Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

CÁCH VIẾT mở bài và NHAN đề văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145 KB, 24 trang )

* Dạng đề thành phố Hải Phòng:
Đề bài: Viết một bài văn ngắn cảm nhận về khổ thơ cuối trong "Bài thơ về tiểu đội
xe không kính" của Phạm Tiến Duật.
I. Mở bài:
- Giới thiệu được tác giả Phạm Tiến Duật.
- Giới thiệu được “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
- Giới thiệu được nội dung khái quát của đoạn thơ.
II. Thân bài:
1. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài ):
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" được Phạm Tiến Duật sáng tác vào năm 1969 - đây là
thời điểm gay go, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cảm hứng từ những chiếc
xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người lính
lái xe ngày và đêm đối mặt với bom đạn của giặc Mĩ, đối mặt với cái chết.Họ đã thể hiện
tinh thần quả cảm, ý chí gang thép của người chiến sĩ cách mạng; tình đồng chí đồng đội
gắn bó; và đặc biệt là trái tim yêu nước, yêu đời - một trái tim luôn đập vì miền Nam thân
thương được thể hiện ở khổ thơ cuối.
2. Hình ảnh những chiếc xe không kính ( Sự khốc liệt, dữ dội của chiến tranh ):
- Ở phần đầu bài thơ, tác giả đã giải thích rất đơn giản mà sắc sảo : "Không có kính
không phải vì xe không có kính" bởi vì : "Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Như vậy,
bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe trở nên biến dạng. Tới khổ thơ kết, hình
ảnh những chiếc xe không kính được lặp lại như để nhấn mạnh thêm về hiện thực chiến
tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua:
"Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước"
- Phép liệt kê, điệp ngữ “không có” lặp lại ba lần như nhân lên để tổng kết cái khó khăn,
khốc liệt của chiến tranh, càng đi vào sâu tới những chiến trường thì càng nguy hiểm
hơn.
- Và minh chứng cho sự khốc liệt đó là những chiếc xe tải mang trên mình đầy thương
tích, với đèn không có, mui không có, cửa kính vỡ, thùng bị xước, bị biến dạng. Trận
đánh đến gần ngày toàn thắng thì thử thách đối với người lính càng lớn, hi sinh mất mát
chắc chắn sẽ càng nhiều.


=> Bằng giọng thơ mộc mạc, đậm chất văn xuôi, hai câu thơ đã gợi lên trong lòng người
đọc những gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn mà người lính phải đối mặt.
Khó khăn lại chồng chất khó khăn.
3. Vẻ đẹp của người lính lái xe - ý chí chiến đấu, giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước.
- Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn
bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước. Hai câu thơ cuối làm
sáng ngời tứ thơ về tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ: họ mang trong mình sức mạnh của
tình yêu với miền Nam, với lí tưởng độc lập tự do và thống nhất đất nước:
"Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim"
1


- Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng chiếc xe nhưng không đè bẹp được tinh thần, ý
chí chiến đấu của những chiến sĩ lái xe. Xe vẫn chạy không chỉ vì có động cơ máy móc
mà còn có một động cơ tinh thần “Vì miền Nam phía trước”.
- Đối lập với tất cả những cái “không có” ở trên là một cái “có”. Đó là trái tim - một hình
ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh của người lính, sức mạnh con người đã chiến thắng bom
đạn kẻ thù.
- Trái tim ấy thay thế cho tất cả những thiếu thốn “không kính, không đèn, không nản”
hợp nhất với người chiến sĩ lái xe thành một cơ thể sống để tiếp tục tiến lên phía trước
hướng về miền Nam thân yêu.
- Trái tim yêu thương, trái tim can trường của người chiến sĩ lái xe trở thành nhãn tự bài
thơ, cô đúc ý toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng
người đọc.
- Trái tim người lính toả sáng rực rỡ mãi đến mai sau khiến ta không quên một thế hệ
thanh niên thời kỳ chống Mỹ oanh liệt của dân tộc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi chống Mĩ
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”

4. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật:
- Thơ là thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Phạm Tiến Duật đã thể hiện
thành công tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam yêu nước trong những năm tháng đánh Mỹ hi
sinh gian khổ mà vĩ đại của dân tộc ta.
- Đoạn thơ cũng như cả bài thơ đã rất thành công trong việc kết hợp linh hoạt thể thơ 7
chữ và 8 chữ, sử dụng chất liệu hiện thực độc đáo, giọng điệu ngang tàn, có cả chất
nghịch ngợm....
III. Kết bài:
Ngày hôm nay không còn bom đạn, chiến tranh nữa mà thay thế vào đó là những khó
khăn, thử thách của cuộc sống. Chúng ta, đặc biệt là những thế hệ trẻ, cần học tập theo
những thế hệ cha anh, cần lạc quan trước những gian khổ, cần biết sống có lỉ tưởng, cần
yêu hơn đất nước mình, nhân dân mình, để sống thật ý nghĩa, để thay một lời cảm ơn đến
nhà thơ Phạm Tiến Duật, đến những thé hệ đi trước đã ngã xuống để dệt nên trang sử
vàng.

2


Đề bài: NHÀ BÁC HỌC QUA SÔNG
“Một hôm, có một nhà bác học ngồi trên một con thuyền qua sông. Ngồi không, cảm thấy
buồn chán, nhà bác học bèn nói chuyện với người chèo thuyền. Ông ta ngẩng cao đầu,
kiêu ngạo hỏi:
– Anh có nghiên cứu triết học không? Đó là thứ học vấn cần thiết nhất trên thế giới đấy!
Im lặng hồi lâu, người chèo thuyền trả lời một cách ngượng ngập:
– Tôi suốt ngày chỉ biết chèo thuyền, không có thời gian nghiên cứu triết học.
– Như vậy là anh đã lãng phí mất nửa cuộc đời rồi – nhà bác học nói. Nói xong ông ta
quay mặt ra ngoài, ngắm nhìn sông nước, không nói chuyện với người chèo thuyền nữa.
Nào ngờ, một lúc sau, trời nổi giông bão, con thuyền đã xa bờ, chao đảo trong sóng gió,
lúc nào cũng như sắp bị chìm.
Bỗng nhiên, một cơn gió lớn thổi đến, con thuyền nhỏ bị lật, cả nhà bác học và người

chèo thuyền đều bị rơi xuống nước.
– Ông có biết bơi không? – Người lái thuyền hét lớn, hỏi nhà bác học.
Lúc này, nhà bác học đã bị chìm đến cổ, lập cập trả lời: – Không biết!
– Vậy thì ông đã lãng phí cả cuộc đời mình rồi! – người chèo thuyền nói”.
(Theo “200 bài học đạo lí” – NXB Văn hóa – Thông tin, 2011)
Câu chuyện trên gợi cho em những suy nghĩ gì?
Bài làm
“Bố đã nhắc con phải gấp chăn sau khi ngủ dậy. Vậy mà con vẫn không thực hiện. Bố rất
thất vọng con gái ạ! Nếu chỉ học giỏi trên sách vở mà cuộc sống ngoài đời như vậy là
không ổn!”.
Bố.
Đọc tờ giấy ghi lời nhắc của bố để trên đống chăn cuộn tròn nằm trên giường, tôi thấy
xấu hổ vô cùng! 18 tuổi, vậy mà những việc đơn giản này tôi cũng để bố phải nhắc. Hình
như tôi chỉ chăm chăm vào việc học tập trên lớp mà chẳng chịu trau dồi cho mình những
kĩ năng cơ bản nhất phục vụ cho cuộc sống. Câu chuyện “Nhà bác học qua sông” đã
khiến tôi giật mình về hậu quả trầm trọng của việc thiếu kĩ năng sống cùng với thói kiêu
ngạo, coi thường người khác mà nhà bác học kia đã nhận lấy.
Câu chuyện ngắn gọn mà thấm thía đã cho tôi bài học sâu sắc về cuộc sống. Một nhà bác
học kiêu ngạo tự cho rằng thứ triết học mà mình nghiên cứu là “thứ học vấn quan trọng
nhất trên đời này”. Ông ta còn tỏ ra coi thường, thậm chí còn đánh giá rằng người chèo
thuyền “đã lãng phí nửa cuộc đời” khi nghe người chèo thuyền nói: “Tôi suốt ngày chỉ
biết chèo thuyền, không có thời gian nghiên cứu triết học”. Vậy là bằng cái nhìn một
chiều và thói tự cao tự đại, cho rằng mình cao quý hơn người bằng thứ học vấn cao siêu,
nhà bác học chỉ nhìn thấy sự tầm thường, điểm yếu của người chèo thuyền. Nhưng rồi gió
bão ập đến, con thuyền chòng chành và lật nhào, nhà bác học không biết bơi đã ôm thứ
triết học cao quý của mình xuống đáy sông. Đúng như người chèo thuyền nói, ông ta đã
“lãng phí cả cuộc đời mình”. Triết học cao siêu không thể trở thành chiếc phao cứu sinh
giúp nhà bác học thoát chết! Thế mới biết, những thứ mà ta nghĩ mình hơn người khác
đôi khi lại là con dao hai lưỡi làm hại chính chúng ta.
“Ai cũng muốn làm điều gì đó lớn lao nhưng lại không nhận ra rằng cuộc sống được tạo

nên từ những điều rất nhỏ” (T.A.Clark). Nếu triết học là “điều lớn lao” thì việc biết bơi lại
chính là “điều rất nhỏ”. Quả thực, những kĩ năng cơ bản cần thiết mới chính là yếu tố tiên
quyết giúp con người sống sót. Nếu không có những kĩ năng cơ bản thì chúng ta không
3


thể tồn tại, nói gì đến làm những gì lớn lao. Kĩ năng sống là điều quan trọng với mỗi con
người. Thế giới luôn vận động. Mọi biến cố, những khó khăn, thử thách, thậm chí là
những nguy hiểm luôn có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Kĩ năng giúp con người chủ động
thích nghi với từng hoàn cảnh, có thể tự bảo vệ mình khi có nguy hiểm xảy đến. Nếu như
nhà bác học kia biết bơi để tự cứu mình thì ông ta đã không phải “lãng phí cả cuộc đời”
như vậy. Một bài học sâu sắc đối với chúng ta: hãy chuẩn bị cho mình những kĩ năng cần
thiết trước khi bắt tay tìm hiểu những điều lớn lao.
Đặt trong bối cảnh đất nước đang trên con đường hội nhập, bài học này lại càng có ý
nghĩa hơn bao giờ hết. Một căn bệnh thâm niên của người Việt Nam ta là “nặng về lí
thuyết, coi nhẹ thực hành”. Lí thuyết “suông” thì có thể nắm chắc nhưng kĩ năng sống, kĩ
năng thực hành thì còn là một vấn đề đáng quan tâm.Giá mà thống kê cho hết số sinh viên
Việt Nam ra trường vẫn phải đào tạo lại vì những kiến thức trên giảng đường chưa thể áp
dụng vào công việc cụ thể! Giá mà thống kê cho hết những người tốt nghiệp Đại học với
tấm bằng loại khá trở lên mà 7,8 năm vẫn không xin được việc làm do không có kĩ năng
thực hành!...Đó thật sự là một lãng phí khủng khiếp vì chỉ chú tâm vào những kiến thức
sách vở xa vời mà không rèn luyện, trau dồi từ những kĩ năng rất nhỏ. Cho nên một vài
năm trở lại đây, hàng loạt những khoá học kĩ năng được mở ra ở Việt Nam: kĩ năng
“mềm”, kĩ năng quản lí thời gian, quản lí tài chính, kĩ năng lập kế hoạch, kĩ năng làm việc
nhóm, kĩ năng đối đầu với thử thách…Học sinh tiểu học, trung học , sinh viên, thậm chí
cả những người đã đi làm cũng tham gia để trau dồi cho mình từ những điều đơn giản
nhất! Nhưng đâu phải cứ đến những khoá học ấy, con người mới học được kĩ năng sống.
Chúng ta có thể tự mình trau dồi qua việc va chạm trong cuộc sống hàng ngày ( Có lẽ, đã
đến lúc tôi nên rời khỏi những trang sách dày cộp mà rèn luyện mình bằng việc đơn giản
hàng ngày để bố không còn phải nhắc nhở từ việc nhỏ nhất là gấp chăn sau khi ngủ dậy

nữa!)
Một bài học khác mà câu chuyện mang đến cho tôi là việc đánh giá người khác và bản
thân mình. Con người sinh ra không ai là hoàn hảo. Ai cũng có “gót chân A – sin” của
mình. Mỗi chúng ta đều có những điểm mạnh, điềm yếu riêng. Không ai có thể cho rằng
mình hơn người khác, Ta có thể nổi trội hơn người khác về một số điểm nhưng cũng có
những điểm mà người khác hơn ta rất nhiều. Điểm mạnh của người này là điểm yếu của
người kia, đó là sự thật của đời sống. Như người chèo thuyền kia ngày ngày chèo thuyền
đưa người qua sông, đó là thế mạnh của ông ta. Nhà bác học trong truyện lại có thế mạnh
trong việc nghiên cứu triết học. Bạn học tốt các môn xã hội nhưng lại gặp khó khăn trong
việc tiếp cận các môn tự nhiên. Bạn có thể giải rất nhanh một bài toán hóc búa nhưng có
khi ngồi cả ngày bạn vẫn không “nặn” ra câu văn nào. Các bác sĩ chữa bệnh cho rất nhiều
người nhưng đưa họ về với đồng ruộng nông thôn thì họ hoàn toàn “bó tay”. Những
người lao công không thể nghiên cứu khoa học nhưng nhờ họ mà đường phố mới sạch
đẹp. Người nào cũng có những thế mạnh, những công việc thích hợp để nuôi sống bản
thân, có ích cho gia đình và xã hội. Không có công việc cao quý, chỉ có những con người
cao quý trong nghề nghiệp của mình. Lu-i Pa-xtơ từng nói: “Không phải nghề nghiệp làm
nên danh dự cho con người,mà con người mới làm nên danh dự cho nghề nghiệp”. Nhà
bác học đã hoàn toàn sai lầm trong việc đánh giá người khác chỉ dựa vào công việc của
người lái thuyền, dựa vào tiêu chuẩn ông ta đặt ra cho mình. “Triết học là thứ học vấn cần
thiết” nhưng nếu không có người chèo thuyền kia thì sao nhà bác học có thể qua sông.
Như vậy, giá trị của một con người thay đổi theo từng hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta nên
khiêm tốn khi đánh giá bản thân và đừng bao giờ đánh giá thấp người khác! Tự tin vào
4


bản thân không có nghĩa là cho mình hơn người khác và không bao giờ thất bại. Chỉ còn
vài tháng nữa kì thi đại học sẽ diễn ra, các bạn học sinh lớp 12 cần xác định rõ đâu là thế
mạnh của mình, nghiên cứu thật kĩ tình hình các trường mình có ý định để đưa ra lựa
chọn phù hợp nhất!
Câu chuyện nhỏ mà bài học đặt ra không hề đơn giản chút nào. Tuy vậy, kết thúc câu

chuyện lại gợi ra trong tôi một nỗi băn khoăn. Lẽ nào sau khi nói với nhà bác học: “Vậy
thì ông đã lãng phí cả cuộc đời mình rồi”, người chèo thuyền lại không có hành động gì
để giúp người khách lâm nạn của mình? Liệu ông ta đã làm tròn nhiệm vụ của một người
lái đò đưa khách qua sông, hay hơn thế nữa, ông ta đã sống đúng với lương tri của một
con người? Nếu được viết tiếp câu chuyện này, nếu tôi là người chèo thuyền kia, sau khi
đã “dạy” cho nhà bác học kia một bài học, tôi sẽ lao xuống cứu ông ta. Với tôi khi ấy, câu
chuyện mới thực sự mang tính giáo dục và nhân văn hơn cả. Bài học mà nó đặt ra cũng vì
thế mà thuyết phục hơn! Con người ai chẳng có lúc sai lầm. Điều quan trọng là ta phải
biết cùng nhau sữa chữa, rút kinh nghiệm. Xã hội sẽ tốt đẹp biết bao nếu mỗi cá thể
không ngừng hoàn thiện mình và biết bổ sung, lấp đầy những “khoảng trống” của người
khác!
“Tay phải của người là tay trái của mình” vì vậy mỗi chúng ta phải nỗ lực tự “làm đầy”
mình và học hỏi mọi người ngay từ những điều cơ bản nhất. “Điều cần thiết trong cuộc
sống của mỗi người là luôn làm một học trò”. Có như vậy chúng ta mới nâng cao được
giá trị bản thân và không bao giờ phải hối hận vì đã “lãng phí” bất cứ giây phút nào trong
cuộc đời mình!

5


Đề bài: Đọc câu chuyện sau và trả lời câu hỏi: Em học tập được gì từ câu chuyện ?
Viết bài văn nghị luận khoảng 600 từ trình bày suy nghĩ của mình sau khi đọc câu
chuyện .
“Một ngày kia, con lừa của bác nông dân sảy chân ngã xuống cái giếng bỏ hoang. Con
vật kêu lên thảm thiết nhiều giờ liền trong lúc người chủ của nó nghĩ xem nên làm gì để
cứu con lừa lên… Cuối cùng, ông quyết định rằng, vì con lừa cũng già rồi và cái giếng
thì đằng nào cũng phải lấp, nên sẽ có cách để không phải bận tâm đến con lừa nữa.
Ông mời hàng xóm đến giúp ông một tay. Mỗi ngưởi cầm một cái xẻng xúc đất đổ vào
giếng. Nhận ra sự thật phũ phàng, con lừa rên rỉ thảm thiết. Sau khi hứng những xẻng
đất đầu tiên, nó hoàn toàn tuyệt vọng, nhìn lên với đôi mắt đầy ai óan. Chỉ đến khi đất

ngập đến gần hết chân, nó mới bừng tỉnh, nó cảm nhận điều gì đó đang và sẽ xảy ra đối
với nó. Nó không nhìn lên nữa mà cố gắng xoay sở để trồi lên. Bác nông dân và mọi
người chăm chú nhìn xuống giếng, họ kinh ngạc trước những gì đang diễn ra. Cứ mỗi
xẻng đất đổ lên lưng, con lừa lại lắc mình cho đất rôi xuống chân và bước lên lớp đất ấy.
Cứ thế, từng xẻng đất, rồi từng lớp đất. Và chẳng bao lâu, chú lừa đã có thể bước lên
miệng giếng, mệt nhọc chạy ra ngoài trước sự ngạc nhiên của tất cả mọi người".
=> Gợi ý cách làm bài:
I. Mở bài: Dẫn dắt vấn đề, giới thiệu câu chuyện trong đề bài: câu chuyện con lừa bị ngã
xuống giếng
– Nêu vấn đề cần nghị luận: sự thông minh, nhạy bén khi gặp hoạn nạn, ý chí, nghị lực
của con người trong cuộc sống.
II. Thân bài:
1. Phân tích,hoặc nêu vắn tắt nội dung câu chuyện để rút ra ý nghĩa vấn đề: thông qua
chuyện con lừa, tác giả nêu lên bài học về cách ứng xử đối với khó khăn hoạn nạn của
con người trong cuộc sống.
2. Thực hiện các thao tác nghị luận: chứng minh, bình luận vấn đề. Đánh giá: câu chuyện
nêu lên bài học giá trị
- Chứng minh:
+Trong cuộc sống, bạn có thể bị thất bại do nhiều nguyên nhân, thậm chí có thể gặp hoạn
nạn bất cứ lúc nào…
+ Điều quan trọng là đứng trước thất bại chúng ta không bỏ cuộc, dũng cảm đương đầu
với thử thách, biết đứng dậy để vươn lên
+Mạnh dạn đối mặt với những thử thách của cuộc đời, đó là Sức mạnh tinh thần lớn lao
có thể giúp con người vượt qua được những giới hạn của cuộc sống.
+ Điều quan trọng là bạn phải nhạy bén, sáng tạo, thông minh….để vượt qua những thử
thách đó
3. Rút ra bài học cho bản thân
– Về nhận thức:hãy dũng cảm, lạc quan. Bản lĩnh thép sẽ dẫn bước thành công.
– Về hành động:Hãy làm lại sau mỗi lần thất bại, không bỏ cuộc, , nỗ lực vươn lên,
không đầu hàng số phận…

III. Kết bài: Đánh giá ý nghĩa của vấn đề xã hội trong tác phẩm.
Cuộc sống có thể sẽ đổ lên đầu bạn nhiều thứ khó chịu, thử thách và cả những sai lầm do
chính bạn gây nên. Bí quyết nằm ở chỗ, bạn không nên để mình bị chôn vùi bởi những
điều khó chịu ấy, mà phải biết rũ bỏ nó xuống và bước lên trên. Mỗi khó khăn, thất bại
mà bạn gặp sẽ là một bước đệm để ta cao hơn. Chúng ta có thể thoát khỏi những cái
giếng sâu nhất chỉ bằng cách không bao giờ bỏ cuộc. Đừng gục ngã và hãy bước lên!
6


Dạng đề thành phố Hồ Chí Minh:
Câu 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:
“Tôi vẫn nhớ như in cảm giác mình lơ mơ tỉnh dậy choáng váng nơi ghế lái... Bên đống
kính vỡ vụn và cánh cửa kẹt không thể mở được, tôi lồm cồm chui ra, đám tiền lẻ bay
quanh tôi những tờ 1.000, 2.000 đồng của người đi đường thả (chắc họ đoán tôi... nghẻo
rồi).
Nhưng cảm giác tuyệt vọng nhất không phải là nỗi đau thân thể hay cái xe hỏng mà là
cảm giác không biết bao nhiêu người đi đường quần áo đẹp đẽ... phóng qua, đi chậm lại,
hạ kính ôtô, dừng xe tay ga chen chúc nhau giơ máy điện thoại và... quay lại chụp ảnh,
quay clip…
Tôi xỉu đi giữa đám người đông nghịt không có chút không khí để thở và những cái
smartphone vô tâm như vậy, cho đến khi có một chị đi chở sơn (vôi ve) đội nón bịt mặt,
tách đám người gào lên: Tránh ra cho người ta thở! Và sau đó vài người dân lao động ra
giúp tôi, họ không có smartphone và chẳng đi xe đẹp hay xe tay ga gì cả...”
( Nguồn Internet )
1. Xác định một phép liên kết trong đoạn văn.
2. Tác giả đã có những cảm xúc gì khi chứng kiến những người xung quanh không giúp
đỡ người bị nạn mà chỉ lo quay phim, chụp ảnh?
3. Khi nói đến “ những chiếc smartphone vô tâm “, tác giả muốn thể hiện điều gì?
4. Những chiếc smartphone đang trở thành một phương tiện không thể thiếu trong cuộc
sống hiện đại, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ ngày nay. Theo em, smartphone đã ảnh hưởng

đến cuộc sống của chúng ta như thế nào?
=> Gợi ý cách làm:
1. Phép liên kết được sử dụng trong đoạn văn:
- Phép lặp “tôi”, “smartphone”,…
- Phép nối “Và…”
- … ( Học sinh chỉ cần chỉ một phép liên kết, thừa cũng được, nhưng sai là không có
điểm )
2. .Cảm xúc của tác giả: tuyệt vọng, đau lòng trước sự vô tâm của những người xung
quanh.
3. Khi nói đến “những chiếc smartphone vô tâm”, tác giả muốn nói đến một lối sống đáng
buồn trong cuộc sống hiện đại, trong thời buổi công nghệ phát triển. Đó là một phần lớn
trong chúng ta ngày càng vô cảm với những hoàn cảnh xung quanh, vô tâm đứng nhìn
người bị nạn, chụp ảnh, quay clip tung lên mạng, mà không hề có hành động giúp đỡ
nào.
4. Ảnh hưởng của smartphone đến cuộc sống của chúng ta:
- Tích cực: smartphone đem tri thức đến gần với chúng ta hơn; là công cụ làm việc không
thể thiếu; giúp lưu giữ những khoảnh khắc ý nghĩa….
- Tiêu cực: nếu sử dụng không đúng cách sẽ làm ảnh hưởng đến sức khoẻ, sống “ảo”, làm
cho các mối quan hệ trở nên xa lạ, con người ngày càng trở nên vô cảm…( Thử hình
dung, một buổi gặp gỡ mà mỗi người cần trên tay một chiếc điện thoại lướt web, chơi trò
chơi, không ai nói chuyện với ai thì sẽ tẻ nhạt, im lặng đến nhường nào! Lâu dần, chúng
ta mất cảm giác háo hức khi gặp nhau và dần dần thì rời xa nhau)

7


* Dạng đề thành phố Hải Phòng:
Đề bài: Viết một bài văn ngắn cảm nhận về khổ thơ cuối trong "Bài thơ về tiểu đội
xe không kính" của Phạm Tiến Duật.
I. Mở bài:

- Giới thiệu được tác giả Phạm Tiến Duật.
- Giới thiệu được “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
- Giới thiệu được nội dung khái quát của đoạn thơ.
II. Thân bài:
1. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài ):
"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" được Phạm Tiến Duật sáng tác vào năm 1969 - đây là
thời điểm gay go, ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Cảm hứng từ những chiếc
xe không kính đã làm nền để nhà thơ chiến sĩ khắc họa thành công chân dung người lính
lái xe ngày và đêm đối mặt với bom đạn của giặc Mĩ, đối mặt với cái chết.Họ đã thể hiện
tinh thần quả cảm, ý chí gang thép của người chiến sĩ cách mạng; tình đồng chí đồng đội
gắn bó; và đặc biệt là trái tim yêu nước, yêu đời - một trái tim luôn đập vì miền Nam thân
thương được thể hiện ở khổ thơ cuối.
2. Hình ảnh những chiếc xe không kính ( Sự khốc liệt, dữ dội của chiến tranh ):
- Ở phần đầu bài thơ, tác giả đã giải thích rất đơn giản mà sắc sảo : "Không có kính
không phải vì xe không có kính" bởi vì : "Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi". Như vậy,
bom đạn chiến tranh đã làm cho những chiếc xe trở nên biến dạng. Tới khổ thơ kết, hình
ảnh những chiếc xe không kính được lặp lại như để nhấn mạnh thêm về hiện thực chiến
tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua:
"Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước"
- Phép liệt kê, điệp ngữ “không có” lặp lại ba lần như nhân lên để tổng kết cái khó khăn,
khốc liệt của chiến tranh, càng đi vào sâu tới những chiến trường thì càng nguy hiểm
hơn.
- Và minh chứng cho sự khốc liệt đó là những chiếc xe tải mang trên mình đầy thương
tích, với đèn không có, mui không có, cửa kính vỡ, thùng bị xước, bị biến dạng. Trận
đánh đến gần ngày toàn thắng thì thử thách đối với người lính càng lớn, hi sinh mất mát
chắc chắn sẽ càng nhiều.
=> Bằng giọng thơ mộc mạc, đậm chất văn xuôi, hai câu thơ đã gợi lên trong lòng người
đọc những gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn mà người lính phải đối mặt.
Khó khăn lại chồng chất khó khăn.

3. Vẻ đẹp của người lính lái xe - ý chí chiến đấu, giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước.
- Sự gian khổ nơi chiến trường ngày càng nâng lên gấp bội lần nhưng không thể làm chùn
bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước. Hai câu thơ cuối làm
sáng ngời tứ thơ về tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mỹ: họ mang trong mình sức mạnh của
tình yêu với miền Nam, với lí tưởng độc lập tự do và thống nhất đất nước:
"Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim"
- Bom đạn quân thù có thể làm biến dạng chiếc xe nhưng không đè bẹp được tinh thần, ý
chí chiến đấu của những chiến sĩ lái xe. Xe vẫn chạy không chỉ vì có động cơ máy móc
mà còn có một động cơ tinh thần “Vì miền Nam phía trước”.
8


- Đối lập với tất cả những cái “không có” ở trên là một cái “có”. Đó là trái tim - một hình
ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh của người lính, sức mạnh con người đã chiến thắng bom
đạn kẻ thù.
- Trái tim ấy thay thế cho tất cả những thiếu thốn “không kính, không đèn, không nản”
hợp nhất với người chiến sĩ lái xe thành một cơ thể sống để tiếp tục tiến lên phía trước
hướng về miền Nam thân yêu.
- Trái tim yêu thương, trái tim can trường của người chiến sĩ lái xe trở thành nhãn tự bài
thơ, cô đúc ý toàn bài, hội tụ vẻ đẹp của người lính và để lại cảm xúc sâu lắng trong lòng
người đọc.
- Trái tim người lính toả sáng rực rỡ mãi đến mai sau khiến ta không quên một thế hệ
thanh niên thời kỳ chống Mỹ oanh liệt của dân tộc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi chống Mĩ
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
4. Đánh giá về nội dung và nghệ thuật:
- Thơ là thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Phạm Tiến Duật đã thể hiện
thành công tâm hồn thế hệ trẻ Việt Nam yêu nước trong những năm tháng đánh Mỹ hi

sinh gian khổ mà vĩ đại của dân tộc ta.
- Đoạn thơ cũng như cả bài thơ đã rất thành công trong việc kết hợp linh hoạt thể thơ 7
chữ và 8 chữ, sử dụng chất liệu hiện thực độc đáo, giọng điệu ngang tàn, có cả chất
nghịch ngợm....
III. Kết bài:
Ngày hôm nay không còn bom đạn, chiến tranh nữa mà thay thế vào đó là những khó
khăn, thử thách của cuộc sống. Chúng ta, đặc biệt là những thế hệ trẻ, cần học tập theo
những thế hệ cha anh, cần lạc quan trước những gian khổ, cần biết sống có lỉ tưởng, cần
yêu hơn đất nước mình, nhân dân mình, để sống thật ý nghĩa, để thay một lời cảm ơn đến
nhà thơ Phạm Tiến Duật, đến những thé hệ đi trước đã ngã xuống để dệt nên trang sử
vàng.

9


Phần II: Cho đoạn thơ:
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
( “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, Phạm Tiến Duật ).
1. "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật vốn là một bài thơ, vậy có cần thiết phải
dùng từ "Bài thơ" trong nhan đề của tác phẩm hay không? Vì sao?
2. Theo em, điều gì đã tạo nên sức mạnh tinh thần cho cả đoàn xe “vẫn chạy”, vẫn băng ra tiền tuyến
mặc dù ở hiện tại và ở phía trước có nhiều khó khăn, gian khổ?
3. Đoạn thơ trên đã gợi cho em nghĩ đến tình cảm gì của con người Việt Nam đối với đất nước. Từ đoạn
thơ và những hiểu biết xã hội, em hãy trình bày suy nghĩ ( khoảng nửa trang giấy thi ) về tình cảm ấy
của thế hệ trẻ ngày hôm nay.
=> Gợi ý làm bài:
1.

- Khẳng định từ "Bài thơ" đặt trong nhan đề không phải là thừa.
- Giải thích:
+ Từ "Bài thơ" chỉ sự lãng mạn, bay bổng tạo thành một vế đối lập và bổ sung cho vế thứ hai: tiểu đội xe
không kính (hiện thực dữ dội và ác liệt của chiến trường)
+ Gợi ra nội dung bài thơ: không chỉ viết về hình ảnh những chiếc xe không kính mà còn ca ngợi những
người lính lái xe: vui tươi dí dỏm, can trường dũng cảm…
+ Tạo cho nhan đề dài hơn, khác lạ so với nhan sắc đề khác.
2. Sức mạnh tinh thần đó là “trái tim” dạt dào tình yêu Tổ quốc, hướng về miền Nam ruột thịt thân yêu;
“trái tim” luôn sục sôi căm thù giặc Mĩ bạo tàn. Yêu thương, căm thù chính là sức mạnh tinh thần lớn
lao, là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước.
3.
- Đoạn thơ trên là lời khẳng định tình cảm bất di bất dịch vì miền Nam phía trước, tình cảm yêu nước
của người chiến sĩ lái xe nói riêng, của nhân dân Việt Nam nói chung.
- Lòng yêu nước là tình cảm rất tự nhiên trong mỗi con người, và bất cứ ai cũng hiểu được là mình đã và
đang yêu nước nước mình. Bởi ai mà chẳng có một tình yêu đối với ông bà, cha mẹ, với luống đất, bờ
ao, với một miền quê gắn bó không rời, đã cùng ta từ thưở lọt lòng đến khi khôn lớn… Tình cảm ấy nuôi
dưỡng tâm hồn, là chỗ dựa tinh thần, là động lực sống, lao động, cống hiến…
- Biểu hiện của lòng yêu nước không phải là những thứ quá cao xa, nó nằm ngay ở ý thức và hành động
của mỗi người.
+ Trong chiến tranh: cầm súng lên đường bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng xả thân, hi sinh để giành độc lập,
thống nhất đất nước.
+ Trong hoà bình: lao động hăng say xây dựng đất nước; lên tiếng bảo vệ Tổ quốc trước những hành
động xâm lăng; hàng nghìn thanh niên hăng hái tham gia nghĩa vụ quân sự; những tài năng trẻ đóng góp
cho thành tựu nước nhà. Trên cả nước, thấp thoáng những bóng áo xanh tình nguyện toả khắp mọi vùng
miền để giúp đỡ cộng đồng. Rồi hình ảnh những bạn học sinh đứng bên nhau, nắm chặt tay, cùng xếp
thành hình cờ Tổ quốc; hình chữ S thân thương…Chỉ nhiêu đó thôi, cũng đủ để cho mọi người thấy
nhiều hơn là tình yêu, là bài học về lòng yêu nước; rằng không phải thế hệ trẻ ngày hôm nay đều sống
hời hợt, vô tâm, đều chỉ nghĩ đến cuộc sống màu hồng,chỉ nghĩ đến hình ảnh một ca sĩ Hàn Quốc hay
một chàng diễn viên đẹp trai…Trong trái tim những người trẻ, vẫn có một tình yêu lớn dành cho đất

nước, bằng cách này hay cách khác, họ vẫn sẽ lưu giữ và thắp lửa.
- Phê phán những bạn trẻ có nhận thức không đúng: chạy theo lối sống thực dụng; sống thiếu trách
nhiệm với đất nước; làm những việc trái với pháp luật; sống thiếu lí tưởng, thậm chí bị lợi dụng, kích
động…
- Liên hệ với bản thân.

10


Đề bài: Trong bài thơ “Một khúc ca”, Tố Hữu viết:
“Nếu là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.
Em hiểu đoạn thơ trên như thế nào? Hãy phân tích khổ 4 và 5 trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”
của Thanh Hải để thấy điểm gặp gỡ trong tư tưởng của hai nhà thơ.
=> Gợi ý cách làm:
I. Mở bài:
- Giới thiệu được hai tác giả, hai tác phẩm.
- Giới thiệu được vấn đề nghị luận: Cả hai đoạn thơ đều là những dòng thơ thật hay, thật xúc động, bộc
lộ ước nguyện được hoà nhập, dâng hiến cho cuộc đời.
II. Thân bài:
1. Phân tích nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ trong bài “Một khúc ca” ( Tố Hữu ):
- Hai cầu đầu mượn hình ảnh con chim, chiếc lá để thể hiện quy luật của thiên nhiên: con chim dâng
tặng cho đời tiếng hót, chiếc lá dâng tặng cho đời màu xanh. Đó là những gì tinh tuý nhất để làm cho
cuộc sống thêm hương sắc và thêm sức sống.
- Hai câu thơ sau nói về quy luật của cuộc sống con người: Đó là quy luật vay-trả, nhận và cho. Suy rộng
ra con người sống không phải là để hưởng thụ vật chất hay tinh thần của thiên nhiên, của cuộc sống mà
phải biết cống hiến, biết làm đẹp cho xã hội ngày càng phát triển. Đó là cách sống có ý nghĩa.
- Cách lập luận “phải…phải”, “lẽ nào…” là lời khẳng định mang tính quy luật.

2. Phân tích nội dung và nghệ thuật của khổ 4 và 5 trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải ):
- Niềm khát khao dâng hiến cuộc đời được khơi gợi từ những cảm nhận về một mùa xuân mới, mùa
xuân của thiên nhiên đất trời, mùa xuân của cuộc sống lao động và chiến đấu của dân tộc.
- Niềm khát khao dâng hiến cuộc đời được thể hiện một cách khiêm nhường nhưng rất đỗi chân thành,
đó là ước nguyện được hòa nhập, được là một con chim hót, một nhành hoa tỏa ngát hương, một nốt
trầm xao xuyến, một mùa xuân nho nhỏ… bất chấp thời gian, bất chấp tuổi tác.
- Niềm khát khao ấy càng có ý nghĩa và xúc động khi là ước nguyện của một người đang nằm trên
giường bệnh. ( liên hệ đến hoàn cảnh sáng tác của bài thơ )
- Bằng thể thơ năm chữ, giọng điệu chân thành, tha thiết phù hợp với tâm trạng cảm xúc, cùng với hình
ảnh ẩn dụ… Thanh Hải đã gửi đến cho chúng ta một thông điệp đáng quý: mỗi người hãy sống có khát
vọng, sống có cống hiến, dù chỉ là phần nhỏ bé của mình vào công cuộc bảo vệ, giữ gìn và dựng xây đất
nước. Đọc đoạn thơ, bài thơ ta càng yêu hơn, trân trọng hơn lẽ sống mà Thanh Hải để lại, ta càng phải tự
nhủ: Hãy sống đẹp – sống như Thanh Hải đã sống.
3. Điểm gặp gỡ ( điểm chung ) giữa hai nhà thơ:
- Hai nhà thơ gặp nhau ở quan niệm về lẽ sống: Không sống hưởng thụ, ích kỉ, phải biết cống hiến, vị
tha. Đây là quan điểm sống đẹp, cao thượng và đáng trân trọng.
- Họ đều lựa chọn những hình ảnh, những sự vật bình dị nhưng có ích để thể hiện khát vọng của mình.
- Họ đều là những con người sống có lí tưởng, có niềm tin vào tương lai đất nước.
- Lời thơ của cả hai tác giả đề thiết tha, cảm xúc chân thành.
=> Rút ra bài học cho bản thân hoặc lời đề nghị với mọi người: Phải chuẩn bị cho mình những phẩm
chất, trí tuệ để xây dựng và phát triển đất nước.
III. Kết bài: Khái quát, đánh giá về vấn đề bàn luận.

11


( đọc đến cuối nhé )
Đề bài: Cảm nhận về lòng yêu nghề, tình thần trách nhiệm với công việc của nhân
vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” ( Nguyễn Thành Long)
I. Mở bài:

- Giới thiệu được tác giả, tác phẩm:
- Giới thiệu được vấn đề nghị luận: Lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm với công việc
của nhân vật anh thanh niên.
II. Thân bài:
1. Hoàn cảnh sống và làm việc đặc biệt:
- Lật từng trang văn của Nguyễn Thành Long, ta thấy anh thanh niên 27 tuổi sống và làm
việc một mình trên đỉnh núi cao 2600m, quanh năm làm bạn với mây mù và cây cỏ.
- Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Công việc suốt ngày chỉ đo nắng, đo
gió, tính mây…
=> Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và công việc
có phần đơn điệu, giản đơn…là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung sức và khát
khao hành động. Nhưng anh vẫn vượt qua được bằng ý chí, nghị lực, những phẩm chất rất
đẹp, giản dị mà sâu sắc.
2. Lòng yêu nghề và tinh thần trách nhiệm với công việc của anh thanh niên:
- Đất nước có chiến tranh, anh xin ra trận. Không được ra trận, anh làm công tác khí
tượng trên núi cao. Không ai có thể bắt buộc anh lên cái nơi “khỉ ho cò gáy” này để làm
việc và cống hiến. Trong khi bao nhiêu người sau khi ra trường đã cố chạy chọt tìm bằng
được một nơi làm việc giữa thủ đô thì anh đã khoác ba lô vui vẻ vượt suối băng rừng để
lên công tác ở nơi này. Anh tự nguyện lên đây không phải do sự bốc đồng nhất thời mà là
cả một sự nhận thức chín chắn, đúng đắn, sâu sắc nhất. Anh thanh niên, một cán bộ vật lí
kiêm khí tượng địa cầu, đã sẵn sàng đi đến bất cứ nơi nào để có thể phát huy tài năng và
thực hiện ước mơ của mình.
- Làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát, thúc giục, anh vẫn luôn tự
giác, tận tuỵ. Suốt mấy năm ròng rã ghi và báo “ốp” đúng giờ. Phải ghi và báo về nhà
trong mưa tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc một giờ sáng, anh vẫn không ngần
ngại. Qua lời anh nói, ta có thể hình dung được bao nhiêu vất vả, khó khăn mà anh đã
chịu đựng. Ấy vậy mà người con trai ấy vẫn tìm thấy được niềm hạnh phúc trong công
việc của mình. Khi kể lại thành tích nhờ phát hiện kịp thời đám mây khô, không quân ta
đã hạ nhiều máy bay Mĩ ở cầu Hàm Rồng, anh nói: “kể từ hôm đó, cháu sống thật hạnh
phúc”. Với anh hạnh phúc là trong công việc, là có thể giúp đỡ mọi người, là góp một

phần nhỏ công sức vào sự nghiệp chung của đất nước. Có thể thấy, tinh thần trách nhiệm
đã là động lực chính để anh làm việc tận tụy, để anh hiểu được hạnh phúc là làm việc, là
cống hiến.
- Anh thanh niên rất yêu công việc của mình. Đối với anh, công việc là lẽ sống, là niềm
đam mê cháy bỏng. Hơn ai hết, anh hiểu rõ công việc thầm lặng của mình là có ích với
mọi người, nó gắn liền anh với cuộc sống chung của đất nước. Anh tâm sự với ông hoạ sĩ:
“Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi công việc
của cháu gắn liền với bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế
đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Phải chăng khi ta yêu thích công việc của
mình, thì công việc đem lại cho ta niềm vui, khi đó ta không còn cảm thấy đơn độc? Phải
chẳng lòng yêu nghề tha thiết, sự gắn bó với công việc bằng một tình yêu sâu sắc đã giúp
anh thanh niên vượt qua nỗi “thèm người”, vượt qua mọi khó khăn để sống một cuộc
12


sống đẹp, đầy ý nghĩa? Nguyễn Thành Long đã để anh thanh niên nói lên những suy nghĩ
từ tiếng lòng tha thiết. Đó là những suy nghĩ nghiêm túc, sâu sắc về nghề nghiệp và về
công việc.
=> Tìm hiểu về anh, lắng nghe những lời tâm sự từ anh, ta thấy người con trai này vừa
giản dị, chất phác, vừa hồn nhiên và vô tư. Tất cả đã toát lên một vẻ đẹp nhân cách đáng
trân trọng, gây xúc động mạnh mẽ trong lòng người đọc. Quả là công việc đã trở thành
niềm vui, niềm hạnh phúc và là lẽ sống của anh thanh niên. Động cơ làm việc đúng đắn
và phương châm sống cao đẹp của anh: làm việc vì mọi người, vì Tổ quốc đã khiến cho
ông hoạ sĩ, cô kĩ sư và mỗi chúng ta phải tự nhủ thầm “người con trai ấy đáng yêu thật!”.
- Không chỉ có lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm cao với công việc, anh thanh niên
còn để lại trong lòng ngược đọc những ấn tượng khó quên ở tính cách chân thành, cởi mở
với mọi người; ở sự khiêm tốn, thành thực; và biết cách sắp xếp cuộc sống một cách khoa
học, đặc biệt lãng mạn.
3. Ý kiến đánh giá:
- Không đặt tên cho nhân vật của mình, dường như Nguyễn Thành Long thể hiện anh

thanh niên như một con người bình dị mà ta có thể gặp ở nhiều nơi trên đất nước. Mỗi
suy nghĩ của anh đều thấm đẫm tình yêu con người, yêu cuộc đời, yêu đất nước.
- Bằng cốt truyện nhẹ nhàng, những chi tiết chân thực và ngôn ngữ chọn lọc, trong trẻo,
nhà văn đã kể lại cuộc gặp gỡ tình cờ mà thú vị nơi Sa Pa lặng lẽ. Nhân vật anh thanh
niên trong truyện đã hiện ra với tất cả những phẩm chất đáng yêu, đáng quí. Anh chính là
hình ảnh tiêu biểu của tuổi trẻ Việt Nam, con người Việt Nam trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước.
4. Liên hệ, mở rộng:
- Anh thanh niên với lòng yêu nghề, với tinh thần trách nhiệm với công việc khiến chúng
ta khâm phục bởi cách sống đẹp, cách sống lí tưởng, cách sống biết hi sinh vì mọi người.
Anh cùng công việc thầm lặng khiến chúng ta nghĩ đến những thầy cô giáo trẻ tình
nguyện lên vùng cao, miệt mài “gieo mầm” con chữ cho những ước mơ xanh…Chúng ta
nhớ đến những người lính trẻ ra đảo khi tuổi đời còn khá trẻ, gửi lại gia đình và ước mơ
nơi đất liền bình yên để đến với mảnh đất kiên cường, giàu nghị lực, để giữ vững vùng
biển của Tổ quốc…Họ chấp nhận hi sinh, khó khăn, thử thách, nhận nhiều thiệt thòi về
bản thân, để sống một cuộc sống đẹp, đầy ý nghĩa vì mọi người. Tôi nhớ đến câu nói của
người quân nhân trong bộ phim “Hậu duệ mặt trời” khi được hỏi vì sao lại chọn công
việc có thể hi sinh tính mạng bất cứ lúc nào, anh đã trả lời: “ Nếu không làm thì ai sẽ
làm”. Tôi tin là khi bạn hỏi những thầy cô giáo trẻ trên vùng cao hay những người lính
cầm chắc tay súng nơi hải đảo, họ cũng sẽ trả lời tương tự như vậy! Còn chúng ta, những
thế hệ tương lai của đất nước thì sao?
- Câu hỏi ấy được đặt ra khiến chúng ta phải trăn trở, suy nghĩ, cần phải sống trách nhiệm
hơn với bản thân, với mọi người; cần biết sống có lí tưởng, có ước mơ; cần phải làm tốt
hơn nữa với công việc mình đang làm.
III. Kết bài:
- Văn học, cũng giống như cuộc đời, như một bài học xã hội có ý nghĩa. Nếu chúng ta hời
hợt, vô tâm thì có lẽ sẽ không hiểu hết những giá trị của nó, những điều tốt đẹp mang lại
cho mỗi cá nhân. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Thành Long, cảm ơn nhân vật anh thanh niên
mà ông xây dựng đã giúp cho chúng ta hiểu: “Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là
cuộc sống đáng quý!”.

13


Phần I: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:
"- Thế nhà con ở đâu?
- Nhà ta ở làng chợ Dầu.
- Thế con có thích về làng Chợ Dầu không?
Thằng bé nép đầu vào ngực bố trả lời khe khẽ:
- Có.
Ông lão ôm khít thằng bé vào lòng, một lúc lâu ông lại hỏi:
- À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?
Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!
Nước mắt ông lão giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má. Ông nói thủ thỉ:
- Ừ đúng rồi, ủng hộ Cụ Hồ con nhỉ. "
(”Làng” – Kim Lân )
1. Truyện ngắn ”Làng” được Kim Lân viết trong hoàn cảnh nào?
2. Qua đoạn đối thoại trên, em thấy tâm trạng ông Hai có gì đặc biệt? Điều đó thể hiện
nỗi niềm sâu kín của nhân vật này như thế nào?
3. Xây dựng hình tượng nhân vật chính luôn hướng về làng Chợ Dầu nhưng vì sao Kim
Lân lại đặt tên truyện ngắn của mình là “Làng” mà không phải là “Làng chợ Dầu”?
4. Viết một đoạn văn ( khoảng 12 câu, theo cách tổng – phân - hợp ) trình bày cảm nghĩ
của em về tình cảm yêu làng, yêu nước của nhân vật ông Hai qua đoạn trích trên. Trong
đoạn có sử dụng thành phần khởi ngữ và một câu cảm thán.
=> Gợi ý cách làm: "Làng" là tác phẩm chưa thi ở Hà Nội, nên các bạn đặc biệt quan tâm.
1. Hoàn cảnh sáng tác: năm 1948 - thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
2. Qua đoạn đối thoại của ông Hai với con, ta thấy;
- Ông giãi bày, tâm sự với con thực chất là để tự giãi bày lòng mình.
- Điều đó thể hiện nỗi niềm sâu kín của nhân vật: Đó là tình cảm thiêng liêng sâu nặng
với làng chợ Dầu và tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cách mạng của ông Hai.

3,
- Nếu đặt tên là “Làng chợ Dầu” thì câu chuyện chỉ kể về cuộc sống và con người ở một
làng quê cụ thể => Ý nghĩa tác phẩm sẽ hạn hẹp.
- Đặt tên “Làng”, tiếng gọi gần gũi, thân mật, cụ thể với bất kỳ một ai => ý nghĩa nhan đề
có sức khái quát cao, giúp ta hiểu rõ hơn giá trị của thiên truyện ngắn.
=> Tình cảm yêu làng yêu nước không chỉ là tình cảm của riêng ông Hai mà còn là tình
cảm chung của những người dân Việt Nam thời kì ấy.
4. Viết đoạn văn:
* Về hình thức:
- Một đoạn văn tổng – phân - hợp, giới hạn 12 câu.
- Có sử dụng thành phần khởi ngữ và một câu cảm thán.
* Về nội dung: Các em chọn lọc ý để viết nhé!

14


HƯỚNG DẪN VIẾT MỞ BÀI CHO BÀI NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
I. Yêu cầu:
* Trong phần mở bài, viết thế nào thì viết, phải đảm bảo đầy đủ 3 nội dung:
- Giới thiệu được tác giả ( hoặc tên tác giả ).
- Giới thiệu được tác phẩm ( hoặc tên tác phẩm ).
- Giới thiệu được VẤN ĐỀ NGHỊ LUẬN. Những vấn đề nghị luận văn học thường gặp:
+ Tác phẩm văn học. Ví dụ: Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. Cảm nhận về
tình cha con qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng => Nếu gặp
những dạng đề như thế này, thì vấn đề nghị luận em phải giới thiệu đó là NỘI DUNG
CỦA TÁC PHẨM.
+ Nhân vật văn học/ nhân vật trữ tình. Ví dụ: Cảm nhận của em về nhân vật anh thanh
niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long...Hình ảnh anh bộ độ cụ Hồ thời
đánh Pháp qua bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu. => Nếu gặp những dạng đề như thế
này, thì vấn đề nghị luận em phải giới thiệu đó là ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CÁCH NỔI BẬT

CỦA NHÂN VẬT ĐỂ LẠI TRONG LÒNG EM/TRONG LÒNG NGƯỜI ĐỌC.
+ Đoạn trích/đoạn thơ => em phải giới thiệu được “ngắn gọn” nội dung của đoạn
trích/đoạn thơ đó. Nếu là một đoạn thơ ngắn, thì em nên trích dẫn ra.
+ Chi tiết nghệ thuật. Ví dụ: Chi tiết “chiếc bóng” trong “Chuyện người con gái Nam
Xương” của Nguyễn Dữ => em phải giới thiệu được chi tiết được đó ở trong phần mở
bài.
+ Một nhận định. Ví dụ: Bàn về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng :" Qua một nỗi lòng, một
cảnh ngộ, một sự việc của nhân vật, nhà văn muốn đối thoại với bạn đọc một vấn đề nhân
sinh. Trình bày suy nghĩ của em về ý kiến trên => em phải giới thiệu được nhận định ở
phần mở bài.
* Lưu ý: Mở bài không nên viết dài dòng. Nên viết tối đa từ 5-6 câu.
II. Cách viết:
1. Cách viết đúng:
SỬ DỤNG TÀI LIỆU “KIẾN THỨC CẦN NHỚ VỀ…”.
15


+ Câu 1: Vị trí của tác giả trong nền văn học/ trong lòng độc giả. Ví dụ: Chính Hữu là nhà
thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp.
+ Câu 2: Đặc điểm văn phong của tác giả. Ví dụ ( Chính Hữu): Phần lớn các sáng tác của
ông đều viết về người lính và chiến tranh với lời thơ đặc sắc, cảm xúc dồn nén.
+ Câu 3: Giới thiệu về tác phẩm. Ví dụ: Ra đời năm 1948, “Đồng chí” là một trong những
tác phẩm tiêu biểu nhất của Chính Hữu.
+ Câu 4: Giới thiệu vấn đề nghị luận. Ví dụ ( Phân tích bài thơ “Đồng chí”): Bài thơ diễn
tả thật sâu sắc tình đồng chí thiêng liêng, gắn bó thời kì đầu cuộc kháng chiến.
=> Các em ghép các câu lại => thành một mở bài hoàn chỉnh.
* Ví dụ 2: Cảm nhận về nhân vật ông Sáu trong đoạn trích “Chiếc lược ngà”(Ngữ văn 9,
tập 1) của Nguyễn Quang Sáng.
+ Là nhà văn Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng am hiểu và gắn bó với mảnh đất Thành đồng
cùng những người con trung kiên trên mảnh đất ấy.

+ Truyện của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống con người Nam Bộ trong chiến tranh và
sau hòa bình.
+ Sáng tác năm 1966, trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra quyết liệt,
“Chiếc lược ngà” ngợi ca tình cha con, tình đồng chí của những người cán bộ Cách mạng
– cũng là tình người trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.
+ Cũng như bé Thu, nhân vật ông Sáu trong truyện đã để lại cho người đọc rất nhiều ấn
tượng.
=> ghép các câu lại các em sẽ có một mở bài hoàn chỉnh.
2. Cách viết hay: Có rất nhiều cách, rất nhiều hướng viết ( vô cùng, vô vô cùng phong
phú). Sau đây, ad có số gợi ý. Các em có thể xuất phát từ:
- Đề tài, chủ đề.
+ Ví dụ: như bài thơ “Bếp lửa”, em có thể viết về kỉ niệm tuổi thơ.
Trong dòng chảy cuộc đời của mỗi con người, kỉ niệm tuổi thơ bao giờ cũng lắng đọng
một góc sâu xa trong tâm hồn. Những kỉ niệm ấy thường gắn bó với những gì thân
thương nhất. Nếu Tế Hanh nhớ về tuổi thơ, nhớ về quê hương là nhớ về dòng sông xanh
biếc; Xuân Quỳnh bồi hồi khi bắt gặp một tiếng gà trưa khi dừng chân bên xóm nhỏ trên
đường hành quân; thì với Bằng Việt, bếp lửa bập bùng cháy và hình ảnh của người bà là
16


tất cả những gì tha thiết nhất mà nhà thơ hằng lưu giữ trong lòng. Nghĩ về bếp lửa là nghĩ
về bà, nghĩ về quá khứ tuổi thơ đầy khó nhọc, vất vả.
+ Ví dụ: như suy nghĩ về nhân vật ông Hai, em có thể viết về tình yêu làng:
Tình yêu làng, sự gắn bó với nơi chôn rau cắt rốn vốn là một tình cảm sâu nặng ở con
người Việt Nam nói chung, đặc biệt ở người nông dân nói riêng. Lịch sử văn học dân tộc
từng xây dựng thành công nhiều nhân vật mang tình cảm đáng quý ấy. Nhân vật ông Hai
trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một trong những trường hợp tiêu biểu như thế.
- Trích dẫn một câu nói/ một nhận định:
+ Ví dụ: viết về nhân vật ông Hai, em có thể viết:
Ra- xum Gam-za-tôp có nói: “Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ

không thể tách quê hương ra khỏi con người”, nghĩa là con người có thể đi xa quê hương
nhưng tình yêu quê hương luôn tồn tại trong mỗi con người. Điều này càng được thể hiện
rõ trong truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân, qua nhân vật ông Hai – người nông
dân chân lấm tay bùn, mộc mạc, hiền lành mà giàu tình nghĩa với quê hương, với đất
nước, với cách mạng.
+ Ví dụ: cảm nhận về những con người lao động nơi Sa Pa lặng lẽ, em có thể viết:
“Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là cuộc sống đáng quý!”
Câu nói đầy ý nghĩa của nhà khoa học A.Einstein khiến ta phải trăn trở, suy nghĩ về cuộc
sống, về bổn phận của mỗi con người trong cuộc đời này.Lời ngụ ý ấy đựơc nhà văn
Nguyễn Thành Long gửi gắm qua một tác phẩm bàng bạc chất thơ, thấm đẫm chất trữ
tình - “ Lặng lẽ Sa Pa”.Đến với tác phẩm, ta không chỉ say sưa, ngây ngất trong chất men
say trữ tình lãng mạn của một thiên nhiên nên thơ, mà còn khâm phục những con người
âm thầm làm việc quên mình vì người khác, cống hiến cho Tổ quốc.

17


Cách viết mở bài một bài văn nghị luận và tuyển tập những mở bài tham
khảo
I/ Cách viết phần mở bài:
1. Mục đích :
Mục đích của phần mở bài là nhằm giới thiệu vấn đề mà mình sẽ viết, sẽ trao đổi,
bàn bạc trong bài. Vì thế, khi viết Mở bài thực chất là trả lời câu hỏi : Anh (chị )
định viết, định bàn bạc vấn đề gì ? Các cách mở bài dễ viết nhất :
a. Mở bài trực tiếp : Tức là trả lời thẳng vào việc đó.
Ví dụ : Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Mở bài trực tiếp : Nói đến Chính Hữu không thể không nói đến bài thơ “Đồng
chí”.Bài thơ như một điểm sáng trong tập “Đầu súng trăng treo”- tập thơ viết về đề
tài người lính của ông.
b. Mở bài gián tiếp: Tức là dẫn ra một ý khác có liên quan gần gũi, sau đó, nêu vấn

đề sẽ bàn trong bài. Để bài viết có không khí tự nhiên và có chất văn, người ta
thường mở bài theo kiểu gián tiếp. Có nhiều cách mở bài gián tiếp này nhưng tựu
trung có 4 cách cơ bản:
Cách 1: Diễn dịch (suy diễn )
Cách 2: Quy nạp
Cách 3: Tương liên (tương đồng )
Cách 4: Tương phản (đối lập )
Dù viết mở bài gián tiếp theo cách nào thì trong đó cũng cần làm rõ 3 vấn đề:
* Nêu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm, xuất xứ.
* Nêu vấn đề (dựa vào gợi ý ở đề bài )
* Nêu cảm nhận của mình về vấn đề.
3. Một số vấn đề cần tránh :
- Tránh dẫn dắt vòng vo quá xa mãi mới gắn được vào việc nêu vấn đề.
- Tránh ý dẫn dắt không liên quan gì đến vấn đề sẽ nêu.
- Tránh nêu vấn đề quá dài dòng, chi tiết, có gì nói hết luôn rồi thân bài lại lặp lại
những điều đã nói ở phần Mở bài.
4. Một mở bài hay cần phải :
- Ngắn gọn: Dẫn dắt thường vài ba câu, nêu vấn đề một vài câu và giới hạn vấn đề
18


một câu.
- Đầy đủ: (đủ 3 vấn đề )
- Độc đáo : gây được sự chú ý của người đọc.
- Tự nhiên :Giản dị, tự nhiên, tránh vụng về, gượng ép tránh gây cho người đọc khó
chịu bởi sự giả tạo.
I. Một số Mở bài tham khảo :
Đề : Cảm nhận về bức tranh xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.
Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần
trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là

văn, là nghệ thuật đích thực…thì vẫn còn mãi mãi với thời gian. Truyện Kiều của Nguyễn
Du là một tác phẩm nghệ thuật như thế, đặc biệt là đoạn thơ viết về Cảnh ngày xuân –
một mùa xuân mới mẻ, tinh khôi và giàu sức sống.
Đề : Cảm nhận về người lính lái xe trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính
Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến lúc xem lại ta mới
chợt nhớ là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những cuốn sách như dòng sông chảy qua
tâm hồn ta để lại những ấn tượng chạm khắc trong tâm khảm. “Bài thơ về tiểu đội xe
không kính” là một tác phẩm như thế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã xây dựng một tượng
đài bằng thơ về người chiến sĩ hồn nhiên, ngang tàng và ngạo nghễ thời đại chống Mĩ.
Đề : Phân tích khổ thơ đầu của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ thương không biết đã tan chưa?
(Mai sau)
Trước cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận thường u sầu ảo não. Nhưng từ khi cách
mạng tháng Tám thành công đã tiếp thêm cho thơ ông một luồng sinh khí mới, những
trang thơ dạt dào niềm vui khi viết về cuộc sống mới, con người mới. Bài thơ “Đoàn
thuyền đánh cá” là một tác phẩm mang cảm xúc như thế. Nó đã ghi lại hành trình đẹp đẽ
của đoàn thuyền: ra khơi lúc hoàng hôn, đánh cá lúc trăng lên và trở về lúc bình minh.
Nhưng có lẽ khung cảnh đẹp đẽ và hùng vĩ nhất là lúc đoàn thuyền ra khơi được thể hiện
rõ trong khổ thơ đầu.
Đề : Phân tích nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao.

19


Khi “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan ra
đời, tôi chắc ít ai nghĩ rằng, thân phận người nông dân dưới ách đế quốc phong kiến lại có
thể có một nỗi khổ nào hơn những nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha. Nhưng khi Chí Phèo
bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta mới nhận ra rằng đây là hiện thân
đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa.

Mở bài 1: Thuý Kiều là nhân vật chính trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn
Du. Người đọc có thể cảm nhận được một phần số phận của nhân vật qua các đoạn trích
học trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9. Đó là các đoạn trích "Chị em Thuý Kiều"; "Mã
Giám Sinh mua Kiều" và "Kiều ở lầu Ngưng Bích".
Mở bài 2: Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên về truyện ngắn. Ông đã rất
thành công ở các tác phẩm khai thác đề tài về những con người lao động mới trong công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là truyện
ngắn "Lặng lẽ Sa Pa". Tác phẩm không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên đẹp và thơ
mộng mà còn là lời ca ngợi những con người đang ngày đêm miệt mài lao động cống
hiến cho Tổ quốc.
=> Đây là cách mở bài gián tiếp: Khái quát sự nghiệp sáng tác của tác giả đến tác phẩm
cụ thể.
Mở bài 3:Được xây dựng theo một cốt truyện dân gian "Chuyện người con gái Nam
Xương" của Nguyễn Dữ có thể coi là một tác phẩm hay nhất trong cuốn "Truyền kỳ mạn
lục". Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) - một người con gái quê ở
Nam Xương đẹp người đẹp nết. Không chỉ có vậy, khi nhắc đến nhân vật này người đọc
không thể quên được nỗi oan khổ vô bờ mà nàng phải chịu vì người chồng đa nghi thô
bạo.
=> Đây là cách mở bài gián tiếp: Dẫn dắt vấn đề kèm theo sự đánh giá của người viết.Sau
đây, mời các bạn cùng tham khảo một số đoạn mở bài đặc sắc cho các tác phẩm văn học
nổi bật trong chương trình Ngữ Văn THCS:
1. Có một nhà văn đã nói rằng : "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính
cuộc sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã
trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại.
Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật cô bé Thu
20


tám tuổi có một tình yêu cha đằm thắm, kì lạ, tiêu biểu cho những điều kì diệu mà những
con người Việt Nam đã viết nên.

2. “Trong cái im lặng của Sa Pa [...], Sa Pa mà chỉ nghe tên, người ta chỉ nghĩ đến
chuyện nghỉ ngơi, có những người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước”. Có những
người làm việc và lo nghĩ cho đất nước, đó là những con người lao động thầm lặng, hi
sinh hạnh phúc cá nhân, tìm hạnh phúc trong lao động. Nhân vật anh thanh niên trong
truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) là một bức chân dung kí hoạ đẹp đẽ
về con người này.
3. Cuộc kháng chiến đã qua đi, người lính trong chiến tranh giờ đây đã về với cuộc
sống hàng ngày. Tưởng như sự bận rộn hôm nay sẽ khiến người ta quên lãng quá khứ.
Nhưng có một lúc nào đó trong đời thường những kỉ niệm chiến tranh lại như những
thước phim quay chậm hiện về. Nguyễn Duy gửi tới bạn đọc thi phẩm “Ánh trăng” cũng
chính là gửi tới bạn đọc thông điệp : Không nên sống vô tình, phải biết thủy chung nghĩa
tình cùng quá khứ.
4. Đọc “Bếp lửa” của Bằng Việt tôi đã mường tượng ra một chàng trai trẻ trong cái giá
lạnh của mùa đông Ki-ép ở đất nước U-crai-na xa xôi đương cặm cụi sưởi ấm những
nguồn thương qua từng chữ, từng câu mà được thắp lên ngọn lửa đượm đà của một thời
thơ ấu đẹp đẽ sống bên người bà yêu dấu...Đến nay đã hơn bốn thập kỉ kể từ khi bài thơ
ra đời, ta thực khó rõ đã có bao nhiêu trái tim rung cảm mỗi khi đến với “Bếp lửa”. Chỉ
biết đằng sau mạch cảm xúc dạt dào của hoài niệm kia sẽ là gì nếu không phải một tình
lan tỏa với cái nóng, cái nồng đượm của “Bếp lửa quê nhà”, với sự ấm áp, ấp iu của
“ngọn lửa tình người”.
5. Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một "bài thơ cuộc đời". Bài thơ được
sáng tác năm 1958 nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hòn Gai, Cẩm Phả. Thông qua
một đêm đánh cá của đoàn thuyền lớn trên biển, tác giả ca ngợi kiểu lao động mới mẻ của
người lao động tràn đầy lạc quan tin tưởng, làm chủ thiên nhiên, biển cả bao la. Qua bài
thơ ta cảm nhận được không khí lao động khẩn trương, hăng say, nhộn nhịp của miền Bắc
thời kì xây dựng CNXH.

21



6. Phạm Tiến Duật là một trong những gương mặt xuất sắc của thơ ca Việt Nam thời
chống Mĩ cứu nước. Ông được gọi là "Viên ngọc Trường Sơn của thơ ca" bởi thi sĩ đã
mang cả hào khí thời đại cùng dãy Trường Sơn vào thơ. Đặc biệt mảng thơ về người lính
lái xe của ông đã để lại ấn tượng thật thú vị, đó là "Vết xe lăn" nóng bỏng trong những
bài thơ Trường Sơn thời chống Mĩ. Trong số những vần thơ thông minh, dí dỏm về người
lính lái xe Trường Sơn của Phạm Tiến Duật, phải kể đến Bài thơ về tiểu đội xe không
kính.
7. Chúng ta đã từng biết đến hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn qua tác
phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật. Họ là những chiến sĩ trẻ
trung sôi nổi can trường mang trong mình khát vọng thống nhất non sông. Và một lần nữa
chúng ta lại được gặp hình ảnh những con người gan dạ trẻ trung trên tuyến đường
Trường Sơn qua tác phẩm "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê. Đó là ba cô gái
nhỏ nhắn xinh xắn trong một tổ trinh sát mặt đường. Nhân vật chính trong tác phẩm và
cũng là người kể chuyện là Phương Định - một cô gái Hà Nội. Nhân vật đã để lại ấn
tượng sâu sắc trong lòng đông đảo bạn đọc.
8. Khoảnh khắc giao mùa có lẽ là khoảnh khắc đẹp đẽ nhất của tự nhiên,nó gieo vào
lòng người những rung động nhẹ nhàng khiến ta như giao hoà, đồng điệu. Khi chúng ta
chưa hết ngỡ ngàng bởi một Xuân Diệu “tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì ” thì đã gặp một
Hữu Thỉnh tinh tế, sâu sắc đến vô cùng qua một thoáng “Sang Thu” .
9. Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc
có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là “ thiên cổ kỳ bút” thì cho đến nay chỉ có một
“Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ .“Chuyện người con gái Nam Xương” được rút
trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó. Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại
trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc.
10. Tình cảm gia đình, tình yêu đối với quê hương xứ sở là những tình cảm nguyên
sơ nhưng cũng thiêng liêng nhất của con người Việt Nam. Lòng yêu thương con cái, ước
mong thế hệ sau nối tiếp xứng đáng truyền thống của tổ tiên, dân tộc, quê hương là sự thể
hiện cụ thể của tình cảm cao đẹp đó. Nhiều nhà thơ đã giãi bày những sắc thái tình cảm
ấy lên trang giấy. Chúng ta bắt gặp trong bài thơ “Nói với con” của tác giả Y Phương một
22



cách diễn đạt mộc mạc, chân chất của người miền núi những lời tâm tình thiết tha, những
lời dặn dò ân cần, chia sẻ của người cha đối với con lòng tự hào về con người và quê
hương yêu dấu của mình.
11. Bước ra khỏi chiến tranh, mỗi người lính có một ngã rẽ riêng để trở về với cuộc
đời thường nhật. Trong vô vàn cái lặng lẽ trở về ấy, ta bắt gặp như vô tình bóng hình nhà
văn Nguyễn Minh Châu. Trở về lặng lẽ, tiếp tục tìm tòi lặng lẽ, ngòi bút Nguyễn Minh
Châu vẫn chứa đựng những khám phá mới mẻ, sâu sắc, vẫn mang cái nhìn từng trải chắc
chắn của con người đã tôi luyện qua lò lửa chiến tranh. Chính bằng ngòi bút ấy, nhà văn
đã dựng lên một “Bến quê” mang ý nghĩa triết lí, mang đầy trải nghiệm về một đời người.
Có lẽ sẽ chẳng ai gấp lại trang sách “Bến quê” mà không cảm thấy một nỗi buồn bồi hồi,
xúc động trào dâng. Có chút gì đó se sẽ buồn, có chút gì đó se sẽ xót xa, ân hận nhưng
những cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp bình dị, gần gũi của quê hương thì vẫn còn lắng đọng
mãi mãi trong sâu thẳm tâm hồn mỗi người đọc chúng ta.
12. Đã là người Việt nam, ai lớn lên mà chẳng mang theo, dù ít, dù nhiều hơi ấm của
những lời ru, những lời yêu thương êm đềm khi xưa mẹ hát. Đã mang trong mình dòng
máu Việt, ai mà chẳng có một góc tuổi thơ trong sang, hồn nhiên, chập chờn theo đôi
cánh cò trắng ở nơi sâu thẳm hoài niệm, tâm hồn. Chế Lan Viên cũng vậy, ông cũng là
người Việt Nam, dòng máu chảy trong huyết quản ông cũng mang tên Lạc Hồng, có lẽ vì
thế, trong thơ ông, dù là suy ngẫm, dù là triết lí, ta vẫn gặp lời ru ầu ơ của mẹ, ta vẫn thấy
kỉ niệm tuổi thơ nồng cháy, ta vẫn nghe trong gió thong thả nhịp vỗ cánh cò. Và “Con cò”
là bài thơ tiêu biểu cho một hồn thơ như thế, một bài thơ mà chất triết lí, suy tưởng đã
hoà làm một với những lời ca đẹp đẽ nhất ca ngợi tình mẹ, ca ngợi ý nghĩa của những lời
hát ru với cuộc đời mỗi con người.
13. Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Không có cảm xúc,
thơ sẽ không thể có sức lay động hồn người, không có sự chân thành chút hồn của thơ
cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm vang mà
Chính Hữu đã gieo vào lòng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng chí" với
nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngôn ngữ bình dị dường như đã trở thành

những vần thơ của niềm tin yêu, sự hy vọng, lòng cảm thông sâu sắc của một nhà thơ

23


cách mạng. Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào
cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?
14.

“ Dẫu súng đạn nặng đường ra hỏa tuyến
Đi đường dài em giữ Truyện Kiều theo”

( Chế Lan Viên)

Trải qua mấy trăm năm với bao thử thách giông tố của thời gian Truyện Kiều của ND vẫn
giữ vị trí hàng đầu trong nền văn học dân tộc. Một trong những ngyên nhân làm cho TK
có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc là vì nhiều nhân vật của ND đã trở thành bất tử,
người đọc nhớ nhân vật hơn cả cốt truyện. Đó chính là do nghệ thuật miêu tả nhân vật
của ND. Đoạn trích……… sẽ giúp ta hiểu rõ điều đó.
15. Mùa xuân vốn là đề tài vô tận của thi nhân xưa & nay. Nếu như họa sĩ dùng
đường nét & sắc màu, nhạc sĩ dùng giai điệu & âm thanh thì thi sĩ lại dùng ngôn từ để
diễn tả cảm xúc của mình - đặc biệt là tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh sắc quê hương. Ta
đã từng bắt gặp một sắc cỏ xuân non tơ trong thơ ND, một nét xuân chín rạo rực của thi sĩ
họ Hàn, hay một mùa xuân xanh tươi tắn nhẹ nhàng trong thơ NBính. Và xúc động biết
bao khi ta được hòa mình vào Mùa xuân nho nhỏ của nhà thơ xứ Huế – Thanh Hải để rồi
thêm hiểu & yêu cuộc sống hơn

24




×