Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

A là con ông B cư trú tại Phường C Quận HB Thành phố H đã trộm cắp 45.000.000 đồng của bà K là hàng xóm. Khi thực hiện hành vi phạm tội, A đủ 16 tuổi và trong quá trình giải quyết vụ án này thì A chưa đủ 18 tuổi. Khi phát hiện mất tiền, bà K đã đến công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.08 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
ĐỀ BÀI......................................................................................................................1
BÀI LÀM..................................................................................................................2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ....................................................................................................2
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ..................................................................................3
1. Câu 1..............................................................................................................3
2. Câu 2..............................................................................................................3
3. Câu 3..............................................................................................................4
4. Câu 4..............................................................................................................7
5. Câu 5..............................................................................................................8
6. Câu 6..............................................................................................................9
7. Câu 7............................................................................................................10
8. Câu 8............................................................................................................12
9. câu 9.............................................................................................................13
III. KẾT LUẬN..................................................................................................14
DANH MỤC VIẾT TẮT........................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................16

0


ĐỀ BÀI
A là con ông B cư trú tại Phường C - Quận HB - Thành phố H đã trộm
cắp 45.000.000 đồng của bà K là hàng xóm. Khi thực hiện hành vi phạm tội, A
đủ 16 tuổi và trong quá trình giải quyết vụ án này thì A chưa đủ 18 tuổi. Khi
phát hiện mất tiền, bà K đã đến công an Phường C để trình báo. Ông B phát
hiện A trộm tiền của bà K đã khuyên A tự thú và A đã ra tự thú tại công an
Phường C (A phạm tội lần đầu, thái độ khai báo thành khẩn, có nơi cư trú rõ
ràng, chưa có tiền sự).
Câu hỏi
1. Công an phường C phải làm gì khi A ra tự thú?


2. Nếu bà K đề nghị cơ quan điều tra không xử lý về hình sự với A vì A đã trả
lại đầy đủ số tiền đã trộm cắp thì cơ quan điều tra giải quyết thế nào?
3. Cơ quan điều tra nào có thẩm quyền điều tra vụ án? Cơ quan này cần tiến
hành các hoạt động tố tụng gì để có lời khai của A và bà K?
4. Sau khi A bị khởi tố về hình sự. Cơ quan điều tra đã ra lệnh tạm giam A.
Việc tạm giam đối với A đúng hay sai?
5. Trong giai đoạn điều tra, ông B đã lựa chọn người bào chữa cho A nhưng A
cũng yêu cầu được tự lựa chọn người bào chữa. Cơ quan điều tra phải giải
quyết thế nào đối với yêu cầu của A? Tại sao?
6. Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát đã ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ
sung với lý do “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” vì phát hiện ông b
không có mặt khi hỏi cung A. Quyết định của Viện kiểm sát đúng hay sai?
1


7. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa sơ thẩm, ong b đề nghị thay đổi thẩm
phán chủ tọa phiên tòa vì Thẩm phán là người thân thích của Kiểm sát viên
giữ quyền công tố tại phiên tòa. Hội đồng xét xử phải giải quyết như thế nào?
8. Giả sử ông M được chỉ định làm người bào chữa cho A. Tại phiên tòa sơ
thẩm nếu A từ chối ông M thì Hội đồng xét xử phải giải quyết thế nào?
9. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt A 9 tháng tù. Trong diện chủ thể có quyền
kháng cáo chỉ có A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử xét
thấy bản án sơ thẩm là quá nhẹ thì giải quyết thế nào?

BÀI LÀM
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Việt Nam, với mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là một trong
những yếu tố hàng đầu cho sự phát triển kinh tế của Quốc gia. Phương châm phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần đã làm cho các quan hệ pháp luật về kinh tế, dân

sự, hình sự ngày càng đa dạng, phong phú. Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân
được cải thiện. Bên cạnh sự phát triển đó, thì nền kinh tế thị trường đã làm nẩy sinh
những mặt trái, đó là sự tha hoá, biến chất về đạo đức và nhân phẩm của một số bộ
phận con người, làm phát sinh tệ nạn xã hội, dẫn đến tình hình chính trị, an ninh và
trật tự xã hội đi theo khuynh hướng xấu. Tội phạm ngày một gia tăng, tính chất
mức độ hành vi phạm tội ngày càng nguy hiểm, tinh vi hơn, trong đó thì loại tội
phạm xâm hại đến quyền sở hữu chiếm tỉ lệ lớn trong các loại tội phạm là tội trộm
cắp tài sản xảy ra rất phức tạp dưới nhiều hình thức, nó xâm phạm trực tiếp đến
những quan hệ xã hội được pháp luật bảo hộ, đó là quyền sở hữu của con người, sở
hữu của Nhà nước. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, chúng em xin
giải quyết tình huống nêu trên để làm rõ những vấn đề liên quan đến tội trộm cắp
tài sản và quá trình tố tụng hình sự tội danh này.

2


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Câu 1
Theo Khoản 1 Điều 152 BLTTHS 2015 quy định như sau:
“1. Khi người phạm tội đến tự thú, đầu thú, cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải
lập biên bản ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và lời khai của người tự thú,
đầu thú. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú, đầu thú có trách nhiệm
thông báo ngay cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.”
Như vậy, khi A ra tự thú thì công an Phường C phải tiếp nhận và lập biên bản
ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và lời khai của A đồng thời phải có trách
nhiệm thông báo ngay cho CQĐT hoặc VKS.
Biên bản phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của người tự thú, hành vi mà họ đã phạm tội,
những tài liệu, vật chứng, dụng cụ gây án, tài sản và tất cả các tình tiết khác có liên
quan… Trong tình huống trên, A đã có hành vi trộm cắp 45.000.000 đồng của bà K,
sau khi được ông B khuyên, A đã ra tự thú với thái độ thành khẩn, có nơi cư trú rõ

ràng, A phạm tội lần đầu, chưa có tiền sự.
Sau khi tiếp nhận và lập biên bản đối với A công an Phường C phải có trách
nhiệm thông báo ngay cho CQĐT hoặc VKS có thẩm quyền, cụ thể là CQĐT cấp
Quận hoặc VKSND Quận bởi theo căn cứ của pháp luật thì chỉ có CQĐT hoặc
VKS mới có thẩm quyền để giải quyết những vấn đề liên quan đến việc tự thú.
Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là nhằm khắc phục hiện tượng thông tin về tội
phạm không tập trung, dẫn đến bỏ lọt tội phạm giải quyết chậm trễ các vụ án đồng
thời tăng cường trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm của các cơ quan, tổ
chức trong xã hội chúng ta.
2. Câu 2
Theo Khoản 1, Điều 173 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội
trộm cắp tài sản như sau:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng
đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các
3


trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6
tháng đến 3 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi
phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều
168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích
mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với
người bị hại.”
Trong tình huống trên A đã trộm cắp 45.000.000 đồng của bà K hàng xóm,
sau đó A đã đến công an phường C đầu thú. Theo đó, hành vi của A đã cấu thành tội

trộm cắp tài sản, theo khỏan 1 Điều 173 BLHS thì A có thể bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Căn cứ Khoản 8, Điều 157 BLTTHS 2015 quy định căn cứ không khởi tố vụ
án hình sự như sau:
“…8. Tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 134, 135, 136, 138, 141, 143,
155, 156, 226 của BLHS mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu
khởi tố.”
Như vậy, A vẫn phải bị truy tố trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản
theo Khoản 1 Điều 173 BLHS mặc dù bà C có đề nghị CQĐT không xử lý về hình
sự với A.
3. Câu 3
*Xác định CQĐT có thẩm quyền điều tra vụ án.
Cơ sở pháp lý: Khoản 1 và Điểm a, Khoản 5, Điều 163 BLTTHS; Khoản 1
Điều 269, BLTTHS 2015.

4


Tình huống đã đưa ra là A cư trú tại Phường C, Quận HB Thành phố H đã
trộm cắp 45.000.000 đồng của bà K là hàng xóm. Xét thấy, ở tình huống này, người
phạm tội không thực hiện tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham
nhũng, chức vụ để thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT, VKSND tối cao; và tình
huống này cũng không thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự nên đương nhiên
không thuộc thẩm quyền điều tra của CQĐT trong Quân đội nhân dân. Do đó, áp
dụng khoản 1, Điều 65 thẩm quyền điều tra sẽ thuộc về CQĐT của Công an nhân
dân.
Ngoài ra, nơi thực hiện tội phạm trong tình huống là phường C, quận HB nên
vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND quận HB (theo khoản 1, Điều 269). Nói
cách khác, áp dụng Điểm a, Khoản 5, Điều 163, thì thẩm quyền điều tra vụ án trên
sẽ thuộc về CQĐT của CAND quận HB.

*Các hoạt động tố tụng cần tiến hành để lấy lời khai của A và bà K.
Đối với việc lấy lời khai của bà K:
Cơ sở pháp lý: Điều 185, 186, 187, 188 BLTTHS 2015
Theo tình huống, bà K đã bị mất 45.000.000 đồng hay bà K chính là cá nhân
trực tiếp bị thiệt hại về tài sản. Nói cách khác, tư cách tố tụng của bà sẽ được xác
định là bị hại đúng theo quy định tại Khoản 1 Điều 62, BLTTHS 2015 về bị hại:
“Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ
quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”
Việc lấy lời khai của bị hại được quy định cụ thể tại Điều 188, BLTTHS
2015 như sau:
‘Việc triệu tập, lấy lời khai của bị hại, đương sự được thực hiện theo quy
định tại các điều 185, 186 và 187 của Bộ luật này.
Việc lấy lời khai của bị hại, đương sự có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm
thanh.”

5


Như vậy để lấy lời khai của bị hại, CQĐT thực hiện các bước tương tự như
hoạt động lấy lời khai của người làm chứng, cụ thể phải trải qua các thủ tục dưới
đây:
Thứ nhất, triệu tập người bị hại (Điều 185, BLTTHS 2015)
- Để triệu tập bà K, trước hết Điều tra viên phải gửi giấy triệu tập. Giấy triệu
tập phải ghi rõ họ tên, chỗ ở hoặc nơi làm việc, học tập của người bị hại, giờ, ngày,
tháng, năm và địa điểm có mặt; mục đích và nội dung làm việc, thời gian làm việc;
gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không
do trở ngại khách quan. (Khoản 1, 2 Điều 185)
- Việc giao giấy triệu tập với bà K được thực hiện theo quy định tại điểm a,
khoản 3, Điều 185. Theo đó, giấy triệu tập được giao trực tiếp cho bà K hoặc thông
qua chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bà K cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi

người làm chứng làm việc, học tập. Trong mọi trường hợp, việc giao giấy triệu tập
phải được ký nhận. Chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị hại cư trú hoặc cơ
quan, tổ chức nơi bị hại làm việc, học tập có trách nhiệm tạo điều kiện cho người
làm chứng thực hiện nghĩa vụ.
Thứ hai, lấy lời khai bị hại (Điều 186, BLTTHS)
- Việc lấy lời khai bị hại (bà K) được tiến hành tại nơi tiến hành điều tra, nơi
cư trú, nơi làm việc hoặc nơi học tập của bà K
- Trước khi lấy lời khai, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải giải thích cho bị
hại biết quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định. Việc này phải ghi vào biên bản.
- Trước khi hỏi về nội dung vụ án, Điều tra viên phải hỏi về mối quan hệ
giữa bà K với bị can (là A), người làm chứng và những tình tiết khác về nhân thân
của bị hại. Điều tra viên yêu cầu người làm chứng trình bày hoặc tự viết một cách
trung thực và tự nguyện những gì họ biết về vụ án, sau đó mới đặt câu hỏi.
Kết quả của hoạt động lấy lời khai là biên bản lấy lời khai. Việc lấy lời khai
của bị hại có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh.
Đối với việc lấy lời khai của A:
6


Cơ sở pháp lý: Điều 421, BLTTHS 2015
Việc CQĐT tiến hành lấy lời khai của A (người thực hiện hành vi phạm tội)
khi thực hiện hoạt động điều tra chính là việc CQĐT tiến hành hỏi cung bị can A.
Vì A chưa đủ 18 tuổi nên việc lấy lời khai này được thực hiện theo quy định tại
Điều 421, BLTTHS 2015 về Lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng; hỏi cung bị can; đối
chất. Cụ thể để lấy được lời khai của A, CQĐT cần thực hiện các hoạt động sau:
- Khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt,
người bị tạm giữ, người bị hại, người làm chứng, hỏi cung bị can là người dưới 18
tuổi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước thời gian, địa
điểm lấy lời khai, hỏi cung cho người bào chữa, người đại diện, người bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
- Việc lấy lời khai của A phải có mặt người bào chữa hoặc người đại diện của
A.
- Người bào chữa, người đại diện có thể hỏi nếu được Điều tra viên, Kiểm
sát viên đồng ý. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết
thúc thì người bào chữa, người đại diện có thể hỏi A.
- Thời gian lấy lời khai của A không quá hai lần trong 01 ngày và mỗi lần
không quá 02 giờ, trừ trường hợp:
a) Phạm tội có tổ chức;
b) Để truy bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn;
c) Ngăn chặn người khác phạm tội;
d) Để truy tìm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc vật chứng khác của vụ án;
đ) Vụ án có nhiều tình tiết phức tạp.
4. Câu 4
Sau khi A bị khởi tố về hình sự. CQĐT đã ra lệnh tạm giam A. Việc tạm
giam đối với A là sai.

7


Theo như đề bài, A trộm cắp số tiền là 45.000.000 đồng của bà K, A sẽ bị
truy tố theo khoản 1 điều 173 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 với khung hình
phạt từ 06 tháng đến 3 năm. Như vậy mức cao nhất cao nhất của khung hình phạt
đối với A là 03 năm tù, thuộc loại tội ít nghiêm trọng (căn cứ khỏan 1 điều 9 BLHS
2015) và A có thể có mức phạt tù trên 02 năm tù.
Theo Khoản 2 Điều 119, về Tạm giam thì biện pháp tạm giam chỉ có thể áp
dụng với A nếu A thuộc một trong các trường hợp như đã bị áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác nhưng vi phạm; Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định
được lai lịch của bị can; bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu
bỏ trốn; tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua

chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự
thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan
đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội
phạm và người thân thích của những người này. Nhưng khi A bị bắt, A đã thành
khẩn khai báo, có nơi cư trú rõ và không có ý định bỏ trốn, càng không có dấu hiệu
tiếp tục thực hiện tội phạm, cũng không có ý định trả thù hay tẩu tán tài sản.
Như vậy việc CQĐT ra lệnh tạm giam với A là Sai.
5. Câu 5
Khi ông B đã lựa chọn người bào chữa cho A nhưng A yêu cầu được lựa chọn
người bào chữa thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa mà ông B đã lựa chọn
trực tiếp đến gặp A để xác nhận việc từ chối.
Căn cứ Khoản 2 Điều 7 BLTTHS 2015: “Trường hợp người bị bắt, người bị tạm
giữ, người bị tạm giam trong giai đoạn điều tra có đề nghị từ chối người bào chữa
do người thân thích của họ nhờ thì Điều tra viên phải cùng người bào chữa đó trực
tiếp gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc từ
chối.”
Sở dĩ có việc như vậy vì với vai trò là Người bào chữa, những người có kiến thức
pháp luật và kinh nghiệm hoạt động tố tụng, họ có thể mặt thân chủ mình tham gia
8


tố tụng trong một vụ án hình sự để biện hộ, bảo vệ cho thân chủ của mình để chống
lại sự buộc tội, truy tố hoặc một sự tố cáo, giúp làm giảm trách nhiệm hình sự cho
thân chủ của họ đồng thời cũng có thể giúp cơ quan có chức năng làm sáng tỏ các
tình tiết vụ án, họ có quyền tranh tụng với các chủ thể khác trong quá trình xử lý vụ
án hình sự. Hơn nữa còn bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các
đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa
những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật. Đặc biệt đối với người chưa thanh niên, vai trò của người bào chữa là có ý
nghĩa rất quan trọng, sự tham gia của người bào chữa càng sớm thì quyền lợi của

các em càng được bảo đảm hơn, tuy nhiên cũng do nhận thức chưa hoàn thiện nên
vấn đề nhờ ai và nhờ người nào bào chữa cho mình là điều dễ mắc sai lầm. chính vì
vậy, khi người chưa thành niên không chấp nhận, từ chối người bào chữa do đại
diện hợp pháp của mình cử thì cần xác nhận việc đó.
6. Câu 6
Trong giai đoạn truy tố VKS đã ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung
với lí do vi phạm nghiêm trong thủ tục tố tụng vì phát hiện ông B không có
mặt khi hỏi cung A. Quyết định của VKS là Đúng, giải thích:
Căn cứ Khoản 1 Điều 245 BLTTHS 2015 về Trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ
sung: “Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ vụ án, yêu cầu Cơ quan điều tra điều
tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp:
a) Còn thiếu chứng cứ để chứng minh một trong những vấn đề quy định tại
Điều 85 của Bộ luật này mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;
b) Có căn cứ khởi tố bị can về một hay nhiều tội phạm khác;
c) Có người đồng phạm hoặc người phạm tội khác liên quan đến vụ án
nhưng chưa được khởi tố bị can;
d) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng."
Khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTCBCA-BQP quy định về việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực
9


hiện một số quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung về phối hợp
thực hiện trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong các trường hợp quy định tại điểm d
Khoản 1 Điều 245 và điểm d khoản 1 Điều 280 của BLTTHS
“1. Khi có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng thuộc một trong các
trường hợp sau đây thì VKS, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung:…q) Những
trường hợp khác phải ghi rõ lý do trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung..”
Và Khoản 3 Điều 10 Thông tư số 01/2011/VKSTC-TANDTC-BCA-BTPBLĐTBXH ngày 12 tháng 07 năm 2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của
BLTTHS đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên
“3. Khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành

niên, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa, người
đại diện hợp pháp của họ về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung. Trường hợp
cần thiết hoặc khi người chưa thành niên có yêu cầu, có thể mời cán bộ chuyên
trách, cán bộ trợ giúp, tư vấn về pháp lý, y tế cùng tham gia để tạo tâm lý yên tâm,
thoải mái cho họ.”
Xét trong tình huống này, A khi thực hiện hành vi phạm tội là đủ 16 tuổi và
trong quá trình tiến hành tố tụng là chưa đủ 18 tuổi, như vậy A là người chưa thành
niên. Theo những căn cứ đã nêu trên, khi CQĐT tiến hành hỏi cung đối với A thì
phải thông báo cho B là bố của A đại diện hợp pháp của A biết về thời gian, địa
điểm lấy lời khai, hỏi cung để ông B có mặt. vì A là người chưa thành niên nên A
có quyền có người đại diện khi tham gia hỏi cung. Nhưng trong tình huống trên,
CQĐT đã tiến hành hỏi cung đối với A khi có sự vắng mặt của B, như vậy là thực
hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự thủ tục do BLTTHS quy định, dã xâm
hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của A. Từ đó thấy được việc quyết định trả
hồ sơ để điều tra bổ sung vì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của Viện kiểm sát
là Đúng.

10


7. Câu 7
Trong trường hợp khi ông B đề nghị thay đổi Thẩm phán chủ tọa vì Thẩm phán
là người thân thích của Kiểm sát viên giữ quyền công tố thì Hội đồng xét xử sẽ xem
xét, quyết định căn cứ vào Điều 302 BLTTHS 2015 quy định về giải quyết việc đề
nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám
định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật.
Một trong những nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Bộ luật tố tụng hình sự
là: Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Việc giải quyết vụ án hình sự trải qua bốn giai
đoạn, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử. Có thể nói xét xử là giai đoạn quan

trọng nhất vì kết quả của giai đoạn này là bản án kết luận một người có phạm tội
hay không, hình phạt mà họ phải chịu là gì và khi bản án có hiệu lực pháp luật
người đó mới bị coi là có tội. Bản án là kết luận cuối cùng của Tòa án trong phiên
tòa xét xử vụ án hình sự thông qua Hội đồng xét xử. Chính vì vậy, để xét xử đúng
người đúng tội, không làm oan người vô tội đòi hỏi mỗi thành viên trong Hội đồng
xét xử phải vô tư, khách quan. Việc thay đổi thẩm phán dựa vào những căn cứ sau:
Thứ nhất, về người có quyền đề nghị thay đổi thẩm phán, căn cứ vào điều 302
BLTTHS, những người có quyền đề nghị thay đổi thẩm phán gồm Kiểm sát viên và
những người tham gia tố tụng
Thứ hai, thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những
trường hợp được quy định tại Điều 53 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, cụ
thể trong các trường hợp sau:
- Trường hợp quy định tại Điều 49 của Bộ luật này;
- Họ cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau;
- Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng vụ án đó với
tư cách là Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Thẩm tra
viên, Thư ký Tòa án.

11


Với tình huống trên, trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa sơ thẩm, ông B đề nghị
thay đổi Thẩm phán chủ tọa phiên tòa vì Thẩm phán là người thân thích của Kiểm
sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, vì vậy để giải quyết Hội đồng xét xử phải
căn cứ vào Khoản 2 Điều 53 BLTTHS. Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại
phiên tòa do Hội đồng xét xử quyết định trước khi bắt đầu xét hỏi bằng cách biểu
quyết tại phòng nghị án. Khi xem xét thay đổi thành viên nào thì thành viên đó
được trình bày ý kiến của mình, Hội đồng quyết định theo đa số. Trường hợp phải
thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn
phiên tòa.

8. Câu 8
Trong trường hợp A từ chối ông M là người bào chữa đã được chỉ định thì Hội
đồng xét xử phải lập biên bản lưu trong hồ sơ vụ án.
Tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: Người bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người
khác bào chữa. BLTTHS năm 2015 đã cụ thể hóa nguyên tắc Hiến định nêu trên tại
Điều 16 về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự: Người bị buộc tội có quyền bào chữa, nhờ luật sư
hoặc người khác bào chữa.
Đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi đã có những quy định riêng. Tại khoản 1
điều 9 Thông tư liên tịch số: 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTPBLĐTBXH quy định về việc tham gia tố tụng của người bào chữa như sau:
“1. Bắt buộc phải có người bào chữa tham gia tố tụng trong các vụ án có bị can, bị
cáo là người chưa thành niên. Mọi trường hợp không có người bào chữa tham gia
tố tụng trong các vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trừ trường hợp họ hoặc người đại diện hợp pháp của
họ từ chối người bào chữa. Người bào chữa có thể là: luật sư; người đại diện hợp
pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.”

12


Tại khoản 1 điều 9 Thông tư liên tịch số: 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTCBCA-BTP-BLĐTBXH quy định rất rõ: “mọi trường hợp không có người bào chữa
tham gia tố tụng trong các vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành niên là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trừ trường hợp họ hoặc người đại diện hợp
pháp của họ từ chối người bào chữa”. Như vậy ta có thể thấy đối với trường hợp
khi người chưa thành niên phạm tội thì bắt buộc phải có người bào chữa tham gia
tố tụng trừ trường hợp bị can, bị cáo hoặc đại diện của họ từ chối người bào chữa.
Về nguyên tắc, “Người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi có quyền tự bào chữa
hoặc nhờ người khác bào chữa; Người đại diện của người dưới 18 tuổi bị buộc tội
có quyền lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa cho người dưới 18 tuổi

bị buộc tội.” Căn cứ vào Điều 422 BLTTHS 2015 quy định về bào chữa đối với
người dưới 18 tuổi. Nhằm bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo
chưa thành niên, Điều 422 BLTTHS quy định: ngoài bản thân người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo chưa thành niên thì người đại diện hợp pháp của các em cũng có thể
thay mặt các em lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình bào chữa; hơn nữa, đối với
vụ án người chưa thành niên thì bắt buộc phải có sự tham gia của người bào chữa,
nếu các em hoặc người đại diện hợp pháp không lựa chọn được người bào chữa thì
CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật
sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ
chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.
Tuy nhiên trong tình huống nêu trên, ông M là người bào chữa cho A theo chỉ định
của CQĐT, VKS, Tòa án căn cứ theo điểm b Khoản 1 Điều 76 BLTTHS 2015 quy
định về chỉ định người bào chữa trong trường hợp người dưới 18 tuổi đã bị A đã từ
chối nên để giải quyết, Hội đồng xét xử phải căn cứ vào Khoản 5 Điều 9 Thông tư
liên tịch số: 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH: “Trường
hợp bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa thì
phải lập biên bản lưu trong hồ sơ vụ án.”

13


9. câu 9
Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ giữ nguyên hình phạt tù căn cứ vào điểm e Khoản
1 Điều 357 BLTTHS 2015
Bị cáo là đối tượng của việc buộc tội trong hình sự, họ có thể phải chịu hình
phạt và bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra bằng một bản án,
quyết định của Tòa án hoặc có thể được tuyên vô tội và được trả tự do ngay. Để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, họ có quyền kháng cáo. Quyền kháng cáo
được pháp luật tố tụng quy định cho chính bản thân bị cáo.
Như vậy, bị cáo có quyền kháng cáo đối với mọi bản án, quyết định sơ thẩm. Bị

cáo có quyền kháng cáo đối với toàn bộ bản án: về tội danh, điều khoản BLHS, tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt chính và hình phạt bổ sung,
về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí, bồi thường thiệt hại… và các quyết
định sơ thẩm: quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án và quyết định áp dụng biện
pháp chữa bệnh
Trong tình huống trên, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt A 9 tháng tù. Trong diện chủ
thể có quyền kháng cào chỉ có A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt (mà không phải
viện kiểm sát kháng nghị hay bị hại kháng cáo vì vậy Hội đồng xét xử không thể
căn cưa vào khoản 2 Điều 357 BLTTHS 2015). Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy
bản án sơ thẩm là quá nhẹ. Như vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã có căn cứ xác
định bản án sơ thẩm đã tuyên không đúng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành
vi phạm tội, nhân thân bị cáo thì Hội đồng xét xử phúc thẩm có quyền sửa bản án
sơ thẩm. Tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 357 lại quy định theo hướng có lợi cho bị cáo
cho nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ có thể áp dụng điểm e đó là giữ nguyên
mức hình phạt đã tuyên.
III. KẾT LUẬN
Trên đây là những ý kiến, quan điểm của nhóm em về tình huống của tội trộm cắp
và một số giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Bài làm còn nhiều thiếu sót,
chúng em mong nhận được những nhận xét, góp ý của thầy cô để có thể hoàn thiện
hơn trong nhận thức và kĩ năng xử lí tình huống thực tế. Chúng em xin chân thành
cảm ơn!
14


15


DANH MỤC VIẾT TẮT
BLTTHS
BLHS

CQĐT
VKS

Bộ luật tố tụng hình sự
Bộ luật hình sự
Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật tố tụng hình sự 2015, nhà xuất bản Lao động.
2. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia sự thật.
3. Thông tư liên tịch số: 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTPBLĐTBXH
4. Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP
5.

17



×