Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bài tập lớn Mác 2: Lý luận Mác Lê nin về tiền tệ và ý nghĩa của việc nghiên cứu áp dụng vào thực tiễn Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.87 KB, 12 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ một nền kinh tế nông
nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được
cơ sở vật chất – kĩ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã
hội cho phát triển. Diện mạo đất nước có nhiều thay đổi, kinh tế duy trì mức
tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, đời sống nhân sân
từng bước được cải thiện đồng thời tạo ra nhu cầu và động lực phát triển cho
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đội ngũ doanh nhiệp, doanh nhân thực
sự trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện đường lối công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Những thành tựu to lớn kể trên đã tạo ra một bước ngoặt lớn đối với
nền kinh tế nước nhà, đồng thời cũng là minh chứng rõ ràng nhất cho sự sáng
suốt của Đảng và Nhà nước ta trong việc kiên quyết chuyển đổi từ nền kinh tế
hàng hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại những năm trước đổi mới ta có thể thấy, suốt một thời gian dài
chúng ta đã không nhận thức đúng vai trò của sản xuất hàng hóa, của nền kinh
tế thị trường, coi nhẹ thậm chí phủ nhận quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh,
quy luật cung – cầu, quan hệ hàng hóa – tiền tệ , chỉ thấy những mặt tiêu cực
của kinh tế thị trường. Vì vậy, chúng ta đã vô tình khiến cho các ứng dụng của
khoa học – kĩ thuật không được ứng dụng vào sản xuất, làm cho năng suất sản
xuất tăng chậm, gây rối loạn và ách tắc trong quá trình phân phối, lưu thông
khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, kém năng động. Thậm chí trong
bối cảnh hiện tại, nền kinh tế tuy đã có những đột phá vượt bậc so với thời kì
trước, song việc nghiên cứu và hiểu rõ những lý thuyết tiền tệ vẫn là điều hết
sức cần thiết để áp dụng vào việc ổn định nền kinh tế vĩ mô và phát triển nền
kinh tế quốc dân.
Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tế của vấn đề, đề tài “Lý luận của


Chủ nghĩa Mác Lê-nin về tiền tệ và ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật
tiền tệ đối với việc xây dựng chính sách tiền tệ hiện nay” sẽ hệ thống hóa,
phân tích vấn đề một cách khách quan lý luận tiền tệ của Mác Lê-nin và việc
áp dụng thực tế với nền kinh tế Việt Nam.
Do hạn chế về hiểu biết nên bài viết khó tránh khỏi thiếu sót, mong cô
chỉ bảo góp ý để bài viết thêm sâu sắc!


NỘI DUNG
I.

Lý luận về tiền tệ của Chủ nghĩa Mác Lê-nin
1. Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ
1.1 Lịch sử ra đời của tiền tệ
Mọi hàng hóa đều có giá trị, giá trị của hàng hóa do lao động của con
người tạo ra trong quá trình sản xuất, nhưng nó chỉ bộc lộ ra bên ngoài trong
quá trình lưu thông. Ngày nay giá trị của mọi thứ hàng hóa đều được biểu
hiện bằng tiền. Khi nghiên cứu về tiền, Mác viết: “Tiền là một vật được kết
tinh, hình thành một cách tự nhiên trong trao đổi”. Như vậy, tiền đề cho sự ra
đời và phát triển của tiền tệ là sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa.
Trong lịch sử thoạt đầu người ta trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. Khi
sản xuất càng phát triển, hàng hóa sản xuất ra càng nhiều, nhu cầu sử dụng
của con người cũng đi kèm theo. Việc trao đổi hàng lấy hàng gặp nhiều khó
khăn. Ví dụ người sản xuất lúa gạo cần liềm để gặt lúa nhưng người sản xuất
kiềm lại không muốn lúa mà muốn vải, việc này buộc người sản xuất lúa phải
đổi lấy vải rồi dùng vải đổi lấy liềm. Nhu cầu trao đổi càng nhiều hàng hóa thì
quá trình trao đổi càng lòng vòng phức tạp hơn. Chính vì vậy, người ta đã
nghĩ ra các vật làm trung gian trong các cuộc trao đổi, đó là vật ngang giá.
Lịch sử đã ghi nhận sự phát triển của hình thái giá trị qua bốn gia đoạn:
• Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: Khi một hàng hóa

ngẫu nhiên phản ánh giá trị của một hàng hóa khác.
VD: 1m vải = 10kg thóc
• Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: Khi nhiều hàng hóa đề có
khả năng trở thành vật ngang giá để thể hiện giá trị của một vật
nào đó.
VD:
1m vải = 10 kg thóc
hoặc
1m vải = 2 con gà
hoặc
1m vải = 0,1 chỉ vàng
• Hình thái chung của giá trị: Khi vật trung gian được cố định lại ở
thứ hàng hóa được nhiều người ưa chuộng, thì hình thái chung
của gái trị xuất hiện. Tất cả các hàng hóa đều biểu hiện giá trị
của mình ở cùng một thứ hàng hóa nào đó đóng vai trò là vật
ngang giá chung. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định là
một hàng hóa nào.
VD:
10 kg thóc = 1m vải
hoặc
2 con gà = 1m vải
hoặc
0,1 chỉ vàng = 1m vải
• Hình thái tiền tệ: Khi vật ngang giá chung được quy định là một
vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.
Lúc đầu có nhiều kim loại đóng vai trò là tiền tệ nhưng về sau
quy định là vàng và bạc, cuối cúng là vàng. Sở dĩ vàng và bạc
đóng vai trò là tiền tệ do các ưu điểm: thuần nhất về chất, dễ chia



nhỏ, không hư hỏng, với một lượng và thể tích nhỏ nhưng chức
đựng lượng giá trị lớn.
1.2. Bản chất của tiền tệ
Từ lịch sử phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa, từ sự phát triển
của các hình thái giá trị hàng hóa, Các Mác đã tìm thấy nguồn gốc và bản chất
của tiền tệ: “Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật ngang giá
chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện lao động xã hội và
biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.”
Như vậy, xét về bản chất tiền tệ là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa
đã phát triển cao, một thứ hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá
chung, thước đo giá trị chung của mọi hàng hóa và tài sản khác. Tiền có khả
năng trao đỏi trực tiếp với mọi hàng hóa: vật chất và phi vật chất, mọi tài sản
lớn nhỏ.
Bản chất của tiền là một hàng hóa đặc biệt, độc quyền làm vật ngang
giá chung, vật trung gian trao đổi hàng hóa, vật biểu hiện quan hệ xã hội của
mọi người trong nền kinh tế. Bản chất của tiền tệ thể hiện đầy đủ qua các
chức năng của nó.
2. Các chức năng của tiền tệ
Theo Mác, tiền tệ có năm chức năng sau:
2.1. Thước đo giá trị
Tiền tệ dùng để biểu hiện và đo lường giá trị của các hàng hóa. Muốn
đo lường giá trị cảu các hàng hóa, bản thân tiền tệ cũng phải có giá trị. Vì vậy,
tiền tệ có chức năng thước đo giá trị phải là tiền vàng.
Để đo lường giá trị hàng hóa không nhất thiết phải là tiền mặt mà chỉ
cần so sánh với một lượng vàng nào đó trong ý tưởng. Sở dĩ có thể làm được
như vậy là vì giữa giá trị cảu vàng và giá trị của hàng hóa trong thực tế đã có
một tỉ lệ nhất định. Cơ sở của tỉ lệ đó là thời gian lao động xã hội cần thiết
hao phí để sản xuất hàng hóa đó.
Gía trị hàng hóa được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa. Nói
cách khác, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa.

Gía cả hàng hóa chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố sau đây:
• Gía trị hàng hóa.
• Gía trị của tiền.
• Quan hệ cung – cầu về hàng hóa.
Nhưng do giá trị hàng hóa là nội dung của giá cả nên trong ba nhân tố
nêu trên thì giá trị vẫn là nhân tố quyết định giá cả.
Để tiền được làm chức năng thước đo giá trị thì bản thân tiền tệ cũng
phải được quy đinh một đơn vị tiền tệ nhất định làm tiêu chuẩn đo lường giá
cả của hàng hóa. Đơn vị đó là một trọng lượng nhất định cảu kim loại dùng
làm tiền tệ. Ở mỗi nước, đơn vị tiền tệ có tên gọi khác nhau. Đơn vị tiền tệ và
các phần chia nhỏ của nó là tiêu chuẩn giá cả. Tác dụng của tiền khi làm tiêu
chuẩn giá cả không giống với tác dụng của nó khi làm thước đo giá trị. Là


thước đo giá trị, tiền tệ đo lường giá trị của các hàng hóa khác; là tiêu chuẩn
giá cả, tiền tệ đo lường bản thân kim loại dùng làm tiền tệ.
2.2. Phương tiện lưu thông
Tiền làm môi giới trong quá trình trao đổi hàng hóa. Để làm chức năng
lưu thông hàng hóa đòi hỏi phải có tiền mặt. Trao đổi hàng hóa lấy tiền mặt
làm môi giới gọi là lưu thông hàng hóa.
Công thức lưu thông hàng hóa là: H - T – H, khi tiền làm môi giới trong
trao đổi hàng hóa đã làm cho hành vi bán và hành vi mua có thể tách rời nhau
về cả không gian và thời gian. Sự không nhất trí giữa mua và bán chứa đựng
mầm mống của khủng hoảng kinh tế.
Ở mỗi thời kì nhất định, lưu thông hàng hóa bao giờ cũng đòi hỏi một
lượng tiền cần thiết cho lưu thông, số lượng tiền này được xác định đởi quy
luật chung của lưu thông tiền tệ.
Qúa trình hình thành tiền giấy: Lúc đầu tiền xuất hiện dưới dạng vàng
thoi, bạc nén. Dần dần nó được thay thế bằng tiền đúc. Trong quá trình lưu
thông, tiền đúc bị hao mòn dần và mất một phần giá trị của nó. Nhưng nó vẫn

được xã hội chấp nhận như tiền đúc đủ giá trị. Như vậy, giá trị thực của tiền
tách rời giá trị danh nghĩa của nó. Sở dĩ có tình trạng này vì tiền làm phương
tiện lưu thông chỉ đóng vai trò trong chốc lát. Người ta đổi hàng lấy tiền rồi
dùng nó để mua hàng mình cần. Làm phương tiện lưu thông, tiền không nhất
thiết phải có đủ giá trị.
Lợi dụng tình hình đó, khi đúc tiền nhà nước tìm cách giảm hàm lượng
kim loại của đơn vị tiền tệ. Gía trị thực của tiền đúc ngày càng thấp so với giá
trị danh nghĩa của nó. Thực tiễn đó dẫn đến sự ra đời của tiền giấy. Bản thân
tiền giấy không có giá trị mà chỉ là kí hiệu của giá trị, do đó việc in tiền giấy
phải tuân theo quy luật lưu thông của tiền giấy.
2.3. Phương tiện cất trữ
Làm phương tiện cất trữ, tức là tiền được rút khỏi lưu thông đi vào cất
trữ. Sở dĩ tiền làm được chức năng này là do tiền đại biểu cho của cải xã hội
dưới hình thái giá trị nên cất giữ tiền là một hình thức cất trữ của cải.
Để làm được chức năng phương tiện cất trữ, tiền phải có đủ giá trị, tức
là tiền vàng, bạc. Chức năng cất trữ làm cho tiền lưu thông thích ứng một
cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết cho lưu thông. Nếu sản xuất tăng,
lượng hàng hóa nhiều thì tiền cất trữ được đưa vào lưu thông. Ngược lại, nếu
sản xuất giảm, lượng hàng hóa lại ít thì một phần tiền rút khỏi lưu thông đi
vào cất trữ.
2.4. Phương tiện thanh toán
Làm phương tiện thanh toán, tiền được dùng để trả nợ, nộp thuế, trả
tiền mua chịu hàng,… Với chức năng này, tiền có thể là tiền mặt, séc, chuyển
khoản, thẻ tín dụng,… Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển đến một
trình độ nhất định nào đó thì tất yếu nảy sinh việc mua bán chịu. Trong việc
mua bán chịu, người mua trở thành con nợ, người bán trở thành chủ nợ. Khi
hệ thống con nợ và chủ nợ phát triển rộng rãi, đến kì thanh toán, nếu một


khâu nào đó không thanh toán được sẽ gây khó khăn cho các khâu khác, phá

vỡ hệ thống, khả năng khủng hoảng kinh tế tăng lên.
2.5. Tiền tệ thế giới
Khi quan hệ mua bán giữa các quốc gia xuất hiện thì tiền tệ làm chức
năng tiền tệ thế giới, tức là thanh toán quốc tế. Làm chức năng tiền tệ thế giới
phải là tiền vàng hoặc là tiền tín dụng được thừa nhận thanh toán quốc tế.
Việc đổi tiền của một quốc gia này thành tiền của một quốc gia khác được tiến
hành theo tỷ giá hối đoái – đó là giá cả đồng tiền của một quốc gia này so với
đồng tiền của quốc gia khác.
3. Quy luật giá trị
3.1. Nội dung của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông
hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự tồn tại và phát
huy tác dụng của quy luật giá trị.
Sự vận động của quy luật giá trị thông qua sự vận động của giá cả hàng
hóa. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị,
nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá
cả của nó càng cao và ngược lại. Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ
thuộc vào nhiều nhân tố khác như cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng
tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm giá cả hàng hóa trên thị trường tách
rời với giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả
thị trường của hàng hóa xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt
động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động giá cả thị trường mà quy
luật giá trị phát huy tác dụng.
3.2. Yêu cầu của quy luật giá trị
• Thứ nhất, theo quy luật này, sản xuất hàng hóa được thực hiện
theo hao phí lao động xã hội cần thiết, nghĩa là cần tiết kiệm lao
động ( cả lao động quá khứ và lao dộng sống) nhằm: đối với
hàng hóa thì giá trị của nó phải nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao
động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa đó, tức là giá cả thị
trường của hàng hóa.

• Thứ hai, trong trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá,
nghĩa là phải đảm bảo bù đắp được chi phí cho người sản xuất
( tất nhiên chi phí đó phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã
hội cầm thiết, chứ không phải bất kì chi phí cá biệt nào) và đảm
bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng.
3.3. Tác động của quy luật giá trị
Trong sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác động chủ yếu sau:
3.3.1
Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Điều tiết sản xuất tức là điều hòa, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác động này của quy luật giá trị thông
qua sự biến động giá cả hàng hóa trên thị trường dưới tác động của quy luật
cung – cầu.


• Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng
hóa sản xuất ra có lãi, bán chạy. Gía cả cao hơn sẽ kích thích mở
rộng và đẩy mạnh sản xuất để tăng cung, ngược lại cầu sẽ giảm
vì giá tăng.
• Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với
nhu cầu, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất
không có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất sẽ ra quyết định
ngừng hoặc giảm sản xuất, ngược lại, giảm sản xuất sẽ kích thích
tăng cầu, tự nó làm nhân tố cho cung tăng.
• Cung cầu tạm thời cân bằng, giá cả trùng khớp với giá trị. Bề
mặt kinh tế thường gọi là “bão hòa”.
Tuy nhiên, nền kinh tế luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu
cũng biến động liên tục. Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn
đến sự di chuyển sức lao động và tư liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất
khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất cảu quy luật giá trị.

Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả
trên thị trường. Sự biến động của giá cả trên thị trường cũng có tác dụng thu
hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm lưu thông
hàng hóa thông suốt.
Như vậy, sự biến động của giá cả thị trường không những chỉ rõ sự biến
động về kinh tế mà còn tác động điều tiết nền kinh tế hàng hóa.
3.3.2. Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng
suất lao động, thức đầy lự lượng sản xuất xã hội phát triển
Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ
thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt đông sản xuất kinh doanh của mình.
Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên nên hoa phí lao động cá biệt của
mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hoa phí lao động cá biệt nhỏ hơn
hao phí lao động xã hội của hàng hóa sẽ ở thế có lợi, thu được lãi cao. Người
sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lơn hơn hao phí lao động xã hội của
hàng hóa sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh, tránh
nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình,
sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm
cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ,
tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩyquá trình này
diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng xã hội được
thúc đấy phát triển mạnh mẽ.
3.3.3. Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa người sản xuất
hàng hóa thành người giàu, người nghèo.
Qúa trình cạnh tranh theo đuổi gái trị tất yếu dẫn đến kết quả: những
người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ
thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần
thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng.Họ mua sắm thêm tư liệu sản
xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, những người không có điều



kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên thua lỗ
dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.
II. Ý nghĩa cuả quy luật lưu thông tiền tệ và vận dụng quy luật lưu thông
tiền tệ tại Việt Nam
1. Nội dung quy luật lưu thông tiền tệ
Xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông của mỗi quốc gia trong
từng thời kỳ.
Giữa các quốc gia số lượng các phương tiện là tiền không giống nhau.
Điều này hoàn toàn phụ thuộc vào quy chế tài chính và sự tiến bộ của công
nghệ ngân hàng ở mỗi quốc gia. Còn tổng khối lượng các phương tiện được
coi như tiền là bao nhiêu thì khó xác định được chính xác, như các tác nhân
phát hành, chế độ, phương thức sử dụng phương tiện lưu thông, không gian
và thời gia nghiên cứu, phương pháp thống kế,… từ căn cứ này định nghĩa về
khối lượng tiền trong lưu thông được nêu ra như sau: khối lượng tiền trong
lưu thông là chỉ tất cả các phương tiện được chấp nhận là trung gian trao đổi
với mọi hàng hóa và dịch vụ tại một thị trường nhất định và trong một khoảng
thời gian nhất định.
 Cung ứng tiền cho lưu thông:
Ngân hàng phát hành là tác nhân cung ứng tiền trực tiếp và quan trọng
nhất cho lưu thông, ngân hàng phát hành cung ứng tiền cho lưu thông qua các
nghiệp vụ chủ yếu sau:
 Tái chiết khấu các thương phiếu, các chứng chỉ, tiền gửi và các
chứng từ có giá khác của ngân hàng thương mại và các tổ chức
tín dụng.
 Tái cầm cố các thương phiếu, các chứng chỉ tiền gửi và các
chứng từ có giá khác của các ngân hàng thương mại.
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng cung ứng tiền cho
lưu thông bằng cách:
 Cho khách hàng vay nguồn vốn của mình
Nguồn vốn của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng là

một lượng tiền có hạn. Nhưng có nhiều trường hợp các tổ chức này đã cho
khách hàng vay quá nguồn vốn hiện có. Số cho vay vượt mức trên là số tiền
không có thực do ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng tạo ra.
 Cho khách hàng “thấu chi”, thể hiện: Xử lí chứng từ thanh toán
cho khách hàng bằng cách ghi “có” trước và ghi “nợ” sau.
Cho khách hàng phát hành séc quá số dư tiền gửi trên tài khoản của họ.
Những nghiệp vụ này được gọi là nghiệp vụ tạo tiền của ngân hàng
thương mại. Tùy theo quy chế tài chính của nhà nước và nghiệp vụ kiểm tra
của ngân hàng trung ương mà nghiệp vụ này sẽ được thục hiện ở một mức độ
nào đó, hoặc bị ngăn cấm, nghiệp vụ này vẫn sẽ diễn ra và một lượng tiền nòa
đó vẫn được tạo ra trong lưu thông. Tuy lúc đầu chúng chỉ tồn tại dưới dạng
bút tệ, nhưng chúng sẽ phát huy chức năng phương tiện thanh toán như những


đồng tiền thực sự. Đồng thời trong một thời gian ngắn chúng có thể chuyển
hết thành các phương tiện truyền tải giá trị khác nhau.
 Các tác nhân và tổ chức phi ngân hàng cũng cung cấp cho nền
kinh tế quốc dân các phương tiện truyền tải giá trị như: thương
phiếu, tín phiếu kho bạc, công trái, trái khoán công ty,…
 Nhu cầu tiền trong lưu thông
Số tiền do các tác nhân và thể nhân giữ lại vì một mục đích nào đó hợp
lại thành tổng cầu tiền. Về mặt kinh tế tiền giữ lại không sinh lời. Thời gian
giữ lại càng lâu, lợi tức mất đi càng lớn, nó trái ngược với đầu tư. Do đó, các
tác nhân và thể nhân chỉ giữ lại tiền khi có khoản lợi ích nào đó bù đắp vào
phần lợi tức bị mất ở trên.
2. Ưu , nhược điểm của quy luật lưu thông tiền tệ
 Ưu điểm:
• Là căn cứ để chính phủ phát hiện lượng tiền cần thiết cho lưu
thông, đặt nền tảng cho cơ sở khoa học và phương pháp luận của
việc quản lý lưu thông tiền tệ.

• Giúp cho hệ thống ngân hàng nhà nước và kinh doanh điều hòa
lưu thông tiền tệ khống chế, kiểm soát lạm phát, củng cố sức
mua để đồng tiền chuyển đổi.
• Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo hướng ngày một
vững bền. Thúc đẩy tăng trưởng và cải thiện vật chất.
 Nhược điểm:
• Thiếu tính hiện thực vì tổng giá cả hàng hóa, dịch vụ đưa vào lưu
thông khó xác định chính xác, tốc đọ lưu thông bình quân của
tiền cũng khó xác định chính xác.
• Chưa có một nền kinh tế nào có thể thỏa mãn toàn bộ điều kiện
giả thiết của Mác khi mà quy luật lưu thông tiền tệ của Mác chưa
đề cập đến số cung và số cầu tiền tệ của một nền kinh tế chịu tác
động bởi các yếu tố nào.
3. Nguyên nhân
Lịch sử đã cho thấy quá trình trao đổi giữa hàng hóa và tiền tệ là quá
trình diễn ra tất yếu của xã hội loài người. Nó đóng vai trò quan trong giúp
đồng tiền sinh lời và là phương tiện để trao đổi hàng hóa thúc đẩy nền kinh tế
phát triển.
Nghĩa là tiền tệ và hàng hóa không thể tách rời nhau, nó tồn tại và biến
động theo một quy luật khách quan của tình hình giá cả đất nước hay tình
hình giá cả thê giới. Nói cách khác quy luật lưu thông tiền tệ phụ thuộc vào sự
phát triển hay những biến động của nền kinh tế thị trường.
Các ngân hàng quốc gia thường theo đuổi một mục đích thực tế và cố
định khi điều chỉnh lượng tiền. Mục đích này thường là bình ổn giá, tức là
chống lại lạm phát . Đer có thể giới hạn tỷ lệ lạm phát ở một mức độ hợp lý


với nền kinh tế quốc dân, ngân hàng quốc gia cố gắng giữ lượng tiền đồng bộ
với sự phát triển kinh tế.
Đặc biệt, trong nền kinh tế của nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển

của đất nước đang trên con đường hướng tới CNXH, vấn đề này càng được
quan tâm, từ đó có những chiến lược lâu dài đẩy mạnh phát triển kinh tế, đẩy
lùi lạm phát tới mức thấp.
III.
Giải pháp quy luật lưu thông tiền tệ ở Việt Nam và lạm phát
1. Giải pháp
1.1. Giải pháp cấp bách
Những biện pháp chống lạm phát cấm bách còn gọi là những biện pháp
tình thế, những biện pháp này được áp dụng với mục đích giảm tạm thời “cơn
sốt lạm phát”, để có cơ sở áp dụng những biện pháp ổn định lâu dài.
Khi xảy ra tình trạng lạm phát phi mã hoặc siêu lạm phát thì những
biện pháp tình thế thường được áp dụng là:
• Ngừng phát hành tiền vào lưu thông, biện pháp này còn được gọi
là “ đóng băng tiền tệ”. Nghĩa là các tác nhân và thể nhân có bao
nhiêu tiền thì sử dụng bấy nhiêu. Ngân hàng phát hành tạm
ngưng thực hiện nghiệp vụ “tái chiết khấu” và “tái cầm cố”.
Ngay cả số bội chi ngân sách cũng không được sử dụng vốn phát
hành. Mục đích của biện pháp này là không cho tiền tăng thêm
trong lưu thông.
• Tăng lãi suất tiền gửi, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm. Biện pháp
này có tác dụng thu hút tiền mặt của dân cư và doanh nghiệp,
ngân hàng , giảm “sức ép” đối với hàng hóa trên thị trường. Để
hút mạnh tiền mặt ngoài lưu thông vào trong tiết kiệm thì mức lãi
suất phải hấp dẫn. Đến khi tỷ lệ lạm phát giảm thì ngân hàng
cũng giảm mức lãi suất tiết kiệm.
• Cắt giảm khoản chi phí chưa cấp bách từ ngân sách như chi phí
cho văn hóa, giáo dục, y tế,… chưa thật cấp thiết. Hoàn được chị
phí này cũng sẽ làm “dịu” đi tình hình lạm phát.
• Bán ngoại tệ và vàng ngằm mục đích hút tiền mặt từ lưu thông
vào ngân hàng.

• Khuyến khích tự do mậu dịch, nơi nỏng thuế quan nhằm mục
đích tăng quỳ hàng hóa tiêu dùng, cân đối với lượng tiền lưu
thông.
• Vay và xin viện trợ từ nước ngoài.
• Cải cách tiền tệ: Đây là biện pháp bắt buộc khi lạm phát ở mức
độ cao, mà các biện pháp trên chưa mang lại kết quả như mong
muốn.
1.2. Những biện pháp ổn định chiến lược
Đây là những biện pháp có tác động lâu dài đến sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân. Tổng thể những biện pháp này sẽ tạo nên sức mạnh kinh tế


của đất nước, xác lập cơ sở ổn định tiền tệ vững chắc. Trong thực tiễn những
biện pháp thường được áp dụng là:
• Xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển sản xuất và lưu thông
hàng hóa của nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ nguyên lý “lưu
thông hàng hóa là tiền đề của lưu thông tiền tệ”, nên nếu quỹ
hàng hóa được tạo ra với số lượng lớn, phong phú về chủng loại,
gái cả ổn định thì đây sẽ là tiền đề vững chắc nhất để ôn định lưu
thông tiền tệ. Thực tế cũng cho thấy các nước có nền kinh tế tiền
tệ phát triển là những nước có đồng tiền mạnh và là những ngoại
tệ tự do chuyển đổi cử thế giới. Phấn đấu để đạt được kết quả này
không phải là vấn đề đơn giản. Nôi dung cốt lõi ở đây là sự kết
hợp nhần nhuyễn giữa kế hoạch và thị trường trong thời kì dài và
từng giai đoạn của nên kinh tế quốc dân.
• Tạo ngành sản xuất hàng hóa “mũi nhọn” cho xuất khẩu. Xuât
khẩu là hoạt dộng kinh tế quan trọng và không thể thiếu được
trong điều kiện mở rộng giao lưu kinh tế quốc tế hiện nay. Hoạt
động này mở rộng và phát triển sẽ đem lại nguồn thu ngoại tệ
quan trọng nhất để nhập hàng hóa từ bên ngoài, bổ sung cho khối

lượng hàng hóa trong nước, tạo cơ sở để ổn định tiền tệ. Tùy
thuộc vào điều kiện đặc thù về tài nguyên, lao động, xã hội, mỗi
quốc gia phải tự tạo cho mình một ngành sản xuất “mũi nhọn”
mang tính độc quyền quốc tế, ngành “mũi nhọn” này sẽ đóng vai
trò quyết định trong việc tạo nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia.
• Cắt giảm biên chê, kiện toàn bộ máy hành chính. Đây là biện
pháp hành chính với mục đích giảm nhẹ các khoản chi từ ngân
sách nhà nước. Giảm nhẹ được những khoản chi này sẽ đem lại
hiệu quả thiết thực đổi với việc ổn định lưu thông tiền tệ ở Việt
Nam. Vấn đề được quan tâm là giảm bớt số đầu doanh nghiệp do
nhà nước quản lí đồng thời tinh giảm số nhân viên hành chính,
viên chức, công chức. Như vậy số tiền chi lương từ ngân sách
nhà nước sẽ giảm đi.
• Soát xét thường xuyên chính sách thu chi của nhà nước: nhằm
mục đích gia tăng nguồn thu, không bỏ sót khoản thu, giảm số
chi , tiết kiệm khoản chi, ổn định ngân sách vững chắc,. Nếu
ngân sách thường xuyên cân đối, có bội thu thì chắc chắn lưu
thông tiền tệ sẽ ổn định.
• Lạm phát để chống lạm phát: Đây là biện pháp có vẻ như “không
hợp lý”, nhưng sẽ tạo ra sự hợp lý để ổn định lưu thông tiền tệ.
Đối với những quốc gia có nhiều tiềm năng về lao động, đất đai,
tài nguyên,… nhưng chưa được khai thác vì thiếu vốn, nhà nước
có thể mạnh dạn phát hành để đầu tư và biết sử dụng nguồn vốn
này đúng hướng và đúng lúc, nó sẽ là yếu tố liên kết các tiềm


năng với nhau. Chắc chắn sự “lạm phát” sẽ tạo ra kết quả ổn định
tiền tệ như mong muốn.
2.Quan điểm cá nhân
Chính phủ cần rà soát lại toàn bộ chính sách vĩ mô và quyết định chính

sách dựa trên trọng số tác động của chúng:
 Rà soát lại mục tiêu tăng trưởng GDP hằng năm theo hướng thấp
và ổn định hơn cho đên khi nào lạm phát ở mức 5-6%/năm. Đây
là hướng hữu hiệu và trực tiếp nhất để kiểm soát lạm phát đang ở
mức báo động. Mục tiêu hàng đâu là nên giảm tổng cầu của nền
kinh tế. Chính phủ phải cân nhắc lại những chính sách hiện tại
của mình, nhất là việc khuyến khích một tỷ lệ đầu tư cao trong
GDP như là mọt phương pháp để đạt tăng trưởng cao. Kết quả là
tỷ số ICOR của Việt Nam hiện nay rất cao và điều này thể hiện
sự kém hiệu quả của lượng vốn đầu tư. Đây là thời điểm chính
phủ nên khuyến khích những dự án đầu tư, trong khu vực công
lẫn tư nhân, sử dụng ít nguồn lực nhưng đem lại năng suất cao
hơn nhằm thúc đẩy hiệu qủa của lượng vốn chi tiêu. Đây cũng là
cách làm giảm sức ép lên tình trạng thắt cổ chai ở phía cungtrong
tất cả các khu vực trong nền kinh tế nhằm giảm sức ép lên lạm
phát.
 Để đạt được những mục tiêu trên, Chính phủ cần tạo cho Ngân
hàng Nhà nước cơ chế độc lập hơn trong quyết định những chính
sách sau:
- Hạn chế mở rộng tiền tệ và tín dụng, đặc biệt là hạn chế tín
dụng ngân hàng cho các cá nhân vay để mua chúng khoán và
bất động sản; doanh nghiệp nhà nước; các chương trình cho
vay xã hội.
- Tăng lãi suất cho vay trong hệ thống ngân hàng, một phân sẽ
tác động lên lãi suất cho vay liên ngân hàng và các hoạt động
cho vay cầm cố giấy tờ có giá.
- Tăng thêm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
 Cho phép tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn nhằm giảm tỷ lệ lạm phát,
mặc dù điều này có thể làm giảm mức xuất khẩu.
 Ngân hàng Trung ương phát hành trái phiếu có lãi suất cao nhằm

làm giảm tính thanh khoản đang vượt mức trong nền kinh tế.
 Nếu cần thiết, nền kiểm soát các dòng vốn đi vào nhằm làm giảm
tác động tạo ra sức ép lên lạm phát. Điều này phải được xử lý
một cách khéo léo nhằm làm giảm tác động bất lợi lên thị trường
chứng khoán.


KẾT LUẬN
Rõ ràng, quy luật lưu thông tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc kiềm chế lạm phát đối với nền kinh tế quốc dân nước ta hiện nay. Chúng
ta nhận thức rằng lạm phát trở thành một căn bệnh kinh niên của nền kinh tế
và vấn đề đấu tranh chống lạm phát trở thành mục tiêu phấn đấu hàng đầu
Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc phát triển đất nước theo định hướng
XHCN. Tình hình diễn biến lạm phát ở Việt Nam hết sức phức tạp. Sự cải
cách không đồng bộ giữa giá cả và quản lý kinh tế dẫn đến khủng hoảng trầm
trọng. Thành công trong công cuộc chống lạm phát năm 1989 đưa đất nước
vượt lên chính là sự đổi mới trong nhận thức của Đảng và Nhà nước ta. Tuy
nhiên, chúng ta không được phép chủ quan bởi lạm phát luôn rình rập và đe
dọa chúng ta bất cứ lúc nào. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta phải luôn
thận trọng trong mỗi bước đi của mình để đảm nảo nền kinh tế nước ta phát
triển mạnh làm tiền đề cho sự phát triển khoa học, công nghệ, văn hóa, giáo
dục,…
Bài viết giúp đem lại sự hiểu biết cơ bản cho người đọc về quy luật lưu
thông tiền tệ và tác động của nó trong việc giúp cho nền kinh tế kìm hãm lạm
phát ơ mức độ hợp lý.
Em xin trân thành cảm ơn!







CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lê-nin, NXB
Chính trị Quốc gia Sự thật.
/>Vietnamnet.vn
www.agro.gov.vn



×