Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Sử dụng bèo tấm (Lemna minor Linnaeus, 1753) đánh giá rủi ro độc học sinh thái đối với các loại nước thải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 51 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA SINH - MÔI TRƯỜNG
***

NGUYỄN THỊ XUÂN PHƯƠNG

SỬ DỤNG BÈO TẤM (Lemna minor Linnaeus, 1753)
ĐÁNH GIÁ RỦI RO ĐỘC HỌC SINH THÁI
ĐỐI VỚI CÁC LOẠI NƯỚC THẢI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐÀ NẴNG - 2018


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA SINH - MÔI TRƯỜNG
***

NGUYỄN THỊ XUÂN PHƯƠNG

SỬ DỤNG BÈO TẤM (Lemna minor Linnaeus, 1753)
ĐÁNH GIÁ RỦI RO ĐỘC HỌC SINH THÁI
ĐỐI VỚI CÁC LOẠI NƯỚC THẢI

NGÀNH QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
ThS. NGUYỄN VĂN KHÁNH



NIÊN KHÓA 2014 - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả khóa luận

Nguyễn Thị Xuân Phương


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giáo viên hướng dẫn thầy Nguyễn
Văn Khánh đã chỉ bảo tận tình trong suốt thời gian qua. Đồng thời tôi cũng xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo trong khoa Sinh – Môi trường, trường
Đại học Sư Phạm, Đại học Đà Nẵng đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành khóa luận
này.
Đà Nẵng, tháng 4 năm 2018

Sinh viên: Nguyễn Thị Xuân Phương


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................
LỜI CẢM ƠN ..............................................................................................................
MỤC LỤC ....................................................................................................................
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ...............................................

DANH MỤC CÁC BẢNG ..........................................................................................
DANH MỤC HÌNH ẢNH VÀ ĐỒ THỊ .....................................................................
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................1
2. Mục tiêu của đề tài ..............................................................................................2
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài ................................................................................3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ..................................................................4
1.1. TÌNH HÌNH Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC TẠI VIỆT NAM VÀ TRÊN
THẾ GIỚI ....................................................................................................................4
1.1.1. Tình hình ô nhiễm môi trường nước trên thế giới ........................................4
1.1.2. Tình hình ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam .......................................5
1.2. SINH VẬT CẢNH BÁO SỚM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC ..................7
1.2.1. Sinh vật cảnh báo sớm ..................................................................................7
1.2.2. Ưu nhược điểm của giám sát sinh học ..........................................................7
1.2.3. Tình hình nghiên cứu sinh vật cảnh báo sớm ô nhiễm trên thế giới.............8
1.2.4. Tình hình nghiên cứu sinh vật cảnh báo sớm ô nhiễm tại Việt Nam .........11
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU .........................................................................................................14
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ...........................................................................14
2.1.1. Loài Bèo tấm (Lemna minor Linnaeus, 1753) ...........................................14
2.1.2. Nước thải dùng trong thí nghiệm ................................................................15
2.1.3. Môi trường nuôi cấy và thí nghiệm SIS (Swedish Standard) .....................15
2.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU .................................................................................15
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ..............................................................................15
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......................................................................16


2.4.1. Phương pháp thu thập và tổng hợp tài liệu .................................................16
2.4.2. Phương pháp phân lập, khử trùng và nuôi cấy ...........................................16
2.4.3. Phương pháp thí nghiệm .............................................................................16

2.4.4. Phương pháp xử lý số liệu ..........................................................................20
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .........................................................21
3.1. KẾT QUẢ TRONG THỬ NGHIỆM VỚI NƯỚC THẢI CỦA TRẠM XỬ LÍ
NƯỚC THẢI KHU CÔNG NGHIỆP HÒA CẦM ...................................................21
3.2. KẾT QUẢ TRONG THỬ NGHIỆM VỚI NƯỚC THẢI CỦA SENVILA
BOUTIQUE RESORT AND SPA (HỘI AN) ..........................................................23
3.3. KẾT QUẢ TRONG THỬ NGHIỆM VỚI NƯỚC THẢI CỦA TRẠM XỬ LÍ
NƯỚC THẢI HÒA CƯỜNG....................................................................................26
3.4. KẾT QUẢ TRONG THỬ NGHIỆM VỚI NƯỚC THẢI CỦA CÔNG TY SẢN
XUẤT GIẤY BAO BÌ TÂN LONG ĐÀ NẴNG .....................................................28
3.5. KẾT QUẢ TRONG THỬ NGHIỆM VỚI NƯỚC THẢI CỦA CÔNG TY
TNHH DAIWA VIỆT NAM ....................................................................................31
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................34
PHỤ LỤC .................................................................................................................38


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (Organization for Economic
Cooperation and Development)

EC50

Nồng độ ức chế sinh trưởng 50% sinh vật thực nghiệm (Effective
concentration 50%)

TNHH


Trách nhiệm hữu hạn

SIS

Swedish Standard


DANH MỤC CÁC BẢNG
Kí hiệu

Tên bảng

bảng
Bảng 2.1

Bảng 2.2

Bảng 2.3

Bảng 2.4

Bảng 2.5

Dãy nồng độ của nước thải Trạm xử lý nước thải Khu
công nghiệp Hòa Cầm
Dãy nồng độ của nước thải Senvila Boutique Resort and
Spa (Hội An)
Dãy nồng độ của nước thải Trạm xử lý nước thải Hòa
Cường, Hải Châu, Đà Nẵng
Dãy nồng độ của nước thải Công ty sản xuất giấy bao bì

Tân Long Đà Nẵng
Dãy nồng độ của nước thải Công ty TNHH Daiwa Việt
Nam

Trang

17

17

17

18

18

Kết quả khảo sát số lượng lá, trọng lượng tươi trong thử
Bảng 3.1

nghiệm của Bèo tấm với nước thải Trạm xử lý nước thải

21

Khu công nghiệp Hòa Cầm
Kết quả khảo sát số lượng lá, trọng lượng tươi trong thử
Bảng 3.2

nghiệm của Bèo tấm với nước thải Senvila Boutique

23


Resort and Spa (Hội An)
Kết quả khảo sát số lượng lá, trọng lượng tươi trong thử
Bảng 3.3

nghiệm của Bèo tấm với nước thải Trạm xử lý nước thải

26

Hòa Cường
Kết quả khảo sát số lượng lá, trọng lượng tươi trong thử
Bảng 3.4

nghiệm của Bèo tấm với nước thải Công ty sản xuất giấy

28

bao bì Tân Long Đà Nẵng
Kết quả khảo sát số lượng lá, trọng lượng tươi trong thử
Bảng 3.5

nghiệm của Bèo tấm với nước thải Công ty TNHH
Daiwa Việt Nam

31


DANH MỤC HÌNH ẢNH VÀ ĐỒ THỊ
Kí hiệu


Tên hình

hình
Hình 2.1
Hình 2.2

Bèo tấm (Lemna minor Linnaeus), 1753
Thiết kế thí nghiệm theo kiểu ngẫu nhiên hoàn toàn
CRD

Trang
14
18

Kết quả các biến đo lường ở đầu và cuối thí nghiệm với
Hình 3.1

nước thải Trạm xử lý nước thải Khu công nghiệp Hòa

22

Cầm
Phần trăm ức chế sinh trưởng theo Số lượng lá (a);
Hình 3.2

Trọng lượng tươi (b); trong nước thải Trạm xử lý

22

nước thải Khu công nghiệp Hòa Cầm

Hình 3.3

Kết quả các biến đo lường ở đầu và cuối thí nghiệm với
nước thải Senvila Boutique Resort and Spa (Hội An)

24

Bèo tấm sau thời gian 168h ở nồng độ đối chứng (0%)
Hình 3.4

và 100% khi thử nghiệm với nước thải Senvila

25

Boutique Resort and Spa (Hội An)
Phần trăm ức chế sinh trưởng theo Số lượng lá (a);
Hình 3.5

Trọng lượng tươi (b) trong nước thải Senvila Boutique

25

Resort and Spa (Hội An)
Hình 3.6

Kết quả các biến đo lường ở đầu và cuối thí nghiệm với
nước thải Trạm xử lý nước thải Hòa Cường

27


Phần trăm ức chế sinh trưởng theo Số lượng lá (a);
Hình 3.7

Trọng lượng tươi (b); trong nước thải Trạm xử lý

27

nước thải Hòa Cường
Kết quả các biến đo lường ở đầu và cuối thí nghiệm với
Hình 3.8

nước thải Công ty sản xuất giấy bao bì Tân Long Đà

29

Nẵng
Hình 3.9

Bèo tấm sau thời gian 168h ở nồng độ đối chứng (0%)

30


và 100% khi thử nghiệm với nước thải Công ty sản xuất
giấy bao bì Tân Long Đà Nẵng
Phần trăm ức chế sinh trưởng theo Số lượng lá (a);
Hình 3.10 Trọng lượng tươi (b); trong nước thải Công ty sản

30


xuất giấy bao bì Tân Long Đà Nẵng
Hình 3.11

Kết quả các biến đo lường ở đầu và cuối thí nghiệm với
nước thải Công ty TNHH Daiwa Việt Nam

32

Phần trăm ức chế sinh trưởng theo Số lượng lá (a);
Hình 3.12 Trọng lượng tươi (b); trong nước thải Công ty TNHH
Daiwa Việt Nam

32


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, với tốc độ phát triển nhanh chóng của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đã khiến cho môi trường của chúng ta ngày càng suy kiệt. Đặc biệt ô
nhiễm nguồn nước là vấn đề quan trọng và nguy cấp trên toàn thế giới nói chung và
ở Việt Nam nói riêng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, các loài sinh
vật và các hệ sinh thái khác.
Đã có nhiều phương pháp được sử dụng để cảnh báo, đánh giá ô nhiễm
nguồn nước, thường được dùng nhất là phương pháp hóa lý. Tuy nhiên phương
pháp này đòi hỏi phải đầu tư lớn về thiết bị, cơ sở vật chất, phải thực hiện liên tục
với tần suất lớn, gây tốn kém về mặt kinh tế nhưng hiệu quả lại không cao.
Một phương pháp có thể khắc phục được những nhược điểm của phương
pháp hóa lý đó là sử dụng sinh vật chỉ thị môi trường để giám sát, cảnh báo sớm ô
nhiễm. Đồng thời nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng các thực vật thủy sinh có sự nhạy
cảm với các chất ô nhiễm cao hơn các loài động vật, chính vì vậy chúng đặc biệt

thích hợp sử dụng trong việc giám sát môi trường nước thông qua các thử nghiệm
độc tính [16]. Tương tự như vi sinh học hay sinh học thủy sinh, Bèo tấm (Lemna
minor) cũng có thể được sử dụng như một loài sinh học chỉ thị cho hệ sinh thái
nước [17]. Bèo tấm là loài thực vật nhỏ, phát triển nhanh chóng, nhạy cảm với
nhiều chất độc, rất dễ nuôi thích hợp để kiểm tra độc tính [8]. Nhiều nghiên cứu trên
thế giới đã được tiến hành nhằm sử dụng loài Bèo tấm trong giám sát chất lượng
nước [1], Tổ chức OECD đã ban hành quy chuẩn về thử nghiệm độc học sinh thái
bằng Bèo tấm và được sử dụng rộng rãi tại các nước cộng đồng Châu Âu [17].
Tuy nhiên ở Việt Nam vẫn chưa có nghiên cứu nào được tiến hành trên loài
bèo này.
Thử nghiệm độc học sinh thái là quá trình mô tả, giám sát mối tương quan
giữa mức độ ảnh hưởng độc hại của hóa chất lên sinh vật thử nghiệm [18]. Kết quả
của thử nghiệm độc học được sử dụng để xác định nồng độ ô nhiễm, đánh giá sự
cần thiết trong kiểm soát chất thải hay thiết lập tiêu chuẩn về chất lượng môi trường

1


[5]. Trong những năm qua, đã có những dẫn liệu khoa học hết sức ý nghĩa trong
việc sử dụng bèo tấm (Lemna minor) làm đối tượng thử nghiệm độc học sinh thái
(Wang and Freemark, 1995). Với những ưu điểm như kích thước nhỏ, cấu trúc đơn
giản, thời gian thế hệ ngắn và các điều kiện môi trường nuôi cấy, thử nghiệm có thể
dễ dàng được kiểm soát, bèo tấm (Lemna minor) trở thành loài chỉ thị hiệu quả với
các thử nghiệm độc học sinh thái trong phòng thí nghiệm [5].
Tại Việt Nam, việc sử dụng bèo tấm làm đối tượng nghiên cứu còn chưa thu
được nhiều sự quan tâm. Đa phần các nghiên cứu tập trung vào những ứng dụng
bèo tấm trong sản xuất nông nghiệp, làm dươ ̣c liê ̣u (như vaccine phòng cúm) [2].
Một số nghiên cứu khác chỉ dừng lại ở việc đánh giá khả năng xử lý ô nhiễm của
bèo tấm mà chưa quan tâm đến những dấu hiệu, phản ứng sinh thái của bèo tấm khi
tiếp xúc với độc chất.

Từ những yếu tố trên tôi tiến hành chọn đề tài “Sử dụng Bèo tấm (Lemna
minor Linnaeus, 1753) đánh giá rủi ro độc học sinh thái đối với các loại nước
thải ”. Đề tài này cung cấp các cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, ứng dụng Bèo
tấm làm sinh vật chỉ thị môi trường nước tại Việt Nam.

2. Mục tiêu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Sử dụng loài Bèo tấm (Lemna minor) đánh giá rủi ro độc học sinh thái nước
thải đầu ra của:
+ Trạm xử lý nước thải Khu công nghiệp Hòa Cầm
+ Senvila Boutique Resort and Spa (Hội An)
+ Trạm xử lý nước thải Hòa Cường, Hải Châu, Đà Nẵng
+ Công ty sản xuất giấy bao bì Tân Long Đà Nẵng
+ Công ty TNHH Daiwa Việt Nam

2.2. Mục tiêu cụ thể
- Phân lập và nuôi cấy Bèo tấm (Lemna minor) trong môi trường nuôi cấy
Swedish Standard (SIS) vô trùng;

2


- Xác định nồng độ trung bình gây ức chế tăng trưởng EC50 (Effective
concentration) của chất lượng nước thải trên Bèo tấm (Lemna minor Linnaeus,
1753).

3. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu góp phần tạo cơ sở sinh học trong việc sử dụng Bèo tấm
để đánh giá rủi ro độc học sinh thái thông qua phân tích các đặc điểm sinh trưởng
của chúng đối với chất lượng nước thải tại Việt Nam.


3


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TÌNH HÌNH Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC TẠI VIỆT NAM
VÀ TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1. Tình hình ô nhiễm môi trường nước trên thế giới
Nước là một nguồn tài nguyên hết sức quý giá nhưng không phải ai cũng
nhận thức được điều này. Có tới hơn 1 tỷ người đang bị thiếu khoảng 20-50 lít nước
sạch mỗi ngày để phục các nhu cầu căn bản như ăn uống và tắm giặt. Tuy nhiên,
cũng có nhiều người đang lãng phí nước.
Hiện nay tình trạng ô nhiễm nước lục địa và đại dương đang gia tăng với
nhịp độ đáng lo ngại. Tốc độ ô nhiễm nước phản ánh một cách chân thực tốc độ
phát triển kinh tế của các quốc gia. Xã hội càng phát triển thì xuất hiện càng nhiều
nguy cơ ô nhiễm.
Theo UNICEF (2010: 7-9) báo cáo rằng trong năm 2010 có 884 triệu người
trên thế giới sử dụng nguồn nước uống không được cải tạo. Nước không an toàn
gây ra 4 tỷ trường hợp bị tiêu chảy mỗi năm, và kết quả là 2,2 triệu người chết, chủ
yếu là trẻ em dưới 5 tuổi. Điều này có nghĩa là 15% trẻ tử vong mỗi năm là do tiêu
chảy, sau 15 giây thì có một đứa trẻ bị tử vong. Riêng ở Ấn Độ, gần một nửa triệu
trẻ em chết mỗi năm do bị tiêu chảy. Đã có sự suy giảm lớn về sức khoẻ hệ sinh thái
ở các vùng nước ven biển. Trên phạm vi toàn cầu, 24% động vật có vú, 12% loài
chim đang bị đe dọa [19]. Ở một số vùng, hơn 50% loài cá nước ngọt bản địa có
nguy cơ tuyệt chủng và gần 1/3 loài lưỡng cư trên thế giới có nguy cơ tuyệt chủng
[20]. Các loài nước ngọt có tỷ lệ tuyệt chủng ước tính gấp năm lần so với các loài
trên cạn [21] Căn bệnh Minamata tại Nhật Bản những năm 1956 và 1968, người ta
phát hiện ra những người có biểu hiện chân tay bị tê liệt, run rẩy, dị tật. Sau 12 năm
nghiên cứu, năm 1979 các nhà khoa học đã đưa ra kết luận căn bệnh này do nhiễm
độc methyl thủy ngân gây ra – thành phần trong nước thải phân hóa học nhà máy

Chisso. Hậu quả 2248 người mắc bệnh, 1004 người chết [3].
Ô nhiễm nguồn nước từ các ngành công nghiệp nhỏ lẻ là một vấn đề nghiêm
trọng ở Trung Quốc. Hơn một nửa số sông được giám sát về chất lượng nước được

4


đánh giá là không an toàn cho con người. Chất thải đô thị và công nghiệp thải ra
môi trường, cùng với khả năng xử lý nước thải hạn chế, là những nguyên chính gây
ô nhiễm nguồn nước. Khoảng hai phần ba tổng lượng chất thải thải ra sông, hồ và
biển bắt nguồn từ ngành công nghiệp, và khoảng 80% trong số đó không được xử lý
[22]. Trung Quốc là nước sản xuất xỉ Cr lớn nhất thế giới, có khoảng 25 doanh
nghiệp sản xuất muối Cr, trong đó năng suất sản xuất hàng năm đạt 329.000 tấn và
lượng xỉ Cr hàng năm đạt 450.000 tấn. Vào ngày 13 tháng 8 năm 2011, tai nạn ô
nhiễm Cr đã xảy ra ở ở tỉnh Yunan. Lý do của vụ tai nạn này là do 5000 tấn xỉ Cr
không được xử lý, sản xuất bởi Công ty TNHH công nghiệp hóa chất Lvliang đã đổ
trái phép vào sông Nanpan nằm ở nguồn của con sông Zhujian. Tai nạn ô nhiễm dẫn
đến nồng độ Cr (VI) được phát hiện trên sông Nanpan vượt khoảng 2000 lần tiêu
chuẩn cho phép [23].

1.1.2. Tình hình ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam
Việt Nam khoảng 830 tỉ m3 được tập trung chủ yếu trên 8 LVS lớn, bao
gồm: LVS Hồng - Thái Bình, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn,
Ba, Đồng Nai và sông Mê Công (Cửu Long). Tuy nhiên, khoảng 63% nguồn nước
mặt của Việt Nam (tương ứng với 520 tỷ m3 ) có nguồn gốc ở ngoài ranh giới quốc
gia, chỉ có gần 310 tỉ m3 mỗi năm được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam. Tổng lượng
nước đang được khai thác, sử dụng hàng năm khoảng 80,6 tỷ m3 cho các mục đích
nông nghiệp, sản xuất năng lượng, sinh hoạt, nuôi trồng thuỷ sản và hoạt động sản
xuất công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Tuy nhiên, khai thác, sử dụng tài nguyên nước
chưa hợp lý và thiếu bền vững đã và đang gây suy giảm tài nguyên nước. Hiê ̣u quả

sử du ̣ng nước còn thấ p, tình trạng lãng phí trong sử dụng nước vẫn còn diễn ra khá
phổ biến trên phạm vi cả nước. Có thể nhìn thấy trước mắt những thách thức đặt ra
trong việc sử dụng bền vững tài nguyên nước quốc gia, đó là nguy cơ cạn kiệt
nguồn nước do sự phân bố lượng nước không đồng đều theo mùa, sự suy giảm chất
lượng nước do ô nhiễm, đặc biệt là cơ chế hợp tác, chia sẻ nguồn nước giữa vùng,
các quốc gia đối với các LVS liên vùng, liên quốc gia chưa hiệu quả [4].
Nước ta hiện có nền công nghiệp thực sự chưa phát triển, chịu ảnh hưởng
của xu hướng đô thị hóa mạnh mẽ, các khu công nghiệp và các đô thị đã xảy ra tình

5


trạng ô nhiễm ở rất nhiều nơi, trên biển, sông suối, trong cả tầng nước ngầm với các
mức độ nghiêm trọng khác nhau. Chất lượng các nguồn nước mặt đang suy giảm rõ
rệt. Nhiều sông, hồ, kênh, rạch ở các thành phố lớn, các khu dân cư tập trung đang
dần biến thành nơi chứa các chất thải đô thị, chất thải công nghiệp chưa qua xử lý
[5]. Theo TS. Bùi Quang Tề, riêng khu vực phía Bắc, nhiều con sông đang bị ô
nhiễm nặng như sông Nhuệ, sông Đáy, Châu Giang, sông Cầu, Ngũ Huyện Khê,
Đồng Khởi, không nên nuôi thủy sản hoặc lấy nước (trừ khi có công nghệ xử lí) để
nuôi trồng. Bởi thực tế, qua quan trắc cho thấy hàm lượng Nitrat (NO3), Amoniac
(NH3) tại các sông này thường xuyên ở mức 2 - 5 mg/lít, trong khi tiêu chuẩn quy
định chỉ là 0,25 mg/lít, tức là vượt 10 - 20 lần cho phép [6].
Lưu vực sông Cầu là một lưu vực đã bị ô nhiễm hoàn toàn. Dân số sống
trong lưu vực này chiếm khoảng 7 triệu trên một diện tích khoảng 10 ngàn km²
[24].Trong lưu vực này, ngoài khu sản xuất công nghiệp lớn nhất Thái Nguyên, qua
việc khai thác mỏ và hóa chất, còn có trên dưới 800 cơ sở sản xuất tiểu thủ công
nghiệp và quy mô công nghiệp nhỏ như các làng nghề tập trung. Lượng chất thải
lỏng thải hồi vào lưu vực sông Cầu ước tính khoảng 40 triệu m3/năm. Riêng khu
vực Thái Nguyên thải khoảng 24 triệu m3 trong đó có nhiều kim loại độc hại như
Selenium, Mangan, Chì, Thiết, Thủy Ngân và các hợp chất hữu cơ từ các nhà máy

sản xuất hóa chất bảo vệ thực vật như thuốc sát trùng, thuốc trừ sâu rầy, trừ nấm
mc. Tại tỉnh Bắc Ninh, có trên 60 làng nghề đã có từ lâu đời. Nơi đây cũng còn có
các ngành chế biến lâm sản và kỹ nghệ giấy và tái sinh giấy. Các kỹ nghệ này đã
phát thải nhiều hóa chất hữu cơ độc hại trong đó các chất tẩy trắng chứa chlor là
một nguy cơ ô nhiễm cao nhất. Vì trong công đoạn này phát sinh ra đioxin, mầm
móng của bệnh ung thư. Thêm nữa, trong các phụ lưu của sông Cầu, hầu hết những
thông số phân tích đều vượt qua tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến hơn 50 lần như nhu
cầu oxy hóa học (COD), lượng oxy hòa tan (DO), tổng chất rắn lơ lững (TSS),
nitrite (NO2 -) [7].
Tại tiểu lưu vực sông Vu Gia, môi trường nước đã bị ô nhiễm chất hữu cơ và
hàm lượng cặn lơ lửng tương đối lớn, tại các điểm quan trắc hàm lượng BOD 5,
COD vượt QCVN 08:2008/BTNMT loại A2. Chất lượng nước tại tiểu lưu vực sông

6


Thu Bồn còn tương đối tốt [2]. Tuy nhiên, tại TP. Đà Nẵng theo đánh giá hiện trạng
môi trường năm 2005 cho thấy tại vùng cửa sông, ven biển đang có tình trạng ô
nhiễm một số KLN. Tại khu vực cửa sông Cu Đê, cửa sông Phú Lộc hàm lượng Hg
trong nước vượt TCCP 0,08 – 0,56 lần, hàm lượng Pb vượt 0,06 – 0,27 lần TCCP,
tại khu vực cửa Mũi Vịnh hàm lượng As, Fe, Zn vượt tiêu chuẩn từ 2,17 – 11,4 lần
TCCP [8:9].
Các dẫn liệu trên cho thấy tình hình ô nhiễm môi trường nước trên thế giới
và Việt Nam đã và đang gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, chất lượng cuộc sống
con người và sinh vật. Nghiên cứu công cụ nhằm nâng cao hiệu quả giám sát, đánh
giá mức độ, kiểm soát ô nhiễm và phát hiện kịp thời những rủi ro sinh thái là vấn đề
có ý nghĩa hết sức thực tiễn hiện nay.

1.2. SINH VẬT CẢNH BÁO SỚM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG NƯỚC
1.2.1. Sinh vật cảnh báo sớm

Chỉ thị sinh học có thể là một loài hoặc một nhóm sinh vật có khả năng cảnh
báo ô nhiễm thông qua những biểu hiện bất thường trong quá trình phát triển của
chúng, ở các ngưỡng nồng độ mà các phương pháp hóa lý khó có thể xác định được
(Mc Geoch, 1998 và Shahabuddin, 2003) [25].
Sinh vật chỉ thị là những loài rất nhạy cảm với những thay đổi trong môi
trường và sự hiện diện hay vắng mặt của chúng có thể là dấu hiệu của điều kiện môi
trường tại khu vực cụ thể. Bởi vậy, chúng được dùng như một công cụ giám sát để
xác định những sự thay đổi về chất lượng và điều kiện môi trường [10].
Sinh vật thăm dò và cảnh báo (Detector and Sentinel organisms) thường là
loài đơn lẻ, bản địa mà chúng có khả năng thể hiện phản ứng có thể đo được đối với
ô nhiễm và hoạt động như một chỉ thị cảnh báo sớm về sự có mặt của các chất ô
nhiễm trong môi trường [10].

1.2.2. Ưu nhược điểm của giám sát sinh học
Việc sử dụng sinh vật trong giám sát môi trường được xem là phương pháp
bổ sung hữu ích cho các phân tích lý hóa, khi mà các phương pháp lý hóa chỉ có thể
xác định các giá trị trong thời gian khi mẫu được thu thập còn phương pháp sinh

7


học sẽ phản ánh những tác động của các điều kiện lý – hóa của môi trường khi mà
sinh vật đã được tiếp xúc trong một khoảng thời gian nhất định [10].
Chúng có thể phát hiện ra các chất ô nhiễm ở nồng độ rất thấp đồng thời
đánh giá được các rủi ro sinh thái và tác động tổng hợp của các chất ô nhiễm. Ngoài
ra, các trang thiết bị sử dụng trong giám sát sinh học có thể rẻ hơn phương pháp lý
hóa.
Tuy nhiên, giám sát sinh học cũng có những mặt hạn chế như sau: Không
xác định được nguyên nhân ô nhiễm, nguồn ô nhiễm hoặc nồng độ chính xác của
các chất ô nhiễm trong môi trường… Sự biến đổi đặc điểm sinh học của quần thể

trong các môi trường và sự di chuyển của chúng có thể làm sai lệch các kết quả
nghiên cứu… [26].

1.2.3. Tình hình nghiên cứu sinh vật cảnh báo sớm ô nhiễm trên thế giới
Bèo tấm được sử dụng làm sinh vật chỉ thị xác định độc tố trong nước kể từ
năm 1930, chúng nằm trong số loài được sử dụng sớm nhất để xác định ảnh hưởng
cực độc của thuốc diệt cỏ phenoxy trong nước (Blackman and RobertsonCumminghame, 1955). Năm 1979, Cục Bảo vệ môi trường Mỹ đã đề xuất Lemna
minor là đại diện của thực vật thủy sinh, sử dụng hữu ích trong việc đánh giá tính an
toàn của hóa chất đối với môi trường (Federal Register, 1979 in Bishop and Perry,
1981). Trong những năm qua, đã có nhiều sự quan tâm nghiên cứu sử dụng thực vật
bậc cao trong giám sát và đánh giá môi trường, bao gồm những thử nghiệm độc học
giám sát ô nhiễm trong phòng thí nghiệm [27]. Ngoài việc là thành phần thiết yếu
của hệ sinh thái thủy sinh, thực vật bậc cao còn có vai trò quan trọng trong việc
đánh giá ảnh hưởng của thuốc diệt cỏ trong môi trường nước thông qua thử nghiệm
độc học sinh thái [17].
Thử nghiệm ức chế sinh trường của bèo tấm được phát triển bởi Tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế OECD (Organization for Economic Cooperation and
Development 1998, 2002) đã trải qua xác nhận của 37 phòng thí nghiệm trên toàn
cầu, hiện đang được sử dụng phổ biến ở Bắc Mỹ và một số nơi khác bao gồm Hội
liên hiệp sức khỏe cộng đồng Mỹ (American Public Health Association (APHA) et
al.,1999), Cục Bảo vệ Môi trường Mỹ (United States Environmental Protection

8


Agency (USEPA), 1996); Tổ chức Française de Normalisation (AFNOR, 1996);
Viện tiêu chuẩn Thụy Điển (Swedish Standards Institute (SIS), 1995); và Viện
Nghiên cứu ứng dụng môi trường Mỹ (Institute of Applied Environmental Research
(ITM), 1990). Gần đây hơn, tổ chức tiêu chuẩn toàn cầu (International Organization
for Standardization (ISO), 2005) cũng đã phát triển phương pháp thử nghiệm độc tố

kim loại nặng ức chế sinh trưởng đối với Lemna minor [18]. Đặc điểm quan trọng
của bản dự thảo thử nghiệm đó là phải tuân thủ các tiêu chuẩn chất lượng, số lần lặp
lại của thử nghiệm và sự lặp lại phương pháp giữa các phòng thí nghiệm. Kết quả
của thử nghiệm đã xác nhận hai loài bèo tấm Lemna minor và Lemna gibba đã đáp
ứng được các yêu cầu của toàn bộ quá trình (Sims et al., 1999). Đánh giá ảnh hưởng
của độc chất trên bèo tấm dựa trên sự so sánh những đặc điểm ức chế sinh trưởng
của bèo tấm khi tiếp xúc với hóa chất độc với sự sinh trưởng của bèo trong môi
trường đối chứng.
Điển hình cho phương pháp giám sát dựa trên đánh giá phản ứng sinh thái là
những thử nghiệm độc học sinh thái và sự áp dụng vào hệ thống sinh học cảnh báo
sớm. Các thí nghiệm này được tiến hành theo từng lô và thường mất từ vài giờ đến
vài ngày đối với độc tính cấp tính, nhiều ngày đối với độc tính mãn tính.
Theo Magalha và cs. đã nghiên cứu phản ứng hành vi của loài cá Ngựa vằn
bởi chất độc sinh thái sodium hypochlorite (NaOCl) dựa vào hệ thống phân tích
hình ảnh giám sát sinh học (IABS - image analysis biomonitoring system) [28]. Hệ
thống này, có thể được sử dụng để phát hiện một phổ rộng các chất độc gây ô nhiễm
bằng sự nhạy cảm của sinh vật chỉ thị. Hệ thống áp dụng trong 9 tháng đối với nhà
máy sản xuất nước và đã phát hiện các lỗi trong quá trình vận hành nhà máy làm gia
tăng đáng kể dư lượng Clo trong nước cấp [17].
Vi khuẩn cũng đã được sử dụng trong các nghiên cứu độc học sinh thái dựa
trên sự tiêu thụ oxy (vi khuẩn respirometers), sự nitrat hóa, sản sinh CO2, sự tăng
trưởng số lượng cá thể và phát quang sinh học từ những năm 1980, đầu tiên là loài
Photobacterium phosphoreum (Kramer, 2009) [29]. Hệ thống này có thể hoạt động
tự động và độc lập dựa trên việc đánh giá, phân tích sự suy giảm phát quang của vi
khuẩn Vibrio Fischeri dưới tác động của các chất độc trong môi trường. Sự phát

9


quang được quan sát và kiểm tra so sánh với mẫu đối chứng, trên cơ sở đó, tỉ lệ độc

tính được tính toán. Hệ thống giám sát vi khuẩn phát quang này đã được xác nhận
bởi ISO 11348-1 và được ứng dụng cho giám sát nước sông và nước thải.
Động vật thân mềm hai mảnh vỏ cũng là một trong những loài sinh vật cảnh
báo được nghiên cứu từ rất sớm. Năm 1980, lần đầu tiên những kết quả về quan sát
hành vi bất thường của loài trai đối với chất ô nhiễm được công bố [30]. Hoạt động
đóng mở vỏ thực hiện chức năng hô hấp và hấp thụ thức ăn của trai, nhưng khi bị
stress, chúng đóng kín vỏ - đây được coi là hành vi trốn thoát chất ô nhiễm. Những
hệ thống cảnh báo sớm sử dụng động vật hai mảnh vỏ thường được áp dụng rất đa
dạng, có thể để giám sát nước mặt, nước ngầm, nước uống, thậm chí là nước thải,
nước nuôi trồng thủy sản hay cả thử nghiệm độc tính.
Ngoài ra, hệ thống cảnh báo sớm liên quan đến hành vi bơi của rận nước
(Daphnia sp.) lần đầu tiên được công bố bởi Knie (1978). Hệ thống đã được cải tiến
bằng cách sử dụng phương pháp phân tích hình ảnh video: Daphnia Toximeter®
(bbe Moldaenke, Kiel-Kronshagen, DE) [31]. Dựa vào các phép đo trên mỗi cá thể,
các thông số có thể được đánh giá như tốc độ di chuyển (tốc độ trung bình, tốc độ
từng phần), vị trí trong cột nước, kích thước…
Trong số rất nhiều sinh vật có thể được sử dụng để thử nghiệm nước, loài
Bèo tấm (Lemna minor, L.) được xem là đối tượng hiệu quả trong việc giám sát
thông qua phân tích các thông số ức chế sinh trưởng của nó và có thể dễ dàng quan
sát và định lượng trong các hệ thống kiểm soát. Phát hiện sự sinh trưởng bất thường
dựa trên so sánh màu sắc lá, hình dạng rễ, sự phân tách các cụm chồi, tổng diện tích
mặt lá của Bèo tấm khi phơi nhiễm với hoá chất độc và quan sát so sánh với những
đặc điểm sinh trưởng của Bèo tấm đối chứng trong môi trường nước sạch [17].
Nghiên cứu của Beklova, M đánh giá sự ảnh hưởng của Potassium dichromate hay
Kali dicromat (K2Cr2O7) lên sự tăng trưởng của Bèo tấm thông qua thử nghiệm độc
học với dãy nồng độ 5, 10, 20, 40, 80 và 160 mg/L cho thấy sự ức chế sinh trưởng
50% EC50 168 h lên tốc độ tăng trưởng và diện tích mặt lá lần lượt là 38.33 mg/L và
18,51 mg/L. Khi bất cứ sự ức chế nào với tỉ lệ lớn hơn 70% các phiến lá nhỏ của

10



Lemna minor sẽ trở nên trắng, các phiến lá to hơn sẽ trở thành màu trắng chỉ còn lại
một số đốm nhỏ màu xanh lá [32].
Một thử nghiệm độc học khác trên Bèo tấm được Vladimír DVORÁK và
cộng sự thực hiện theo hướng dẫn của ISO 20079 và ISO 6341 cho thấy sự ức chế
sinh trưởng 50% đối với Bèo tấm (Lemna gibba) khi phơi nhiễm với độc tính mãn
tính của Kali dicromat (K2Cr2O7) trong 14 ngày là 30.61 mg/L [33].
Mặc khác, các loài Bèo tấm có thể được sử dụng để loại bỏ hiệu quả ảnh
hưởng của các chất độc ô nhiễm và do đó được xem như những nhân tố thực vật
kiểm soát ô nhiễm trong môi trường tự nhiên [34].
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu có tác động khác nhau lên loài sinh vật
này, đồng thời có nhiều nghiên cứu ứng dụng Bèo tấm trong giám sát chất luợng
nguồn nuớc mặt, hay nguồn nước thải công nghiệp. Ví dụ nghiên cứu của Croatia
sử dụng Bèo tấm trong giám sát nuớc mặt tại sông Sava chịu ảnh huởng bởi nuớc
thải của ngành công nghiệp dược phẩm và thực phẩm [35]. Ngoài ra các nuớc châu
Á như Thái Lan cũng đã nghiên cứu thử nghiệm trên Bèo tấm (Lemna perpusilla,
T.) đối với thuốc trừ sâu [36].

1.2.4. Tình hình nghiên cứu sinh vật cảnh báo sớm ô nhiễm tại Việt Nam
Ở Việt Nam, bèo tấm Lemna minor được quan tâm sử dụng trong y học
truyền thống có đặc tính và tác dụng phối hợp dùng cả trong và ngoài cơ thể chữa
trị tốt các triệu chứng cảm sốt, mụn nhọt và những bệnh ngoài da [11]. Ngoài ra,
Lemna minor còn được sử dụng trong xử lý phú dưỡng môi trường nước theo cơ
chế Rhizofiltration [39] - hấp thụ các chất ô nhiễm vào bên trong rễ và được ứng
dụng trong xử lý nguồn nước bị ô nhiễm Nitơ, Phốt pho trong nước thải từ các ao
nuôi cá tra, đánh giá hiệu quả xử lý thông qua giá trị oxy hòa tan (DO), nhu cầu oxy
hóa học (COD), sinh học (BOD), tổng đạm (TN) và lân hòa tan (PO43- ) [38]. Bèo
tấm là loài có vùng phân bố rộng khắp, nguyên liệu rẻ tiền tại nước ta, có khả năng
tích tụ và xử lý ô nhiễm cao, thân thiện với môi trường. Tuy nhiên, việc nghiên cứu

chuyên sâu hơn quy trình thử nghiệm độc học đánh giá khả năng sử dụng Lemna
minor làm sinh vật chỉ thị, giám sát ô nhiễm môi trường nước vẫn còn rất mới mẻ.

11


Do đó, việc xây dựng đường chuẩn về độc học sinh thái đánh giá ô nhiễm
môi trường nước thải bằng cách sử dụng bèo tấm (Lemna minor) phù hợp với môi
trường sống của nước ta có ý nghĩa hết sức to lớn trong bối cảnh phát triển công
nghiệp ồ ạt như hiện nay.
Ở Việt Nam việc sử dụng sinh vật chỉ thị trong giám sát môi trường đang
phát triển những năm gần đây. Một số trường đại học ở Việt Nam đã được đầu tư cơ
sở vật chất để thành lập các phòng thí nghiệm về độc học sinh thái. Phòng độc học
môi trường thuộc Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) hiện
nay đã được trang bị nhiều thiết bị, máy móc như các máy độc tố tảo, cá và vi giáp
xác giúp tăng cường phát hiện độc tố trong nước cấp và nước mặt.
Các loài động vật hai mảnh vỏ cũng được nghiên cứu về khả năng tích lũy
KLN trong cơ thể, từ đó sử dụng làm sinh vật chỉ thị ô nhiễm môi trường. Theo
nghiên cứu của Nguyễn Văn Khánh, Kiều Thị Kính và Dương Công Vinh về sự tích
lũy KLN trong trầm tích và loài Ngao dầu (Meretrix Meretrix, Linnaeus, 1758) ở
một số vùng cửa sông miền Trung Việt Nam. Kết quả phân tích cho thấy có sự
tương quan chặt chẽ giữa kim loại Pb trong trầm tích và trong cơ thể loài Ngao dầu,
một số kim loại khác như Cd có tương quan vừa, Hg và Cr có tương quan thấp. Kết
quả nghiên cứu này đã bước đầu chứng tỏ khả năng sử dụng loài Ngao dầu
(Meretrix Meretrix, Linnaeus, 1758) làm sinh vật chỉ thị ô nhiễm kim loại Pb tại các
cửa sông khu vực miền Trung [12].
Một nghiên cứu khác của Nguyễn Văn Khánh và cs. (2010) về hàm lượng
As, Pb tích lũy trong loài hến (Corbicula sp.) và loài hàu sông (Ostrea rivularis
Gould, 1861) tại cửa sông Cu Đê, TP. Đà Nẵng kết quả cho thấy tích lũy KLN As
và Pb trong loài Hến và Hàu sông. Hàm lượng As ở cả hai loài Hế n và Hàu sông

đều vượt TCCP của Bộ Y tế (Hế n: 15,45±5,30 µg/g và Hàu sông: 1,23±1,08 µg/g).
Điều đáng chú ý là mặc dù hàm lượng Pb trong bùn đáy của sông Cu Đê chưa có
dấu hiệu ô nhiễm, nhưng hàm lượng Pb tích lũy trong loài Hến đã vượt TCCP 1,5
lần (3,58±2,69 µg/g). Hàm lươ ̣ng Pb trong loài Hầ u sông vẫn nằm trong TCCP
(1,04±0,81 µg/g). Sự tương quan thuâ ̣n giữa hàm lượng As, Pb trong bùn đáy và
trong loài Hến (Corbicula sp.) và loài Hàu sông (Ostrea rivularis G.) cho thấy có

12


thể sử dụng hai loài này làm sinh vật chỉ thị cho ô nhiễm As và Pb trong khu vực
cửa sông Cu Đê, thành phố Đà Nẵng [13].
Ngoài ra, trong nghiên cứu về hành vi bơi của cá Nguyễn Văn Công và cs. đã
có một nghiên cứu về ảnh hưởng của hoạt chất Cypermethrin (thuốc bảo vệ thực
vật) lên tỷ lệ sống, tần suất đớp khí trời và sinh trưởng của cá rô đồng được thực
hiện trong điều kiện phòng thí nghiệm [14].
Tại Việt Nam, Bèo tấm được sử dụng trong xử lý phú dưỡng môi trường
nước theo cơ chế Rhizofiltration- hấp thụ các chất ô nhiễm vào bên trong rễ và được
ứng dụng trong xử lý nguồn nước bị ô nhiễm Nitơ, Phốt pho trong nước thải từ các
ao nuôi cá tra, đánh giá hiệu quả xử lý thông qua giá trị oxy hòa tan (DO), nhu cầu
oxy hóa học (COD), sinh học (BOD), tổng đạm (TN) và lân hòa tan (PO43- ). Kết
quả cho thấy Lemna minor có khả năng xử lý các hợp chất hữu cơ, một số kim loại
nặng, phiêu sinh động vật và một số vi khuẩn bất lợi trong nước thải [39]. Ngoài ra,
một số nghiên cứu chuyển gen vào bèo tấm ở Việt Nam đã phát triển bắt đầu từ năm
2006. Mục đích của phương pháp này là đem những gen có ích phục vụ cho con
người để chuyển bào bèo tấm. Các nghiên cứu về nuôi cấy mô, xây dựng hệ thống
tái sinh đã được thực hiện tại Viện Di truyền nông nghiệp, Viện khoa học Nông
nghiệp Việt Nam sử dụng một số loài bèo tấm, trong đó có loài Bèo tấm (Lemna
minor [15].
Tuy nhiên, nhìn chung việc nghiên cứu chuyên sâu hơn, sử dụng Bèo tấm

làm sinh vật sinh vật cảnh báo, giám sát ô nhiễm môi trường nước vẫn đang là
hướng tiếp cận mới tại Việt Nam.

13


CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Loài Bèo tấm (Lemna minor Linnaeus, 1753)
Loài Bèo tấm (Lemna minor Linnaeus, 1753) thuộc họ Lemnaceae được thu
mẫu từ các ao, hồ tự nhiên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Lemna minor, là một loại thực vật thủy sinh thuộc họ Lemnaceae với một số
lượng loài được phân làm 4 chi (Spirodela, Lemna, Wolffiella, Wolffia) trên toàn
thế giới (Wang, 1990). Bèo tấm (Lemna minor) rất phổ biến trong tự nhiên, dễ dàng
được tìm thấy tại các ao, hồ, vùng nước tù đọng hay nước suối yên tĩnh…từ vùng
nhiệt đới đến vùng ôn đới (APHA et al., 1992). Với nhiều thuộc tính như kích thước
nhỏ, cấu trúc tương đối đơn giản, hình thức sinh sản vô tính, đồng nhất về mặt di
truyền, thời gian thế hệ ngắn và đặc biệt nhạy cảm đối với các chất hoạt động bề
mặt, các hợp chất kỵ nước (Taraldsen and Norberg-King, 1990; ASTM, 1991) nên
Lemna minor là đối tượng thuận lợi trong đánh giá và giám sát độc học môi trường
nước ở phòng thí nghiệm. Bèo tấm (Lemna minor) được sử dụng cho nghiên cứu
này là giống bèo đã được phân lập và nuôi cấy bằng phương pháp nuôi cấy trong
môi trường Swedish Standard (SIS) vô trùng.

Hình 2.1. Bèo tấm (Lemna minor Linnaeus, 1753)

14



Bèo tấm có cấu tạo thành phiến nhỏ của một loài thực vật thủy sinh rộng
không quá 5 mm, hình dạng bầu dục thường thì 2 đến 3 mm, ít khi thấy 5 mm, màu
xanh lá cây tươi sáng ở mặt trên và đậm ở mặt dưới, phiến lá sinh chồi dùng để trôi
nổi trên mặt nước, có thể nó tương đương với thân chuyển biến thành. Ở mặt dưới
phiến hiện diện 5 gân có thể thấy được dưới sự phóng đại của kính lúp, mỗi phiến
mang 1 rễ duy nhất và sống trong một môi trường nước ngọt có mặt thoáng yên tĩnh
[17]. Sự nhân giống, phân cắt rất nhanh do những chồi mầm của phiến lá. Chúng rất
hiếm khi tạo hoa và sinh sản vô tính bằng cách nảy chồi. Bèo tấm có nhiều thuộc
tính như kích thước nhỏ, cấu trúc tương đối đơn giản, thời gian thế hệ ngắn, thuận
lợi trong đánh giá và giám sát độc học trong môi trường nước tại phòng thí nghiệm.

2.1.2. Nước thải dùng trong thí nghiệm
Nước thải dùng trong thí nghiệm bao gồm nước thải đầu ra của:
+ Trạm xử lý nước thải Khu công nghiệp Hòa Cầm
+ Senvila Boutique Resort and Spa (Hội An)
+ Trạm xử lý nước thải Hòa Cường, Hải Châu, Đà Nẵng
+ Công ty sản xuất giấy bao bì Tân Long Đà Nẵng
+ Công ty TNHH Daiwa Việt Nam

2.1.3. Môi trường nuôi cấy và thí nghiệm SIS (Swedish Standard)
Môi trường dùng trong nuôi cấy và thử nghiệm SIS được chuẩn bị theo bản
hướng dẫn của (OECD, 2006) [18] với bảng thành phần được trình bày trong Phụ
lục.

2.2. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Thời gian nghiên cứu từ tháng 7/2017 đến tháng 4/2018.
- Địa điểm nghiên cứu: Phòng thí nghiệm Công nghệ sinh học của khoa Sinh
– Môi trường, trường Đại học Sư phạm, ĐHĐN.

2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

- Nghiên cứu quy trình phân lập, khử trùng và nuôi cấy Bèo tấm (Lemna
minor) trong môi trường nuôi cấy Swedish Standard (SIS) vô trùng.

15


×