Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

ĐỀ TÀI HIỆN TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (551.6 KB, 76 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Sau gần 20 năm đổi mới nền kinh tế, từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của Nhà nước, nền kinh tế
nước nhà đã đạt được những thành tựu quan trọng bước đầu, song cũng chỉ đáp ứng được một phần
trước những nhu cầu cấp thiết của xã hội, đặc biệt là nhu cầu việc làm do tỷ lệ thất nghiệp gia tăng
từ chuyển đổi nền kinh tế và bùng nổ dân số.
Trong những năm gần đây, xuất khẩu lao động đã trở thành một hoạt động kinh tế - xã hội quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta. Từ khi ra đời và phát triển đến nay đã được hơn
20 năm, xuất khẩu lao động Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, song bên cạnh đó, vẫn
còn tồn tại nhiều hạn chế và những thách thức mới. Với sức ép nội tại về việc làm, nguyện vọng của
người lao động và lợi ích Quốc gia, đòi hỏi phải được đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả, kể cả số
lượng lẫn chất lượng của chương trình xuất khẩu lao động, hiện tại cũng như trong những năm tới.
Nhằm đưa lĩnh vực xuất khẩu lao động lên một tầm cao mới, tương xứng với vị trí và vai trò quan
trọng của nó.
Trong điều kiện, hoàn cảnh kinh tế nước ta hiện nay và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy
mạnh xuất khẩu lao động Việt Nam hay thực chất là đưa nhiều lao động Việt Nam đi làm việc có
thời hạn ở nước ngoài là một hoạt động cần thiết. Sau quá trình học tập, nghiên cứu và đi thực tập, là
một sinh viên tôi nhận thức sâu sắc rằng: Xuất khẩu lao động quả thực là một vấn đề mới, rất khó và
phức tạp; đang được Đảng, Nhà nước và toàn Xã hội quan tâm, coi đó là một trong 4 ngành kinh tế
quan trọng của đất nước. Với lý do đó tôi đã lựa chọn đề tài “Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong những năm tới” làm đề tài cho Luận văn
tốt nghiệp của mình, nhằm góp phần làm rõ thêm về mặt lý luận và đáp ứng yêu cầu thực tiễn cũng
như những yêu cầu mới đối với xuất khẩu lao động trong những năm tới.
 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam hay thực chất là
việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
 Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp biện chứng.
- Phương pháp phân tích.
LuËn v¨n tèt nghiÖp



1


- Phương pháp thống kê toán.
- Phương pháp chuyên gia, điều tra khảo nghiệm tổng kết thực tiễn.
 Nội dung nghiên cứu:
- Xây dựng cơ sở lý luận về việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả của xuất khẩu lao động Việt
Nam.
- Phân tích và đánh giá thực trạng của hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam qua các thời kỳ
từ 1980 đến nay.
Qua đó phát hiện những điểm tích cực và hạn chế (tồn tại khiếm khuyết của xuất khẩu lao động
Việt Nam), tiến tới xây dựng các phương hướng, biện pháp đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất
khẩu lao động Việt Nam. Đồng thời, đưa ra các kiến nghị, chính sách nhằm đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả của xuất khẩu lao động Việt Nam trong hiện tại cũng như trong những năm tới.
Với lượng thời gian nghiên cứu, thực tập và viết đề tài hạn hẹp, nội dung nghiên cứu của đề tài
mà tác giả đưa ra dưới đây sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót bất cập. Kính mong các Thầy
giáo, Cô giáo, các Cô chú, Anh chị cán bộ công nhân viên thuộc Cục Quản lý Lao động với nước
ngoài và Công ty Cung ứng Nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA) cùng các bạn sinh viên quan
tâm góp ý phê bình để đề tài luận văn này được hoàn thiện hơn.
Ngoài các phần: Lời nói đầu, Danh mục các tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của đề tài
Luận văn được chia thành 3 chương sau đây:
Chương 1:
Cơ sở lý luận về xuất khẩu lao động.
Chương 2:
Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam qua các thời kỳ.
Chương 3:
Một số biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu
lao động Việt Nam trong những năm tới.


Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2003.
Người thực hiện:
Sinh viên: Nguyễn Lương Đoàn.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

2


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, cho phép em được bày tỏ lời cảm ơn và lòng biết ơn sâu sắc tới tập thể Thầy giáo, Cô
giáo trường Đại học Quản lý và Kinh doanh Hà Nội, đã dạy dỗ, dìu dắt em trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu tại Nhà trường.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Trưởng khoa Thương mại P.G.S T.S Trần Văn Chu, Thầy
giáo Phó chủ nhiệm khoa Thương mại T.S Trần Văn Hoè cùng tập thể các Thầy cô trong khoa, đã
tạo mọi điều kiện tốt nhất cho em trong việc học tập, rèn luyện cũng như đi thực tập và viết đề tài
luận văn của mình.
Đặc biệt, cho phép em được bày tỏ tình cảm và lòng biết ơn chân thành tới Thầy giáo T.S Nguyễn
Anh Tuấn Phó phòng tổ chức cán bộ, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, người đã dành
nhiều thời gian tận tình hướng dẫn em trong việc định hướng, lựa chọn và viết đề tài luận văn của
mình.
Em cũng xin được bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới các Cô, Chú, Anh Chị cán bộ công nhân viên
Cục Quản lý Lao động với Nước ngoài – Bộ Lao động Thương binh và Xã hội số 41 Lý Thái Tổ –
Hoàn Kiếm - Hà Nội cùng các Cô, Chú, Anh, Chị cán bộ công nhân viên thuộc Công ty Cung ứng
Nhân lực Quốc tế và Thương mại SONA số 34 Đại Cồ Việt – Hai Bà Trưng – Hà Nội. Đã hợp tác, tận
tình quan tâm giúp đỡ em trong suốt quá trình tìm hiểu và nghiên cứu về các hoạt động quản lý, kinh
doanh xuất khẩu lao động tại Cục và Công ty, để em sớm hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp của
mình.
Xin chân thành cảm ơn các Cá nhân, Tổ chức kinh tế, Xã hội đã cung cấp và cho phép sử dụng

tài liệu trong việc thực hiện và viết đề tài của cuốn luận văn này.

Sinh viên: Nguyễn Lương Đoàn
Lớp 402 – KTĐN

LuËn v¨n tèt nghiÖp

3


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
1. Bản chất của hoạt động xuất khẩu lao động.
1.1 Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1 Khái niệm nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là một lực lượng bao gồm toàn bộ lao động trong xã hội, không phân biệt về
trình độ, tay nghề, Nam nữ, tuổi tác.
Hoặc nguồn nhân lực còn được hiểu là một bộ phận của dân số, bao gồm những người có việc
làm và những người thất nghiệp.
1.1.2 Khái niệm nguồn lao động.
Nguồn lao động là một bộ phận của dân cư, bao gồm những người đang ở trong độ tuổi lao động,
không kể mất khả năng lao động, và bao gồm những người ngoài độ tuổi lao động(1).
1.1.3 Khái niệm nhân lực.
Nhân lực là nguồn lực của mỗi con người, nó bao gồm cả thể lực và trí lực.
1.1.4 Khái niệm lao động.
Lao động là hoạt động có chủ đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi những những vật thể
tự nhiên phù hợp với lợi ích của mình. Lao động còn là sự vận động của sức lao động trong quá
trình tạo ra của cải, vật chất và tinh thần, là quá trình kết hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất.
1.1.5 Khái niệm sức lao động.
Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người trong quá trình lao động tạo ra của cải,

vật chất, tinh thần cho xã hội.
1.1.6 Khái niệm việc làm.
Việc làm là một hoạt động có ích, không bị pháp luật ngăn cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện
tăng thêm thu nhập cho những người trong cùng hộ gia đình.
(1)

Trên, dưới độ tuổi lao động (từ 16 – 55 đối với Nữ, 16 – 60 đối với Nam).

LuËn v¨n tèt nghiÖp

4


1.1.7 Khái niệm xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động: (Export of Labour), được hiểu như là công việc đưa người lao động từ nước
sở tại đi lao động tại nước có nhu cầu thuê mướn lao động.
Lao động xuất khẩu: (Labour Export), là bản thân người lao động, có những độ tuổi khác nhau,
sức khỏe và kỹ năng lao động khác nhau, đáp ứng được những yêu cầu của nước nhập khẩu lao
động.
Như trên đã đề cập, việc các nước đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo nghĩa rộng tức là
tham gia vào quá trình di dân quốc tế và nó phải tuân theo hoặc là Hiệp định giữa hai quốc gia, hoặc
là phải tuân theo Công ước quốc tế, hoặc thông lệ quốc tế, tùy theo từng trường hợp khác nhau mà
nó nằm ở trong giới hạn nào.
Như vậy, việc di chuyển lao động trong phạm vi toàn cầu bản thân nó cũng có những biến dạng
khác nhau. Nó vừa mang ý nghĩa xuất khẩu lao động, vừa mang ý nghĩa của di chuyển lao động. Do
đó, đã phát sinh ra vấn đề sau:
1.1.8 Khái niệm thị trường.
Thị trường là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ.
1.1.9 Khái niệm thị trường lao động.
Thị trường lao động là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường trong nền kinh tế thị

trường phát triển. Ở đó diễn ra quá trình thoả thuận, trao đổi, thuê mướn lao động giữa hai bên, bên
sử dụng và bên cho thuê lao động.
1.1.10

Khái niệm thị trường lao động trong nước.

Thị trường lao động trong nước là một loại thị trường, trong đó mọi lao động đều có thể tự do di
chuyển từ nơi này đến nơi khác, nhưng trong phạm vi biên giới của một quốc gia.
l.1.11 Khái niệm thị trường lao động quốc tế.
Thị trường lao động quốc tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống thị trường thế giới, trong đó
lao động từ nước này có thể di chuyển từ nước này sang nước khác thông qua Hiệp định, các Thoả
LuËn v¨n tèt nghiÖp

5


thuận giữa hai hay nhiều quốc gia trên thế giới.
1.2

Sự hình thành và phát triển của thị trường hàng hoá sức lao động quốc tế.

Do sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế – xã hội, cũng như sự phân bố
không đồng đều về tài nguyên, dân cư, khoa học công nghệ giữa các vùng, khu vực và giữa các quốc
gia, dẫn đến không một quốc gia nào lại có thể có đầy đủ, đồng bộ các yếu tố cần thiết cho sản xuất
và phát triển kinh tế.
Để giải quyết tình trạng bất cân đối trên, tất yếu sẽ dẫn đến việc các quốc gia phải tìm kiếm và sử
dụng những nguồn lực từ bên ngoài để bù đắp một phần thiếu hụt các yếu tố cần thiết cho sản xuất
và phát triển kinh tế của đất nước mình.
Thông hường, các nước xuất khẩu lao động đều là những quốc gia kém hoặc đang phát triển, dân
số đông, thiếu việc làm ở trong nước hoặc có thu nhập thấp, không đủ để đảm bảo cho cuộc sống

của gia đình và cho chính bản thân người lao động. Nhằm khắc phục tình trạng khó khăn này, buộc
các nước trên phải tìm kiếm việc làm cho người lao động của nước mình từ bên ngoài. Trong khi đó,
ở những nước có nền kinh tế phát triển thường lại có ít dân, thậm chí có những nước đông dân
nhưng vẫn không đủ nhân lực để đáp ứng nhu cầu sản xuất do nhiều nguyên nhân: Công việc nặng
nhọc, nguy hiểm và độc hại… nên không hấp dẫn họ, dẫn tới thiếu hụt lao động cho sản xuất. Để có
thể duy trì và phát triển sản xuất, bắt buộc các nước này phải đi thuê lao động từ các nước kém phát
triển hơn, có nhiều lao động dôi dư và đang có khả năng cung ứng lao động làm thuê.
Vậy là đã xuất hiện nhu cầu trao đổi giữa một bên là những quốc gia có nguồn lao động dôi dư
với một bên là các nước có nhiều việc làm, cần thiết phải có đủ số lượng lao động để sản xuất. Do
đó vô hình chung đã làm xuất hiện (Cung – Cầu): Cung, đại diện cho bên có nguồn lao động, còn
Cầu đại diện cho bên các nước có nhiều việc làm, đi thuê lao động. Điều này cũng đồng nghĩa với
việc đã hình thành lên một loại thị trường, đó là thị trường hàng hoá lao động quốc tế.
Khi lao động được hai bên mang ra thoả thuận, trao đổi, thuê mướn, lúc này sức lao động trở
thành một loại hàng hoá như những loại hàng hoá hữu hình bình thường khác. Như vậy, sức lao
động cũng là một loại hàng hoá khi nó được đem ra trao đổi, mua bán, thuê mướn và khi đã là một
loại hàng hoá thì hàng hoá sức lao động cũng phải tuân theo những quy luật khách quan của thị
trường: Quy luật cung – cầu, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh… như những loại hàng hoá hữu
hình khác.
Như đã phân tích ở trên, cho thấy: Để có thể hình thành thị trường lao động xuất khẩu trước hết
LuËn v¨n tèt nghiÖp

6


phải xuất phát từ những nhu cầu trao đổi hoặc thuê mướn lao động giữa bên cho thuê lao động và
bên đi thuê lao động. Thực chất, khi xuất hiện nhu cầu trao đổi, thuê mướn lao động giữa quốc gia
này với quốc gia khác, là đã hình thành lên hai yếu tố cơ bản của thị trường, đó là cung và cầu về lao
động. Như vậy là thị trường hàng hoá sức lao động quốc tế đã được hình thành từ đây.
Trong điều kiện hội nhập phát triển đời sống kinh tế như hiện nay, quan hệ cung – cầu không còn
bị bó hẹp trong phạm vi một quốc gia, biên giới của một nước chỉ còn ý nghĩa hành chính, còn quan

hệ này ngày càng diễn ra trên phạm vi quốc tế, mà trong đó bên Cung đóng vai trò là bên xuất khẩu và
Cầu sẽ đại diện cho bên nhập khẩu lao động.
1.3

Sự cần thiết khách quan và vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế –
xã hội của Việt Nam.

1.3.1 Sự cần thiết khách quan phát triển hoạt động xuất khẩu lao động.
Thực tế cho thấy, nước ta là một quốc gia đông dân khoảng hơn 80 triệu người. Theo số liệu
thống kê năm 1998 của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, nước ta có khoảng 40 triệu người
đang ở độ tuổi lao động, hàng năm tăng thêm 1,1 triệu lao động và hiện nay là 1,2 triệu lao
động/năm, chiếm 3% trong tổng số lực lượng lao động. Riêng lao động kỹ thuật cao chúng ta có
khoảng 5 triệu chiếm khoảng 12,5%, trong đó lao động có trình độ Đại học, Cao đẳng là 23%
khoảng 1.150.000 người. Bên cạnh đó, hiện có khoảng 9,4 triệu lao động thiếu việc làm, chiếm
23,5% lực lượng lao động. Tỷ lệ thất nghiệp của lực lượng lao động trong độ tuổi ở khu vực đô thị
đã giảm liên tục từ 10% năm 1991 xuống còn 5,88% năm 1996 nhưng đến năm 1998 tỷ lệ này lại
nhích lên 6,85%(1) và lại tiếp tục giảm nhẹ xuống còn 6,28% vào năm 2001. Tỷ lệ sử dụng thời gian
lao động ở khu vực nông thôn cũng có xu hướng tăng lên từ 72,1% năm 1996 lên 74,4% vào năm
2001.
Với tình trạng tốc độ phát triển nguồn lao động nêu trên, mâu thuẫn giữa lao động và việc làm
ngày càng trở nên gay gắt đối với nền kinh tế. Nếu không giải quyết một cách hài hoà và có những
bước đi thích hợp giữa mục tiêu kinh tế và xã hội sẽ dẫn tới mất ổn định nghiêm trọng về mặt xã
hội. Cùng với hướng giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động là một định hướng
chiến lược tích cực quan trọng, lâu dài, cần phải được phát triển lên một tầm cao mới, phù hợp với
vai trò của nó. Đó cũng là xu hướng chung mà nhiều nước xuất khẩu lao động đã quan tâm phát
triển từ nhiều thập kỷ trước đây.
Để giải quyết được vấn đề này, xuất khẩu lao động đã trở thành một lĩnh vực cứu cánh cho bài
(1)

Do tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính – kinh tế khu vực năm 1997.


LuËn v¨n tèt nghiÖp

7


toán giải quyết việc làm không những của Việt Nam mà còn đối với cả hầu hết các nước xuất khẩu
lao động trong khu vực và trên thế giới, vì đây là lĩnh vực đạt được liền lúc cả hai mục tiêu kinh tế –
xã hội: vừa đảm bảo mục tiêu giải quyết công ăn việc làm, vừa tạo nguồn thu ngoại tệ mạnh để phát
triển kinh tế xã hội trong nước.
1.3.2 Vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển Kinh tế – Xã hội của Việt Nam.
Với tư cách là một lĩnh vực hoạt động kinh tế, cần phải được xem xét, đánh giá các mặt hiệu quả
tích cực mà xuất khẩu lao động đã mang lại. Một khi nhận thức đúng đắn về hiệu quả của xuất khẩu
lao động, cùng với việc vạch ra các chỉ tiêu, xác định nó là cơ sở quan trọng cho việc đánh giá hiện
trạng và chỉ ra các phương hướng cũng như các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động
đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Thông thường, hiệu quả nói chung, thường được biểu hiện qua hiệu số giữa kết quả đạt được và
chi phí. Tuy nhiên, trong nền kinh tế xã hội, mỗi kết quả thường có đồng thời cả hai mặt đó là mặt
kinh tế và mặt xã hội. Hiệu quả kinh tế được tính theo công thức trên, còn hiệu quả xã hội lại được
hiểu như những kết quả tích cực so với mục tiêu. Khi đánh giá về vai trò của xuất khẩu lao động đối
với sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam trong những năm trước đây và hiện tại, không một ai
có thể phủ nhận những gì mà xuất khẩu lao động Việt Nam đã đóng góp. Xuất khẩu lao động không
những vừa đạt được mục tiêu về kinh tế, mà còn đạt được cả mục tiêu về xã hội.
 Về mục tiêu Kinh tế.
Trong khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế chưa lâu, kinh tế nước ta còn gặp vô vàn những khó
khăn, mọi nguồn lực còn eo hẹp, thì việc hàng năm chúng ta đưa hàng vạn lao động ra nước ngoài
làm việc, đã mang về cho đất nước hàng tỷ USD/năm từ hoạt động xuất khẩu lao động. Đây quả là
một số tiền không nhỏ đối với những quốc gia đang phát triển như chúng ta.
 Về mục tiêu xã hội.
Mặc dù còn có những hạn chế nhất định so với tiềm năng, song xuất khẩu lao động Việt Nam

trong những năm qua, bước đầu đã đạt được những thành công nhất định về mục tiêu kinh tế - xã
hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Trước hàng loạt những khó khăn và gánh nặng thất nghiệp và thu nhập của người lao động trong
nước, cùng với các biện pháp tìm kiếm và tạo công ăn, việc làm trong nước là chủ yếu thì xuất khẩu
lao động đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng, góp phần tạo công ăn việc làm và
thu nhập cho hàng vạn lao động mỗi năm, đồng thời làm giảm sức ép về việc làm và tạo sự ổn định
xã hội ở trong nước…
LuËn v¨n tèt nghiÖp

8


1.4

Quy trình xuất khẩu lao động.

Trong mỗi một giai đoạn, xuất khẩu lao động đều có một quy trình xuất khẩu riêng, phù hợp với
tính chất của từng giai đoạn. Trong thời kỳ đầu (1980 – 1990), quy trình xuất khẩu lao động được
thực hiện chủ yếu trêu cơ sở Hiệp Định được ký kết giữa hai Chính phủ, thoả thuận ngành với
ngành. Cơ chế xuất khẩu lao động dựa trên mô hình nhà nước trực tiếp ký kết và tổ chức thực hiện
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, các doanh nghiệp không trực tiếp tham gia đàm phán,
ký kết hợp đồng, đồng thời các công đoạn cũng ít phức tạp hơn… Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện
nay quy trình xuất khẩu lao động Việt Nam đã có nhiều thay đổi, các doanh nghiệp phải tự vận động
tìm kiếm và xúc tiến xuất khẩu lao động. Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ trong việc đàm phán cấp
cao chứ không đóng vai trò chủ đạo như trước kia. Do vậy, xuất khẩu lao động Việt Nam hiện tại
chủ yếu được thực hiện theo các bước sau đây:

 Về phía Nhà nước.
Nhà nước chỉ đóng vai trò là người hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc hướng dẫn, tư vấn và
đưa hợp tác lao động vào các chương trình làm việc, đàm phán cấp cao giữa hai chính phủ với các

quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới có khả năng tiếp nhận lao động Việt Nam.
 Về phía doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
- Chủ động tìm kiếm thị trường.
- Đàm phán ký thoả thuận (hợp đồng).
- Tuyển chọn lao động.
- Đào tạo giáo dục định hướng cho người lao động.
+

Ngoại ngữ, kỷ luật lao động.

+

Phong tục, tập quán nước đến.

+

Nội dung hợp đồng.

+

Quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động.

- Tổ chức khám tuyển.
- Đưa lao động đi.
- Quản lý lao động ở nước ngoài.
- Tiếp nhận lao động trở về và thanh lý hợp đồng.
LuËn v¨n tèt nghiÖp

9



- Tái xuất (nếu pháp luật của nước tiếp nhận cho phép và doanh nghiệp đó yêu cầu).


Sơ đồ Quy trình xuất khẩu lao động Việt Nam trong giai đọan hiện nay: xem Phụ lục số
(1).

1.5

Kinh nghiệm xuất khẩu lao động ở một số quốc gia trên thế giới.

1.5.1 Tình hình xuất khẩu lao động trên thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập nền kinh tế, sự cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt,
hàng loạt các nước thuộc Châu Á có lao động xuất khẩu, từ nhiều thập kỷ trở lại đây đều đưa ra
những chính sách phát triển và ít nhiều đã tạo dựng được nền tảng vững chắc và thành công bước
đầu, đặc biệt là các nước xuất khẩu lao động: Banglades, Ấn Độ, Pakistan, Srilanka, Indonesia,
Philippin, Thailand, Trung Quốc…. hàng năm nhờ vào giá nhân công thấp, các nước xuất khẩu lao
động Châu Á tìm mọi cơ hội để cạnh tranh với chính các nước cùng xuất khẩu lao động trong khu
vực cũng như các nước khác trên thế giới và kết quả là hàng năm có hàng triệu lao động từ các nước
này được đưa đi làm việc ở nước ngoài và đem về cho đất nước mình một lượng ngoại tệ khổng lồ.
Trong những năm 80, Việt Nam ta có khoảng gần 300.000 lao động làm việc tại các nước Đông Âu,
Liên xô, Iraq và một số nước thuộc Châu Phi khác. Trong những năm gần đây, lao động Việt Nam
đưa đi ngày một tăng và tương đối ổn định, trung bình khoảng 30.630 lao động/năm(1).

Các nước phát triển: Anh, Pháp, Canada, Đức… cũng không đứng ngoài cuộc, phần lớn họ đưa
lao động ra nước ngoài làm việc chủ yếu là các chuyên gia để thu ngoại tệ cho đất nước, đồng thời
mỗi năm họ cũng vẫn tiếp nhận hàng vạn lao động từ các nước khác đến làm việc.
1.5.2 Kinh nghiệm của một số nước Đông Nam Á về xuất khẩu lao động.
Cơ chế quản lý và chính sách xuất khẩu lao động đã được quy định rất rõ ràng trong bộ luật lao
động năm1973 đối với Philppin và 1985 đối với Thái Lan. Bộ luật này đã tạo cơ sở cho việc xúc tiến

mạnh mẽ xuất khẩu lao động dư thừa cho tới khi nền kinh tế trong nước có thể tự đáp ứng hết số
người đến tuổi lao động.
Để thực hiện được các mục tiêu đó, Chính phủ Philippin và Thai Lan đã có những biện pháp quản
lý đặc biệt và đã gặt hái được những thành công quan trọng trong những năm qua.
1.5.2.1
(1)

Philippin:

Số liệu được tính bình quân từ năm 1996 đến tháng 10 năm 2003 .

LuËn v¨n tèt nghiÖp

10


Thành lập 3 cơ quan chuyên trách, độc lập thuộc Bộ Lao động và việc làm:
- Ban phát triển việc làm ngoài nước: chịu trách nhiệm quản lý mọi hoạt động về tuyển mộ và
bố trí lao động trên đất liền.
- Hội đồng thuỷ thủ quốc gia: chịu trách nhiệm về quản lý mọi hoạt động của các doanh nghiệp
tuyển mộ thuỷ thủ đi làm việc trên biển.
- Văn phòng dịch vụ việc làm: chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi các tổ chức tuyển dụng đã
được cấp giấy phép trong việc bố trí việc làm ngoài nước cho đến khi kết thúc hợp đồng.
Chính phủ Philippin thực hiện quản lý các doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân bằng một cơ
quan quản lý duy nhất là Cục Quản lý việc làm ngoài nước. Cơ quan này chịu trách nhiệm về phát
triển thị trường và cấp giấy phép, giám sát các doanh nghiệp đã được cấp giấy phép. Hỗ trợ người
lao động trước khi đi lao động ở nước ngoài, tại nơi làm việc và sau khi lao động về nước.
Nhằm thực hiện tốt các nhiện vụ trên, Chính phủ Philippin đã quy định tất cả việc thuê mướn,
tuyển dụng lao động Philippin phải thông qua Cục Quản lý việc làm ngoài nước hoặc công ty tuyển
mộ được cấp phép, phải tổ chức đào tạo và huấn luyện cho người lao động trước khi đi. Cho phép

xuất khẩu cả những lao động có trình độ đặc biệt, thành lập các quỹ lao động, quảng cáo và tổ chức
đăng ký nguồn(1) nhưng phải nói rõ nguồn và không được thu lệ phí của người lao động đến tuyển.
Chính phủ Philippin cũng quy định: Đối với các doanh nghiệp muốn được cấp giấy phép xuất khẩu
lao động phải có giấy phép đăng ký kinh doanh, đồng thời phải có khả năng về tài chính, có tài sản
thế chấp từ 12.500USD trở lên, phải nộp một khoản tiền đặt cọc 5000USD, phải nộp một khoản tiền
bảo lãnh là 7.500USD và lệ phí xin cấp giấy phép 300USD cùng với đơn xin cấp giấy phép. Giấy
phép có giá trị trong vòng 24 tháng kể từ ngày cấp và có thể gia hạn bằng với thời gian giá trị giấy
phép. Giấy phép phải được tuân thủ theo các điều kiện sau:
- Không được phép chuyển nhượng, giấy phép được cấp cho loại lao động nào thì chỉ được
phép tuyển loại lao động đó. Những thay đổi về nhân sự, trụ sở giao dịch, phải báo cáo và được sự
chấp thuận của Cục Việc làm ngoài nước.
Chính phủ Philippin cũng đã có những quy định hết sức chặt chẽ trong việc đảm bảo quyền lợi
của người lao động và lợi ích quốc gia như quy định về thủ tục, tiêu chuẩn tuyển người lao động đi
nước ngoài làm việc.
1.5.2.2

Thái Lan:

Việc xuất khẩu lao động cũng được quy định trong Bộ luật lao động Thái Lan năm 1983, trong đó
nêu rõ:
Tập trung hoá việc cấp phép và quản lý các doanh nghiệp tuyển dụng lao động tư nhân, thành lập
(1)

Nguồn tuyển lao động.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

11



cơ quan tuyển dụng lao động của Chính phủ, xác định cụ thể hơn nhiệm vụ cũng như trách nhiệm
của các cơ quan tuyển dụng lao động. Quy định việc gửi ngoại tệ của người lao động về nước, thành
lập quỹ phúc lợi của người lao động và cũng quy định mức độ kỷ luật, hình phạt, đối với các hành vi
phạm pháp.
Trong hoạt động xuất khẩu lao động, Chính phủ Thái Lan thực hiện hai chức năng:
- Điều phối các hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân trong xuất khẩu lao động (kể cả trong
nước lẫn ngoài nước).
- Văn phòng quản lý lao động ngoài nước thuộc Tổng cục lao động (Bộ Nội vụ), là cơ quan
Chính phủ cao nhất thực hiện các chức năng trên, có nhiệm vụ cấp giấy phép và quản lý các hoạt
động của các doanh nghiệp đã được cấp giấy phép. Chính phủ Thái Lan cũng có chính sách hỗ trợ
một phần quỹ phúc lợi cho người lao động, số còn lại người lao động phải đóng góp. Quỹ này chủ
yếu dùng để hỗ trợ hành chính và tài chính cho người lao động trước khi đi và khi trở về gặp nhiều
khó khăn như: Hồi hương, tai nạn, chết và trợ cấp khó khăn cho người lao động.
Thái Lan cũng cho phép xuất khẩu những lao động có trình độ cao và cho phép mọi cá nhân có
thể tự tìm kiếm việc làm ở nước ngoài và Chính phủ cũng cho phép các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động thu một phần lệ phí xuất khẩu lao động nhưng chỉ bằng 1 tháng lương của người lao động, nếu
không đi được thì doanh nghiệp phải hoàn trả lại cho người lao động.
1.5.3 Những bài học kinh nghiệm.
1.5.3.1

Vai trò của Nhà nước.

Để có thể tồn tại và phát triển phù hợp với những xu hướng vận động của nề kinh tế thế giới và
quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra trong khu vực và trên thế giới, xuất khẩu lao động càng phải
nhận được sự quan tâm, hướng dẫn chỉ đạo đặc biệt từ phía Nhà nước. Cho nên muốn hay không
muốn thì vai trò của nhà nước trong bối cảnh hiện nay và kể cả trong tương lai vẫn đóng một vai trò
quan trọng và cần thiết trong việc hoạch định chính sách phát triển xuất khẩu lao động, nhằm đáp
ứng những yêu cầu cấp thiết trong tình hình mới. Thực tế đã chứng minh, càng ngày xuất khẩu lao
động càng được các chuyên gia đưa vào hoạch định chính sách phát triển kinh tế, coi xuất khẩu lao
động là một trong các ngành kinh tế mũi nhọn, quan trọng của đất nước trong việc thực hiện các

mục tiêu kinh tế xã hội của nước mình. Do đó để thực hiện tốt những mục tiêu có tính chất chiến
lược đã được hoạch định, Nhà nước phải ban hành hệ thống luật pháp, cơ chế và chính sách nhằm:
+

Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động xuất khẩu lao động phát triển.

+

Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động phát triển.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

12


+
1.5.3.2

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động…
Thu nhập và quyền lợi kinh tế, vấn đề không chỉ đối với người lao động.

Trong một vài thập kỷ trở lại đây, vấn đề nguồn thu ngoại tệ thu được (1) từ lao động xuất khẩu đã
có tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều quốc gia xuất khẩu lao động, trong đó có Việt Nam
chúng ta. Trong điều kiện suy thoái nền kinh tế, chính sách bảo hộ mậu dịch của các nước phát triển
đã tạo nên sức ép lên cán cân thanh toán của những nước chậm và đang phát triển, thì nguồn kiều
hối từ xuất khẩu lao động trở thành một nguồn quan trọng trong việc làm cân bằng cán cân thanh
toán. Bên cạnh đó, một số quốc gia đã đưa lượng kiều hối từ xuất khẩu lao động vào tính toán thu
nhập quốc dân. Chính những vấn đề này buộc chúng ta phải thừa nhận vai trò tích cực và những
thay đổi do xuất khẩu lao động đã mang lại cho tổng nguồn thu của nền kinh tế quốc gia. Vì vậy,
không một quốc gia nào khi làm công tác xuất khẩu lao động lại chỉ chú ý và đảm bảo thu nhập kinh

tế, quyền lợi cá nhân người lao động, mà không tính đến những lợi ích quốc gia.
1.5.3.3

Việc làm khi lao động trở về nước.

Thông thường, phần lớn các nước xuất khẩu lao động đều thuộc diện những nước kém, chậm và đang
phát triển, đông dân, lao động dư thừa, thiếu vốn đầu tư sản xuất trong nước, khan hiếm việc làm nên
khó có khả năng thu hút và đáp ứng được nhu cầu việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động
trong nước. Do đó nên sau khi kết thúc hợp đồng lao động trở về, có một bộ phận người lao động trước
khi đi họ đã có việc làm ổn định, nay trở về thường có tâm lý không trở lại nghề cũ mà tìm cách tiếp cận
với công việc khác nhẹ nhàng và có thu nhập cao hơn. Bên cạnh đó, một bộ phận những người lao động
khác, khi trở về họ thực sự không thể tự tìm kiếm được việc làm mới, kể cả trở lại nghề cũ hoặc tìm
được những công việc có thu nhập không đáng kể. Vì thế, phần lớn trong số họ lại mong muốn được tiếp
tục đi xuất khẩu lao động một lần nữa. Tuy vậy, do chúng ta chưa thực sự ý thức được vấn đề hậu xuất
khẩu lao động, nên thường thì người lao động khi trở về nước lại phải bắt đầu tìm kiếm từ đầu một khi
họ muốn tiếp tục ra nước ngoài làm việc. Chính vì vậy mà không phải ai muốn trở lại hoặc sang một
nước khác có điều kiện làm việc, thu nhập tốt hơn cũng có thể sang được. Việc mong muốn được tiếp
tục ra nước ngoài làm việc vẫn còn là một chuyện cực kỳ khó khăn đối với phần đông người lao động,
nên mới dẫn đến tình trạng người lao động bỏ trốn ra làm việc và sống lưu vong ở chính nước mình đến
lao động. Trong khi đó, ở một số quốc gia cùng xuất khẩu lao động như Philippine, Thái Lan, Pakistan…
một khi người lao động đã hoàn thành hợp đồng trở về, họ thường được chính doanh nghiệp vận động
tái xuất bằng những chính sách ưu tiên đặc biệt, nhằm khuyến khích người lao động tiếp tục trở lại nước
(1)

Tiền lương của người lao động sau khi gửi về Việt Nam bắt buộc phải quy đổi ra VNĐ.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

13



cũ, hoặc là sang lao động ở một nước khác có điều kiện làm việc tốt hơn, nên có rất nhiều lao động tham
gia tái xuất, thậm chí có rất nhiều lao động cả đời chỉ đi lao động ở nước ngoài. Đây là chính sách hậu
xuất khẩu rất quan trọng mà các quốc gia này đã quan tâm và khai thác triệt để từ lâu, nó cũng có thể coi
là biện pháp hạn chế thất nghiệp hậu xuất khẩu mà Việt Nam chúng ta cần phải quan tâm và phát triển
hơn nữa.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM
QUA CÁC THỜI KỲ
2.1

Đặc điểm cơ bản của lao động Việt Nam và các thị trường xuất khẩu lao động.

2.1.1 Đặc điểm cơ bản của lao động Việt Nam.
So với lao động cùng loại của các nước xuất khẩu lao động, lao động Việt Nam được giới chủ đánh
giá cao, tuy nhiên cũng có một số đặc điểm nổi bật cũng như hạn chế sau.
 Ưu điểm:
- Thông minh, nhanh nhẹn, cần cù, chịu khó, ham hiểu biết.
- Trình độ học vấn tương đối cao.
- Nắm bắt công việc nhanh.
 Nhược điểm:
- Tác phong công nghiệp kém (mang nặng tác phong nông nghiệp).
- Thể lực yếu, chưa thích nghi được với cường độ lao động công nghiệp.
- Ngoại ngữ kém.
- Ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao.
2.1.2 Đặc điểm của thị trường xuất khẩu lao động Việt Nam.
Nhìn chung, về thị trường xuất khẩu lao động Việt Nam khá đa dạng, lao động Việt Nam đã có
mặt ở hầu hết khắp các khu vực cũng như Châu lục trên thế giới. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này,
thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam tập trung chủ yếu ở một số nước trong khu vực. Những
thị trường này đều có khoảng cách gần gũi về địa lý, có nhiều điểm tương đồng về truyền thống văn

LuËn v¨n tèt nghiÖp

14


hoá cũng như khí hậu…
Một số quốc gia như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia hiện đang và sẽ còn tiếp tục tiếp
nhận lao động Việt Nam với số lượng lớn. Đặc biệt là thị trường Malaysia và thị trường Đài Loan,
đây là hai thị trường rất có thiện cảm với lao động Việt Nam, cho nên thay vì tiếp nhận lao động các
nước khác, nay họ chuyển dần sang tiếp nhận lao động Việt Nam với số lượng lớn cho mọi ngành
nghề khác nhau. Hàn Quốc và Nhật Bản cũng được coi là hai thị trường khá dễ tính trong việc tiếp
nhận lao động Việt Nam. Do yêu cầu về tiêu chuẩn lao động không cao, nên phần lớn lao động Việt
Nam đều có đủ điều kiện về thể lực, trí lực cũng như trình độ tay nghề để đáp ứng. Hơn nữa, xu
hướng của các thị trường nêu trên trong những năm tới, sẽ vẫn còn tiếp nhận lao động giản đơn. Bên
cạnh đó họ cũng có khả năng tiếp nhận nhiều lao động có trình độ cao cho các lĩnh vực như: Phần
mềm tin học.
Đối với các thị trường khác, tuy số lượng tiếp nhận không lớn như các thị trường trong khu vực, do
nhu cầu tiếp nhận, khác xa nhau về truyền thống văn hoá, tôn giáo và cách xa nhau về mặt địa lý, song
cũng cho thấy đây là những thị trường khá dễ tính và đầy tiềm năng, rất có khả năng tiếp nhận nhiều
lao động của ta trong những năm tới.
2.2

Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam qua các thời kỳ.

Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài từ những năm 1980,
từ đó đến nay, cùng với sự đổi mới chung về cơ chế quản lý kinh tế của đất nước, cơ chế xuất khẩu
lao động cũng đã có nhiều thay đổi, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước và quan hệ quốc
tế trong từng thời kỳ. Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam đã đạt được những yêu
cầu quan trọng, góp phần tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Có thể nói, hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia của Việt Nam được chia thành ba thời

kỳ:
2.2.1 Thời kỳ đầu (1980 – 1990).
2.2.1.1

Chủ trương và mục tiêu.

 Chủ trương.
Trong những năm đầu của thập kỷ 70 và nhất là sau khi đất nước thống nhất, nhiều nước đã đặt
LuËn v¨n tèt nghiÖp

15


vấn đề hợp tác sử dụng lao động với nước ta. Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương, chính
sách rất rõ ràng về vấn đề này:
Năm 1979 Ban Bí thư Trung ương Đảng và Thường vụ Hội đồng Chính phủ chính thức giao cho
Bộ Lao động và Uỷ ban kế hoạch Nhà nước, nghiên cứu tiến hành đàm phán với một số quốc gia
XHCN về trao đổi, hợp tác lao động.
- Ngày 11/02/1980 hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 46/CP về việc đưa cán bộ, công nhân
đi bồi dưỡng, nâng cao trình độ và làm việc có thời hạn ở các nước Xã hội Chủ nghĩa.
- Ngày 29/11/1980 hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 362/CP về việc hợp tác sử dụng lao
động với các nước XHCN, đáp ứng một phần yêu cầu lao động của các nước anh em, giải quyết việc
làm cho một bộ phần thanh niên chưa có việc làm.
- Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, trong báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
về phương hướng, mục tiêu chủ yếu phát triển kinh tế – xã hội trong 5 năm 1986 – 1990, hợp tác lao
động đã được xác định là một trong 3 chương trình kinh tế lớn; mở rộng việc đưa lao động ra nước
ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp.
 Mục tiêu.
- Chủ yếu là đưa cán bộ, công nhân viên đi bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề, nắm vững
những kỹ thuật then chốt, phức tạp, tinh vi trong quy trình chế tạo sản phẩm và trong cả dây chuyền

công nghệ, hoặc nắm vững những kiến thức và tay nghề cần thiết để có thể tự mình thiết kế và chế
tạo những sản phẩm mới.
- Phát huy mọi tiềm năng lao động và chất xám, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người
lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho Đất nước.
2.2.1.2

Kết quả xuất khẩu lao động.

Trong giai đoạn này, hoạt động xuất khẩu lao động chủ yếu dựa trên quan hệ hợp tác sử dụng lao
động giữa Việt Nam với các nước Xã hội Chủ nghĩa (XHCN) thông qua các hiệp định Chính phủ và
các thoả thuận giữa ngành với ngành. Cơ chế xuất khẩu lao động chủ yếu dựa trên mô hình Nhà
nước trực tiếp ký kết và triển khai tổ chức thực hiện đưa người lao động đi làm việc có thời hạn ở
nước ngoài.
Từ 1980 – 1990, Việt Nam đã đưa đi được 265.501 lao động. Trong tổng số 265.501 lao động đã
LuËn v¨n tèt nghiÖp

16


đưa đi, phần lớn lao động của ta chủ yếu được đưa sang 4 nước XHCN (Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp
Khắc và Bungari) với tổng số lao động là: 240.301 người, trong đó có 91.955 lao động nữ, chiếm
38,26% và trong tổng số 240.301 lao động đã gửi đi chỉ có 101.084 người đã có nghề (1) chiếm 42,06%.
Số lao động còn lại trước khi đi, phần lớn là không nghề (2) bằng 57,94% tổng số lao động đưa sang 4
nước này. Ngoài số lao động gửi sang các nước XHCN, Nhà nước ta còn gửi 25.200 lao động sang
làm việc ở các nước khác thuộc khu vực vùng Vịnh và Châu Phi.
Tiến độ đưa lao động Việt Nam làm việc tại các nước XHCN được thể hiện qua bảng số (1) dưới
đây.
Bảng số (1):
Kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam sang các nước XHCN từ 1980 - 1990.


Đơn vị tính: (Người).
Số lượng
Năm

Lao động

Nữ

Lao động

Lao động

có nghề

không nghề

Tỷ lệ (%)
lao động có

1980
1981
1982
1983
1984
1985
1986
1987
1988
1989
1990


XK
1.570
20.230
25.970
12.402
4.489
5.008
9.012
46.098
71.835
40.618
3.069

590
5.569
8.151
4.620
1.566
3.031
3.095
23.863
25.459
14.964
1.047

1.570
14.882
12.116
4.603

3.297
3.658
1.800
21.024
25.109
12.034
921

0
5.348
13.784
7.799
1.192
1.350
7.212
25.074
46.726
28.584
2.148

nghề
100
73,56
46,65
37,11
73,44
73,04
19,97
45,60
34,95

29,62
30,00

Tổng

240.301(*)

91.955

101.084

139.217

42,06

Tiền gửi về
(Triệu VN đồng)
0
0,955
8,5
25,1
32,1
76,9
433,5
1.426,18
23.027,9
1.084,32
8.512,8
26.115,455


Nguồn: Cục Quản lý Lao động với Nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.

(1)
(2)
(*)

Lao động đã qua đào tạo nghề.
Lao động chưa qua đào tạo nghề.
Không bao gồm 25.200 lao động tại các nước ở (Trung Đông và Châu Phi).

LuËn v¨n tèt nghiÖp

17


Hình (1):

Mô tả kết quả Xuất khẩu lao động Việt Nam thời kỳ (1980 - 1990).

80000
71835

70000
60000
50000

46098

40618


40000
30000
20230

20000

25970
12402

10000
0

4489

1570
1980

1981

1982

1983

1984

Lao ®éng xuÊt khÈu

5008

9012


1985

Lao ®éng N÷

1986

3069
1987

1988

1989

1990

Lao ®éng cã nghÒ

Qua kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam thời kỳ từ 1980 – 1990 trên đây, ta nhận thấy một số
vấn đề sau:
Trong giai đoạn này, mặc dù chúng ta phải đối mặt với không ít những khó khăn về kinh tế lẫn
chính trị, song công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia của chúng ta cũng đã đạt được những kết
quả quan trọng bước đầu làm tiền đề xúc tiến và phát triển cho xuất khẩu lao động Việt Nam trong
những năm kế tiếp.
Nhìn chung, số lượng lao động Việt Nam đưa đi hàng năm theo Hiệp Định Chính phủ và các thoả
thuận giữa ngành với ngành không phải là cố định. Số lượng lao động đã được đưa đi cao nhất phải
nói đến các năm 1981, 1982 và đặc biệt là các năm từ 1987 - 1989. Năm 1980 số lao động Việt Nam
được đưa đi 100% là lao động có nghề, còn kể từ năm 1981 – 1990 số lượng lao động không nghề
đưa đi ngày một tăng lên, chiếm 57,94% trong tổng số lao động Việt Nam được đưa sang 4 nước
XHCN trong cả thời kỳ. Lý do chính của tình trạng này là do yêu cầu của phía Chính phủ các nước

tiếp nhận lao động Việt Nam không yêu cầu cao về trình độ tay nghề của lao động. Phần lớn các
nước này phân phối ngay lao động Việt Nam vào các nhà máy, cơ sở sản xuất. Họ tự kèm cặp, đào
tạo(1) cho lao động ta để trở thành công nhân thực thụ. Đây là một đặc điểm rất đặc biệt của lao động
Việt Nam khi đi làm việc ở nước ngoài kể từ trước đến nay. Nó cũng rất khác biệt so với hoạt động
đưa lao động ra nước ngoài của các nước trong khu vực như Philippin, Thailand… trong cùng
khoảng thời gian này.
(1)

Đào tạo ngoại ngữ, nghề nghiệp… trong vòng từ 1 – 2 năm.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

18


Ngoài các nước XHCN nhà nước ta còn đưa 25.200 lao động sang cả các nước khác. Nhưng chủ
yếu là tập trung ở các nước vùng Vịnh và các nước thuộc Châu Phi. Lao động đưa sang các nước
vùng Vịnh là 18.000 người và Châu Phi (Libya, Angieria, Angola, Mozambiq, Congo, Madagasca) là
7.200 người.
Bảng số (2): Phân bố lao động Việt Nam tại 4 quốc gia XHCN từ 1980 - 1990.

Đơn vị tính: (Người).
Quốc gia tiếp

Tổng số

nhận lao động

Lao động tiếp


Việt Nam

nhận

Trong đó
Nữ

Tỷ lệ (%)

Lao động

Nữ

có nghề

Tỷ lệ (%)
lao động có

Liên Xô
CHDC Đức
Tiệp Khắc
Bungari

105.081
70.010
37.580
27.630

53.073
25.718

9.528
3.636

50.50
36.73
25.35
13.15

20.562
27.125
28.504
24.893

nghề
19,56
38,74
75,84
90,09

Tổng

240.301

91.955

38,26

101.084

42,06


Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Như vậy, trong thời kỳ này thị trường xuất khẩu lao động của chúng ta tập trung chủ yếu vào thị
trường các nước XHCN như trong bảng số (2) đã chỉ rõ. Phần lớn lao động của ta đưa sang 4 quốc
gia, chủ yếu tập trung ở Liên Xô và CHDC Đức. Hai quốc gia còn lại về số lượng lao động đến làm
việc không lớn bằng Liên Xô và CHDC Đức, nhưng cũng cho thấy đây là hai thị trường cũng không
kém phần qua trọng trong hệ thống các nước mà lao động Việt Nam được đưa đến lao động.
Về độ tuổi của số lao động trên khi gửi đi, theo quy định là từ 18 – 40 tuổi. Đây được coi là độ
tuổi có nhiều khả năng tốt về thể lực, trí lực và năng lực làm việc khi đi lao động ở nước ngoài.
Thực tế cho thấy, ở một số nước có xuất khẩu lao động, họ cũng lựa chọn lao động trong độ tuổi này
để đưa đi. Do đó, sau khi kết thúc thời hạn lao động trở về, người lao động vẫn còn có thể tiếp tục
tái xuất hoặc làm việc ở trong nước tuỳ theo khả năng của mình.
Về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại 4 quốc gia, được thể hiện trong bảng số (3)
LuËn v¨n tèt nghiÖp

19


dưới đây:

Bảng số (3): Cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại 4 quốc gia XHCN
từ 1980 - 1990 theo các nhóm ngành chính.

Đơn vị tính: (Người).
Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam
Ngành nghề

Tổng số
Liên Xô


CHDC

Công nghiệp
Cơ khí
Công nghiệp nhẹ
Hoá chất
Thực phẩm
Xây dựng và vật liệu XD
Nông nghiệp
Lâm nghiệp
Các ngành khác

178.190
63.206
104.427
7.407
3.150
45.597
1.531
4.718
10.265

80.710
20.945
57.641
2.123
0
19.469
0
1.975

2.934

Đức
58.347
18.862
35.869
3.516
99
5.548
75
930
5.115

Tổng

240.301

105.088

70.015

Tiệp Khắc

Bungari

29.161
16.812
8.533
1.588
2.229

5.096
831
1683
794

9.972
6.587
2.384
180
822
15.484
625
130
1.422

37.565

27.633

Nguồn: Cục Quản lý Lao động với Nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Có thể thấy rằng, cơ cấu ngành nghề ở 4 quốc gia trên tương đối đa dạng, nhưng chưa mang tính
đa dạng về loại, nhóm lao động. Việc làm của lao động Việt Nam đảm trách có tới hơn 90% là lao
động giản đơn, chủ yếu là lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Tuy nhiên cơ cấu
ngành nghề này không phải do lao động Việt Nam được đào tạo từ trong nước, mà phần lớn là do
các nước tiếp nhận lao động của ta tự kèm cặp, đào tạo và sử dụng cho đến khi kết thúc thời hạn lao
động. Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, lao động có nghề của ta chỉ chiếm 42,06% và số lao động
không nghề chiếm tới 57,94% so với tổng số lao động đưa đi.
Như vậy, qua kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời kỳ này đã cho thấy, chất lượng lao
động xuất khẩu của ta đã được nâng lên rõ rệt, điều này được thể hiện qua kết quả xuất khẩu tăng
dần từng năm, khẳng định lao động Việt Nam đã có thể đáp ứng nhu cầu về lao động của nước tiếp

nhận trong nhiều lĩnh vực.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

20


2.2.2 Thời kỳ (1991 – 1995).
2.2.2.1

Chủ trương và mục tiêu.

Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, các nước XHCN ở Đông Âu tiếp nhận lao động
của ta đều xảy ra những biến động lớn về chính trị, kinh tế xã hội. Nhiều nước ở Châu Phi có lao
động Việt Nam làm việc cũng gặp khủng hoảng kinh tế xã hội và chính trị, còn ở Trung Đông lại phải
đối đầu với cuộc chiến tranh Iraq. Vì vậy mà hầu hết các nước này không còn nhu cầu tiếp nhận lao
động Việt Nam, thậm chí có tiếp nhận nhưng đứt quãng và số lượng cũng không đáng kể. Trước
những biến động bất ổn đó, để có thể tiếp tục duy trì và phát triển xuất khẩu lao động, Chính phủ đã
khẳng định: phải tiếp tục mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế, trong đó hợp tác về xuất khẩu lao động vẫn
được coi như là một ngành kinh tế mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia.
 Chủ trương.
Mở rộng và hướng xuất khẩu lao động sang các nước trong khu vực và trên thế giới, đưa lao
động Việt Nam ra nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp, coi đó là một bộ phận hữu cơ của
chương trình lao động việc làm quốc gia.
- Ngày30/6/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ra Chỉ thị số 108/CT – HĐBT về việc mở rộng hợp tác lao
động, là một nhiệm vụ kinh tế quan trọng, có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
- Ngày 20/01/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 07/NĐ - CP đã khảng định: Đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài là một hướng giải quyết đúng đắn…
 Mục tiêu.
Nhằm duy trì xuất khẩu lao động, phát huy mọi tiềm năng lao động và chất xám, giải quyêt việc

làm, tăng thu nhập cho người lao động và tăng nguồn thu ngoại tệ cho Đất nước.
2.2.2.2

Kết quả xuất khẩu lao động.

Khác với thời kỳ đầu, cơ chế xuất khẩu lao động Việt Nam trong thời kỳ này đã được đổi mới,
trong đó phân định rõ chức năng quản lý của nhà nước và chức năng kinh doanh dịch vụ xuất khẩu
lao động. Nhà nước thống nhất xuất khẩu lao động bằng các chính sách và quy định pháp lý. Các tổ
chức kinh tế được nhà nước cấp giấy phép thực hiện hoạt động kinh doanh dịch vụ xuất khẩu lao
động thông qua các hợp đồng ký kết với bên nước ngoài. Do vậy mà khắc phục được những khó
khăn và đạt được một số kết quả khích lệ bước đầu và điều này được thể hiện rõ qua bảng số (4) kết
quả xuất khẩu lao động dưới đây.
LuËn v¨n tèt nghiÖp

21


Bảng số (4):

Kết quả xuất khẩu lao động Việt Nam từ 1991 - 1995.

Đơn vị tính: (Người).
Số lượng
Năm

Lao động
XK
1.022
810
3.960

9.230
10.050
25.072

1991
1992
1993
1994
1995
Tổng

Nữ
133
79
480
980
1.715
3.387

Tỷ lệ (%)

Lao động

Nữ

có nghề

34,05
33,33
33,58

41,60
46,26
13,51

520
423
2.341
4.679
5.489
13.452

Tỷ lệ (%)
lao động có
nghề
51,00
52,22
59,16
50,69
54.61
53,65

Tiền gửi về
(USD)
7.971.600
14.289.600
45.177.600
109.200.000
181.272.000
357.910.800


Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Hình (2):

Mô tả kết quả Xuất khẩu lao động và chuyên gia Việt Nam
thời kỳ (1991 - 1995).

12000
10000

9230

10050

8000
6000
3960

4000
2000
0

1022

1991

810

1992

Lao ®éng xuÊt khÈu


1993
Lao ®éng N÷

1994

1995

Lao ®éng cã nghÒ

Qua kết quả xuất khẩu lao động thời kỳ từ 1991 – 1995 trên đây, ta nhận thấy một số vấn đề sau:
Nhìn chung, số lượng lao động xuất khẩu của ta đưa đi hàng năm là rất thấp so với các năm xuất
khẩu trong thời kỳ trước, đồng thời số lượng lao động xuất khẩu cũng không cố định mà luôn có sự
biến đổi theo từng năm cụ thể. Số lượng lao động xuất khẩu thấp nhất trong thời kỳ này là năm
1992, ta chỉ đưa đi được 810 lao động; trong đó có 79 người là lao động Nữ, chiếm 33,33% và 423
lao động đã có tay nghề, chiếm 52,22% trong tổng số lao động được đưa đi năm 1992. Năm 1991
LuËn v¨n tèt nghiÖp

22


được coi là năm có tiến bộ hơn, nhưng số lượng lao động đưa đi cũng chỉ dừng lại ở con số 1.022
lao động; Trong đó, 133 lao động Nữ, chiếm 34.05% và 520 người là lao động đã qua đào tạo,
chiếm 51% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 1991. Tình trạng trì trệ này đã được khắc
phục bằng các kết quả số lượng lao động xuất khẩu tăng dần trong các năm từ 1993 – 1995. Năm
1993 ta xuất khẩu được 3.960 lao động; trong đó có 480 lao động Nữ, chiếm 33,58% và 2.341 lao
động có nghề, chiếm 59,16% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 1993. Năm 1994 ta xuất
khẩu được 9.230 lao động; trong đó có 980 lao động Nữ, chiếm 41,60% và 5.489 lao động có tay
nghề, chiếm 50,69% trong tổng số lao động được đưa đi trong năm 1994. 10.050 là con số lao động
xuất khẩu cao nhất mà xuất khẩu lao động Việt Nam đã đạt được trong cả thời kỳ; trong đó có 1.715

người là lao động Nữ, chiếm 46,26% và 5.489 lao động đã có nghề, chiếm 54,61% trong tổng số lao
động đã được đưa đi trong năm 1995.
Số liệu cũng cho thấy: tỷ lệ (%) lao động Nữ còn rất thấp so với tổng số 25.072 lao động được
đưa đi trong cả thời kỳ, khoảng 3.387 người, chiếm 13,51%. Bên cạnh đó, tỷ lệ lao động có tay nghề
lại tăng lên đáng kể, khoảng 13.452 người, chiếm 53,65%. Như vậy, tỷ lệ lao động có tay nghề trong
thời kỳ này cao hơn hẳn so với thời kỳ đầu 1980 – 1990 là 11,59% còn tỷ lệ (%) lao động Nữ lại
giảm xuống, khoảng 24,75% so với thời kỳ đầu.
Về phân bố của lao động Việt Nam tại thị trường các nước trên, được thể hiện qua bảng số(5)
dưới đây:
Bảng số (5):

Phân bố lao động Việt Nam tại các quốc gia từ 1991 - 1995.

Đơn vị tính: (Người).
Quốc gia tiếp nhận
lao động Việt Nam
Hàn Quốc
Libya
Lào
Nhật Bản
LB Nga
CH Séc
Ăngôla
LuËn v¨n tèt nghiÖp

Trong đó

Tổng số
Lao động
tiếp nhận

11.512
6.183
2.966
1.499
750
433
157

Nữ
2.603
0
166
145
0
212
57

Tỷ lệ (%)

Lao động

Nữ

có nghề

22,61
0
5,59
9,67
0

48,96
36,30

5872
3287
2370
97
525
345
157

Tỷ lệ (%)
lao động có
nghề
51,00
53,16
79,90
6,47
70,00
79,67
100

23


Singapore
Li Băng
Đài Loan
Malaysia
Ba Lan

Các nước khác
Tổng

163
123
124
70
41
1.051

23
116
0
58
7
0

14,11
94,30
0
82,85
17,07
0

125
79
75
43
21
456


76,68
64,22
60,48
61,42
51,21
43,38

25.072

3.387

13,51

13452

53,65

Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.
Có thể nói, mật độ phân bố của lao động Việt Nam ta trên các thị trường là khá đa dạng. Trong đó
bao gồm cả những nước trước kia vốn dĩ là thị trường truyền thống của ta và lao động Việt Nam
bước đầu đã tiếp cận được với các thị trường mới trong khu vực cũng như trên thế giới.
Số liệu cũng cho thấy lao động của ta chủ yếu tập trung ở một số các thị trường mới (1) như: Hàn
Quốc 11.512 lao động, Libya 6.183 lao động, Lào 2.966 và Nhật Bản là 1.499 lao động. Trong các
thị trường còn lại, riêng hai thị trường Đài Loan và Malaysia tuy số lượng lao động tiếp nhận chưa
nhiều song cũng cho thấy đây là hai thị trường rất có triển vọng đối với lao động Việt Nam.
Cũng giống như thời kỳ đầu, độ tuổi lao động xuất khẩu Việt Nam đã đưa đi trong thời kỳ này,
vẫn chủ yếu nằm trong độ tuổi khoảng từ 18 – 40.
Về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia trên, được phản ánh trong bảng số
(6) dưới đây:

Biểu bảng (6):

Cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia từ
1991 - 1995 theo các nhóm ngành chính.
Đơn vị tính: (Người).

Quốc gia tiếp nhận lao động Việt Nam
Hàn
Sing Ăn Đài Li Mala Ba
Li Nhật LB CH
Các
Ngành nghề Tổng
Lào Quố
apor gôla Loa Băn
y
Lan

bya Bản Nga Séc
NK
c
e
n
g
sia
Công nghiệp 12831 450 9678
0 1225 327 256 38
0 75 20
43 41 678
CN nặng
(1)


1991 150 572

0 850 125

76

15

0

20

7

13

17 146

Từ 1000 lao động trở lên.

LuËn v¨n tèt nghiÖp

24


CN nhẹ

10840 300 9106


Xây dựng

0 375 202 180

23

0

55

13

30

24 532

8918 1125 1200 6183 150 100 120

0

0

25

0

15

0


0

85

0

0

35

0

0

32

Dịch vụ

197

0

0

0

0

45


0

Nông nghiệp

170

0

0

0

0

0

0

0 125

0

45

0

0

0


1275 1275

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0 124 278

57


40

32

24

23

12

0 341

6183 1499 750 433 163 157 124 123

70

41 1051

Lâm nghiệp
Các ngành
khác
Tổng

1681 116 634
25072 2966

1151
2

Nguồn: Cục Quản lý Lao động với nước ngoài – Bộ Lao động TB&XH.

Qua số liệu thống kê về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam tại các quốc gia thời kỳ 1991
– 1995 trên đây cho thấy:
Nhìn chung, phần lớn cơ cấu ngành nghề chưa đa dạng hơn so với thời kỳ đầu từ 1980 – 1990.
Lao động Việt Nam vẫn chủ yếu tập chung làm việc trong các lĩnh vực: Công nghiệp (1) 1.2831 lao
động, Xây dựng 8.918 lao động, Lâm nghiệp 1.275 lao động. Lao động làm việc trong các lĩnh vực:
Nông nghiệp, Dịch vụ và các ngành khác là không đáng kể. Trong đó số lao động có nghề chiếm tỷ
lệ khoảng 53,65%, chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực như Nông nghiệp, Lâm nghiệp, Xây dựng
và Công nghiệp. Số còn lại là lao động không nghề, chiếm 46,35% chủ yếu làm việc trong các lĩnh
vực(1), phần công việc ít đòi hỏi trình độ tay nghề cao. Các quốc gia có số lượng lao động tập trung
lớn là: Hàn Quốc 11.512 lao động, tiếp đến là Libya 6.183 lao động, Lào 2.966 lao động…
2.2.3 Thời kỳ 1996 đến nay.
2.2.3.1

Chủ trương và mục tiêu.

Bắt tay vào thời kỳ mới có tính quan trọng, vai trò của xuất khẩu lao động lại càng được coi trọng
và tiếp tục được khảng định trong các Văn kiện Đại hội Đảng, các Nghị định, Nghị quyết và Chỉ thị
của Đảng và Nhà nước. Thể hiện chủ trương, mục tiêu chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn phát triển mới của xuất khẩu lao động.
 Chủ trương.
(1)
(1)

Bao gồm cả Công nghiệp nặng và Công nghiệp nhẹ.
Bao gồm cả các lĩnh vực như Công nghiệp, Xây dựng, Lâm nghiệp, Dịch vụ...

LuËn v¨n tèt nghiÖp

25



×