho lần sau. Ví dụ: Đưa ra các tình huống “Trong khi tập nhóm bạn A
không chịu tập thì em làm sao”. Giáo viên gợi ý cách giúp nhóm trưởng xử lí
tình huống như em tới hỏi bạn tìm hiểu lí do sao không tập, động viên, giúp đỡ

bạn khi bạn cần, báo cáo với thầy cô vấn đề mình không giải quyết được...để các
em vận dụng khi điều hành nhóm.
2.2.2. Hình thức bồi dưỡng:
Giáo viên bồi dưỡng cho nhóm trưởng ngay trong tiết học. Giáo viên quan
sát xem nhóm nào nhóm trưởng hoạt động còn yếu thì giáo viên đến ngay nhóm
đó hướng dẫn, chỉ dẫn cho các em làm, nhưng giáo viên phải khéo léo, động
viên đúng lúc, đúng thời điểm, tế nhị, để nhóm trưởng không bị mất uy tín với
bạn trong nhóm. Ví dụ: Trong các tiết học Bài thể dục phát triển chung nhóm
trưởng cứ cho bạn thực hiện một đội hình hàng ngang tập miết thì lúc này giáo
viên đến nhóm gợi ý cho nhóm trưởng sao em không thử cho các bạn tập đội
12


hình nào khác hay hơn như đội hình vòng tròn chẳng hạn ... thì nhóm trưởng sẽ
triển khai tập theo đội hình mà giáo viên gợi ý, sau đó thì hôm sau nhóm trưởng
sẽ linh hoạt trong việc chọn đội hình cho nhóm học.
Ngay từ đầu nếu giáo viên làm hết việc tổ chức điều khiển lớp thì tạo ra
tính “ỷ lại” trong các em. Chính vì vậy ngay từ đầu giáo viên phải bồi dưỡng,
hướng dẫn cho các em thực hiện từ từ qua từng tiết học. Giáo viên có thể để cho
nhóm trưởng tự quản lí nhóm của mình trong một số hoạt động giáo viên nêu
nội dung nhiệm vụ bài tập giao cho nhóm trưởng tổ chức cho các bạn tập ở
những bài tập ôn luyện. Giáo viên đứng quan sát và tác động khi cần thiết.
Ngoài ra giáo viên bồi dưỡng tập trung cho các nhóm trưởng vào các thời
gian ngoài tiết học như: vào cuối buổi học, các nhóm trưởng ở lại giáo viên tổ
chức rèn luyện thêm các kĩ năng còn thiếu hoặc chưa làm tốt trong tiết học. Tập
huấn các em vào ngày thứ bảy khi cần thiết. Ở những buổi tập này giáo viên
đóng vai trò một nhóm trưởng thực hiện tổ chức hoạt động nhóm cho các em
xem sau đó cho các em thực hành lại các kỹ năng tổ chức điều hành nhóm. Giáo
viên quan sát nhắc nhở sửa sai cho các em.
Thông qua các hoạt động ngoài giờ, ngoại khóa, các buổi sinh hoạt chủ

điểm để rèn cho các em kỹ năng điều hành, quản lý nhóm, tăng sự tự tin trong
quá trình điều hành nhóm học tập. Như tổ chức giao lưu trò chơi dân gian, giao
lưu văn nghệ, các Câu lạc bộ thể thao...
3. Phát huy vai trò chủ đạo của nhóm trưởng trong hoạt động nhóm.
Giáo viên cần tạo thói quen tốt cho học sinh là làm việc theo nhóm và tổ
chức nhóm dưới sự điều khiển của nhóm trưởng mà ít có sự tác động của giáo
viên. Giáo viên nên chủ động giao nhiệm vụ tổ chức cho nhóm trưởng điều hành
hoạt động nhóm mà không có sự điều khiển của giáo viên phát huy hết vai trò
các nhóm trưởng trong nhóm. Giáo viên tự cho nhóm tổ chức ôn tập các nội
dung ôn như; tập hợp hàng, bài thể dục phát triển chung, nhóm trưởng tự giác
chọn đội hình tập mà mình thích...
Ở tất cả các tiết học ngoài hoạt động bài mới giáo viên phải hướng dẫn thì
cần nên trao quyền điều hành quản lý lớp cho các nhóm trưởng. Để các em
mạnh dạn tổ chức cho các bạn tập. Giáo viên nên đứng cạnh để quan sát nhắc
nhở sửa sai khi cần thiết. Ví dụ ở tiết học bài thể dục, giáo viên hướng dẫn động
tác mới cho học sinh nắm, tập cả lớp 1-2 lần, sau đó tổ chức cho học sinh làm
việc nhóm. Lúc này phát huy vai trò các nhóm trưởng để các em tổ chức điều
hành các nhóm tập luyện, khi cần thiết thì giáo viên đến giúp đỡ. Đối với bài ôn
giáo viên phát huy hết vai trò các nhóm trưởng để các em tự tổ chức tập luyện
giáo viên chỉ quan sát nhắc nhở khi cần thiết. Qua đó sự tương tác trong nhóm
giúp các em nắm bắt bài tập nhanh và hiệu quả hơn, các em nhớ lâu hơn.
Giáo viên quan tâm động viên, nhắc nhở các học sinh khác học tập có ý
thức. Lâu dài cần luân phiên làm nhóm trưởng; để các thành viên trong nhóm tự
tin trước mọi người. Hàng tháng giáo viên có thể đổi vai trò nhóm trưởng 1 lần,
13


cũng có thể ở nội dung bài học khác bạn nào có năng khiếu hơn lên làm nhóm
trưởng.
Thường xuyên thay đổi các nhóm trưởng phù hợp với nội dung bài tập để

phát huy vai trò nhóm trưởng điều hành, tổ chức nhóm hoàn thành tót các nhiệm
vụ trong bài học. Ở các lớp các em phát triển không đều các môn, các nội dung
vì thế để các em giỏi nội dung nào lên làm nhóm trưởng nội dung đó sẻ tạo cho
các em tự tin và hoàn thành nhiệm vụ mà giáo viên giao cho, để nhóm hoạt động
hiệu quả hơn. Ví dụ: Ở phần Đội hình Đội ngũ thì bạn A có khả năng hô lệnh to
rõ ràng, nhanh nhẹn, kỷ luật hơn làm nhóm trưởng nhưng sang bài thể dục phát
triển chung thì cho em B, hô nhịp chuẩn, có tính nhịp điệu hơn, thực hiện động
tác tốt hơn làm nhóm trưởng,... Lúc này mới phát huy hết vai trò nhóm trưởng
để các em giúp nhóm hoàn thành nội dung tập luyện.
5.Trình tự hoạt động một tiết học:
- Nhận lớp giáo viên kiểm tra sức khỏe, trang phục học sinh. Phổ biến
mục tiêu yêu cầu bài học.
- Chủ tịch Hội đồng tự quản lên điều khiển cho các bạn khởi động.
- Giáo viên làm mẫu động tác, hướng dẫn tập (đối với nội dung bài mới).
- Giáo viên hướng dẫn cách tập luyện, nhắc lại những điểm quan trọng,
cách sửa sai… (đối với bài ôn luyện).
- Sau đó các nhóm trưởng đưa nhóm mình về vị trí tập luyện
- Nhóm trưởng phổ biến các nhiệm vụ, nội dung tập luyện cho các bạn.
- Các học sinh của nhóm tập cá nhân, sau thực hiện nhóm đôi, nhóm
trưởng vừa tập vừa quan sát các bạn tập, nhắc nhở, sửa sai cho các bạn.
- Các thành viên hoạt động xong nhóm trưởng kiểm tra quá trình thực
hiện nhiệm vụ của các bạn.
- Nhóm trưởng nhận xét quá trình tập của các bạn trong nhóm.
- Báo cáo kết quả với giáo viên.
- Trong quá trình học sinh hoạt động nhóm giáo viên quan sát các nhóm
để nhắc nhở hướng dẫn kịp thời.
- Giáo viên đến các nhóm kiểm tra việc thực hiện bài tập của nhóm.
- Học sinh chia sẽ bài học
- Giáo viên nêu hoạt động ứng dụng của bài học
- Giáo viên nêu tên, hướng dẫn trò chơi

- Học sinh tham gia trò chơi.
- Giáo viên nhận xét, nêu hoạt động ứng dụng của trò chơi
- Chủ tịch hội đồng tự quản điều khiển bạn thả lỏng
- Nhóm trưởng báo cáo kết quả nhận xét.
14


- Giáo viên nhận xét chung.
- Kết thúc tiết học.
Từ tiến trình hoạt động bài học ta thấy rất rõ vai trò rất lớn của nhóm
trưởng trong các hoạt động. Giáo viên chỉ định hướng, còn nhóm trưởng là
người tổ chức điều khiển các bạn học. Việc phát huy vai trò các nhóm trưởng là
rất cần thiết để nâng cao chất lương giáo dục.
III. HIỆU QUẢ
Khi thực hiện việc phát huy vai trò nhóm trưởng đã có phần nào kết quả,
học sinh học tập với tinh thần tự giác cao, các em hưng phấn trong tập luyện
nhóm, học sinh thực hiện tốt theo sự điều khiển, chỉ đạo của nhóm trưởng, các
nhóm hoạt động đồng đều, có hiệu quả không mất thời gian nhiều. Giáo viên tổ
chức nhiều hoạt động nâng cao chất lượng các tiết học, học sinh thực hiện bài
tập đạt hiệu quả cao. Huấn thú học tập nâng lên các em tích cực tập luyện, yêu
thích giờ học nâng cao chất lượng giáo dục.
Các nhóm trưởng làm việc tự tin tổ chức các nhóm hoạt động linh hoạt
diễn biến giờ học nhẹ nhàng, logic, các nhiệm vụ được giải quyết nhanh nhẹn
nên chất lượng giờ học được nâng cao. Chất lượng giáo dục được cải thiện.
Kết quả thống kê chất lượng hoạt động Giáo dục thể chất ở Học Kì I
ST
T

Khối lớp


Tổng số
học sinh

Hoàn
thành tốt

Tỉ lệ %

Hoàn
thành

Tỉ lệ %

1

2

90

37

41,11

53

58,89

2

5


119

48

33,61

71

66,39

C. KẾT LUẬN
I. PHẠM VI ỨNG DỤNG
Sáng kiến kinh nghiệm này được áp dụng tại đơn vị Trường Tiểu học
Ninh Hà.
II. Ý NGHĨA
- Qua đề tài này giáo viên giảng dạy hoạt động giáo dục thể chất có thể
yên tâm phát huy hết vai trò các nhóm trưởng để nâng cao chất lượng giáo dục,
góp phần vào việc đổi mới toàn diện công tác giáo dục trong trường học.
- Tạo được tâm lý tốt cho các em học sinh hoạt động nhóm các em tự tin
điều hành các nhóm hoạt động hiệu quả hơn.
- Đề tài được thực hiện trong phạm vi trường Tiểu học Ninh Hà thời gian
qua chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Trong thời gian tới
đề tài sẽ được mở rộng và hoàn thiện hơn.

15




×