Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy môn khoa học lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (522.54 KB, 22 trang )

1


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HỐ
PHỤ LỤC

Mục

PHỊNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
Nội dung

1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2

Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
SÁNG
Phương pháp nghiên
cứuKIẾN KINH NGHIỆM
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
VẬN


DỤNG PHƯƠNG PHÁP “ BÀN TAY NẶN
nghiệm
2.3
Các sáng
kiến kinh
nghiệm
hoặcKHOA
giải phápHỌC
đã sử dụng
để 5
VÀO
DẠY
MÔN
LỚP
giải quyết vấn đề
2.3.1
Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy
2.3.2
Tổ chức tốt các bước khi sử dụng phương pháp "Bàn tay
nặn bột"
2.3.3
Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp "Bàn
tay nặn bột"
2.4
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, với đồng nghiệp và nhà trường
3
Kết luận, kiến nghị
3.1
Kết luận

Người thực hiện: Trần Thị Liên
3.2
Kiến nghị
Chức vụ: Giáo viên

Trang
2
2
3
3
4
4
4
5

BỘT”
6
6
8
13
16
17
17

Đơn vị công tác: Trường TH Điện Biên 1, TP Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực: Khoa học

THANH HĨA NĂM 2016
2



KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT
VÀO DẠY MÔN KHOA HỌC LỚP 5
1. MỞ ĐẦU
1.1 LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Khoa học là mơn học chiếm vị trí quan trọng ở Tiểu học. Mục tiêu của môn khoa
học lớp 4; 5 là giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản ban đầu về sự trao đổi chất; sự
sinh sản của động vật, thực vật, đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số vật liệu
và các dạng năng lượng thường gặp trong đời sống và sản xuất. Bước đầu hình thành
và phát triển cho các em những kĩ năng cần thiết như quan sát và làm một số thí
nghiệm thực hành khoa học đơn giản gần gũi với đời sống sản xuất, nêu thắc mắc và
đặt câu hỏi trong quá trình học tập, biết tìm thơng tin để giải đáp. Biết diễn đạt những
biểu cảm bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ, phân tích so sánh rút ra những dấu hiệu
chung và riêng của một số sự vật hiện tượng đơn giản trong tự nhiên. Qua đó hình
thành và phát triển những thái độ và hành vi như: Ham hiểu biết, có ý thức vận dụng
những kiến thức đã học vào đời sống, yêu con người, thiên nhiên, đất nước, yêu cái
đẹp. Có ý thức và hành động bảo vệ mơi trường xung quanh.
Như chúng ta đã biết, mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học là thay đổi
cách truyền thụ một chiều sang "phương pháp dạy học tích cực" nhằm giúp học sinh
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự
học, tinh thần hợp tác và khả năng vận dụng kiến thức vào những tình huống khác
nhau trong học tập vào thực tiễn, tạo niềm tin, niềm vui và hứng thú trong học tập. Coi
học tập là quá trình kiến tạo, học sinh tìm tịi, khám phá, phát hiện, khai thác và sử lý
thơng tin, tự hình thành và chiếm lĩnh tri thức, từ đó trở thành con người tự tin, năng
động, sáng tạo trong cuộc sống. " Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học tích
cực và thích hợp cho việc dạy mơn khoa học lớp 5 nói chung và đặc biệt có hiệu quả
khi thực hiện dạy bài "Dung dịch" nói riêng. Thật vậy phương pháp bàn tay nặn bột trú
trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm hiểu biết, tìm tịi
nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc
sống thơng qua việc tiến hành thí nghiệm, quan sát, .... Học sinh có thể đặt ra các câu

hỏi, các giả thiết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để
kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thông qua thảo luận, so sánh, phân tích,
tổng hợp kiến thức và cũng chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến
thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên. Hay nói cách khác: “ Bàn tay nặn bột” là một
phương pháp dạy học được tổ chức nhằm giúp học sinh tự phát hiện ra tri thức khoa
học. Trên cơ sở vận dụng tất cả các giác quan của mình, kinh nghiệm, tri thức cũ và
tham gia làm thực nghiệm khoa học. Như vậy, phương pháp "Bàn tay nặn bột" đề cao
vai trị chủ thể tích cực, độc lập, sáng tạo của HS, hình thành cho các em phương pháp
học tập đúng đắn. Các em học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong hành động. Các
em sẽ tiến bộ dần bằng cách tự nêu những thắc mắc, nghi vấn, hỏi đáp với bạn, trình
bày quan điểm của mình, đối lập với các quan điểm của người khác, tranh luận, tạo ra
mơi trường học tập tích cực.
3


" Bàn tay nặn bột" là một phương pháp mới, mang lại hiệu quả rất cao trong quá
trình dạy học. Học sinh được tập làm các nhà khoa học tự mình nghiên cứu và chiếm
lĩnh được các kiến thức, phương pháp này giúp các em ghi nhớ kiến thức lâu và sâu
hơn, các em hiểu vấn đề rõ ràng hơn và khơng bị mơ hồ. Song phương pháp này cịn
mới, việc vận dụng đối với giáo viên chưa quen, còn lúng túng, giáo viên chưa hiểu hết
phương pháp "Bàn tay nặn bột" và phương pháp này sử dụng hiệu quả trong mơn nào,
bài nào. Ngồi ra việc vận dụng phương "Bàn tay nặn bột" vào dạy khoa học lớp 5 còn
giúp bạn bè đồng nghiệp hiểu rõ về bản chất, cách thức dạy theo phương pháp "Bàn
tay nặn bột" để dần dần áp dụng rộng hơn với các môn học khác.
Vì vậy tơi chọn đề tài: Vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào dạy môn
khoa học lớp 5 để khẳng định những kết quả đạt được khi vận dụng phương pháp "Bàn
tay nặn bột" vào dạy học, đồng thời góp thêm một chút kinh nghiệm khi vận dụng
phương pháp này.
1.2 MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục tiêu của phương pháp "Bàn tay nặn bột" là tạo nên tính tị mị, ham muốn

khám phá, yêu và say mê khoa học của học sinh. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức
khoa học, phương pháp "Bàn tay nặn bột" còn chú ý đến việc rèn luyện các kĩ năng
diễn đạt thông qua ngôn ngữ nói và viết của học sinh. Phương pháp "Bàn tay nặn bột"
cho thấy cách thức học tập của học sinh là tị mị tự nhiên, giúp các em có thể tiếp cận
với thế giới xung quanh mình qua việc tham gia các hoạt động nghiên cứu tìm tịi. Các
hoạt động nghiên cứu tìm tịi gợi ý cho học sinh tìm kiếm để rút ra các kiến thức cho
riêng mình, qua sự tương tác với các học sinh khác cùng lớp để tìm phương án giải
thích các hiện tượng. Tiến trình tìm tịi nghiên cứu khoa học trong phương pháp "Bàn
tay nặn bột" là một vấn đề cốt lõi, quan trọng. Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình
huống (Câu hỏi lớn), nêu giả thiết, nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành
các thí nghiệm nghiên cứu, đối chiếu các nhận định (giả thiết đặt ra ban đầu). Đối
chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác, nếu khơng phù hợp học sinh
phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành các thí nghiệm hoặc thử làm lại các thí nghiệm
như các đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng, rút ra kết luận và giải thích cho các
vấn đề đặt ra ban đầu. Trong q trình này học sinh ln ln phải động não, trao đổi
với các học sinh khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức.
Con đường tìm ra kiến thức của học sinh cũng đi lại gần giống với quá trình tìm ra các
kiến thức mới của các nhà khoa học.
Khi dạy bài "Dung dịch" sử dụng phương pháp dạy học theo kiểu "Bàn tay nặn
bột" với mục đính làm cho học sinh tự mình chuẩn bị những đồ dùng cần thiết như:
Cốc, nước, mì chính, muối, đường, dầu ăn..... sau đó tự mình dùng những chất đã
chuẩn bị để tao ra những hỗn hợp theo ý muốn và các em tự mình quan sát kết quả vừa
tạo ra để nhận xét các hiện tượng sảy ra. Dưới sự gợi ý của giáo viên thì học sinh sẽ
chiếm lĩnh được kiến thức về đặc điểm của dung dịch và điệu kiện để tạo ra một dung
dịch một cách nhẹ nhàng mà được khắc sâu, nhớ lâu.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Học sinh khối 5 trường Tiểu học Điện Biên 1 Thành phố Thanh Hóa (Năm học
4



2015 - 2016)
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp thí nghiệm, nghiên cứu
- Phương pháp kiểm chứng
- Phương pháp so sánh, thảo luận, quan sát
-Phương pháp điều tra khảo sát thực tế,
- Phương pháp thu thập thông tin;
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp đọc tài liệu.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Phương pháp "Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học mà trong đó học
sinh tiến hành các thao tác trí tuệ có sự hỗ trợ của một số công cụ và những giác quan
để nghiên cứu tìm tịi, khám phá ra tri thức mới. Tất cả suy nghĩ và kết quả được học
sinh mô tả lại bằng chữ viết, lời nói, hình vẽ.
Phương pháp "Bàn tay nặn bột" áp dụng hiệu quả nhất ở môn khoa học bởi vì:
"Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm, nghiên
cứu, áp dụng giảng dạy cho các môn học tự nhiên. Phương pháp này chú trọng tới việc
hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tịi nghiên cứu để chính các
em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuốc sống thông qua tiến hành
thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hoặc điều tra. Với một vấn đề khoa học, học
sinh có thể đặt ra câu hỏi, giả thiết ban đầu, tiến hành thí nghiệm, nghiên cứu, kiểm
chứng, phân tích, so sánh, thảo luận, và đưa ra kết luận phù hợp. Phương pháp này
kích thích sự tị mị, ham mê khám phá của học sinh.
Tầm quan trọng của thí nghiệm trong khoa học: Thí nghiệm trong khoa học được

đưa ra để xác nhận hoặc bác bỏ giả thuyết hoặc một dự đoán lý thuyết nào đó. Thí
nghiệm có thể mơ phỏng bất cứ lúc nào, tại bất cứ đâu, minh họa những khái niệm của
các nguyên tắc và các định luật khoa học...
Thí nghiệm khoa học nói chung là một thí nghiệm quy nạp, tức là nếu nhiều thí
nghiệm đều đưa về một kết quả thì một kết luận chung sẽ được đưa ra. Trong tiến trình
này, thí nghiệm thường đưa ra những giả thuyết xa hơn và từ đó dẫn đến sự phát triển
của khoa học, kiến thức và hiểu biết.
5


Trong q trình làm thí nghiệm, học sinh được phát triển và thực hành những kĩ
năng bằng tay khi tập trung làm chính xác thí nghiệm theo hướng dẫn, đặc biệt là đối
với những thí nghiệm có những thiết bị mới. Trước đó, thí nghiệm phải được lên kế
hoạch, do đó học sinh học được cách sắp xếp cơng việc một cách khoa học, cách phác
thảo kế hoạch, cách thảo luận, làm việc nhóm những gì liên quan đến cơng việc chung
( như: nguyên vật liệu và thời gian làm việc,...). Học sinh cũng học được cách miêu tả
thí nghiệm. Nhờ việc tiến hành thí nghiệm, học sinh có thể tự đem kiến thức nhất định
đến cho mình.
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a) Thuận lợi
Giáo viên thường xuyên được tiếp thu các chuyên đề về các phương pháp dạy học
mới đặc biệt là phương pháp "Bàn tay nặn bột" do trường tổ chức. Ngoài ra giáo viên
thường xuyên dự giờ đồng nghiệp để trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Trong các buổi
sinh hoạt chuyên môn, trường đều tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi tháo gỡ những
vướng mắc trong chuyên môn.
Thư viện nhà trường có đầy đủ tranh ảnh, đồ dùng trực quan cần thiết để phục vụ
cho việc dạy học môn khoa học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Lớp được trang bị đầy đủ các thiết bị hỗ trợ dạy học hiện đại như máy chiếu, ti vi.
Các em học sinh có đầy đủ sách giáo khoa, vở bài tập, đồ dùng học tập phục vụ
cho môn học.

Giáo viên hứng thú với việc tiếp cận những phương pháp mới vào dạy học và đặc
biệt là phương pháp "Bàn tay nặn bột"
a) Hạn chế
- Đối với giáo viên
Phương pháp "Bàn tay nặn bột" mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị và thực hiện.
Giáo viên chưa thật sự mạnh dạn áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào
giảng dạy.
- Đối với học sinh
Một số học sinh thiếu sự chuẩn bị đồ dùng học tập cho tiết học và chưa tích cực
tham gia các hoạt động trong giờ học khoa học.
Khả năng tập trung của học sinh chưa cao, ít tị mị, ít đặt ra những câu hỏi thắc
mắc và hầu như còn mơ hồ về biểu tượng của những sự vật hiện tượng mà các em
được tìm hiểu, sự lập luận còn kém, các kỹ năng kỹ xáo thực hành còn vụng về, lúng
túng.
Khả năng ghi chép của các em chưa tốt, các em chưa có thói quen ghi lại những gì
mà các em quan sát được. Việc xác lập mục đích quan sát và mục đích của thí nghiệm
còn kém.
2.3 Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
6


2.3.1 Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy
Mục đích của giai đoạn này là định hướng cho một giờ lên lớp theo phương pháp
"Bàn tay nặn bột". Do đó, giáo viên phải tiến hành các hoạt động từ việc xác định mục
tiêu, nội dung bài học đến việc lựa chọn tình huống xuất phát, chuẩn bị cơ sở vật chất
cần thiết cho bài dạy và đồng thời dự kiến những vấn đề nảy sinh và những khó khăn
trong tiết dạy để có những biện pháp xử lý. Giai đoạn này có ý nghĩa định hướng, vì
vậy việc tổ chức cho học sinh học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" phụ thuộc
nhiều vào giai đoạn này.
Phương pháp "Bàn tay nặn bột", yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là: tạo tình huống

để học sinh phát hiện ra vấn đề trong bài học, từ đó để các em tự đưa ra các tình huống
giải quyết vấn đề để đi đến kết quả, giúp tạo lập cho học sinh thói quen làm việc như
các nhà khoa học và niềm say mê sáng tạo phát hiện, giải quyết vấn đề. Mục tiêu này
rất quan trọng bởi trong cuộc sống các em gặp rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Vì
vậy buộc giáo viên phải nghiên cứu kĩ bài dạy. Gắn kết chặt chẽ nội dung bài dạy với
những vấn đề thiết thực, gần gũi với cuộc sống hàng ngày và thực tế địa phương.
Chuẩn bị bài chu đáo, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp, lô - gic, trọng tâm, có kiến
thức thực tế, sâu rộng và các giải pháp liên hệ thực tế.
+ Sự chuẩn bị của học sinh
- Học sinh cần chuẩn bị đủ đồ dùng học tập cá nhân hoặc chuẩn bị theo nhóm
- Tìm hiểu trước nội dung bài học thông qua việc đọc tài liệu và sách giáo khoa
+Sự chuẩn bị của giáo viên
- Ngay từ đầu năm, bản thân tôi đã lên kế hoạch và lập nhật kí dạy học theo
phương pháp "bàn tay nặn bột" với các bài cụ thể như sau:
Số
TT
1

Bài

2

24

3
4
5
6
7
8

9

25
26
27
29
30
31
32

10

35

11

36

23

Tên bài dạy

- Nội dung kiến thức áp dụng phương
pháp Bàn tay nặn bột
Gang, sắt, thép
- Nguồn gốc của sắt, gang, thép và
tính chất của chúng
Đồng và hợp kim của đồng - Tính chất của đồng: màu sắc, độ
sáng, tính cứng và tính dẻo
Nhơm

- Tính chất của nhơm
Đá vơi
- Tính chất của đá vơi
Gốm xây dựng: Gạch, ngói - Tính chất của gạch, ngói
Thủy tinh
- Tính chất của thủy tinh
Cao su
- Tính chất đặc trưng của cao su
Chất dẻo
- Tính chất của chất dẻo
Tơ sợi
- Đặc điểm chính của tơ sợi tự nhiên
và tơ sợi nhân tạo
Sự chuyển thể của chất
- Điều kiện để một số chất có thể
chuyển từ thể này sang thể khác
Hỗn hợp
- Cách tạo ra hỗn hợp, đặc điểm của
hỗn hợp
7


- Cách tách các chất trong hỗn hợp
12
37
Dung dịch
- Cách tạo ra một dung dịch, đặc điểm
của dung dịch
- Cách tách các chất trong dung dịch
13

38; 39 Sự biến đổi hóa học
- Định nghĩa về sự biến đổi hóa học
- Phân biệt sự biến đổi hóa hoc, lí học
- Vai trị của nhiệt trong biến đổi hóa
học
14
40
Năng lượng
- Các vật có biến đổi vị trí, hình dạng,
nhiệt độ nhờ có năng lượng
15
41
Năng lượng mặt trời
- Tác dụng của năng lượng mặt trời
16
46 ;47 Lắp mạch điện đơn giản
- Lắp được mạch điện thắp sáng đơn
giản
- Phát hiện vật dẫn điện hoặc cách
- Xác định mục tiêu bài học: Giáo viên cần phải xác định được những mục tiêu cơ
bản về kiến thức, kĩ năng, thái độ mà học sinh cần đạt được sau bài học. Việc xác định
đúng trọng tâm bài học thì việc tổ chức cho học sinh học tập theo quy trình sử dụng
phương pháp "Bàn tay nặn bột" mới tiến hành đúng hướng và đạt kết quả tốt.
- Chuẩn bị đồ dùng dạy học: Từ mục tiêu bài học, giáo viên lựa chọn các vật liệu,
đồ dùng dạy học như: các dụng cụ, thiết bị thí nghiệm, tài liệu cho phù hợp với trình
độ nhận thức của học sinh, điều kiện của nhà trường và của địa phương. Đây là điều
kiện thuận lợi để học sinh trực tiếp làm thí nghiệm trên đối tượng thật, tạo điều kiện
cho các em phát huy tối đa các giác quan khác nhau tiếp xúc với đối tượng. Từ đó hình
thành biểu tượng đầy đủ về sự vật, hiện tượng trong tự nhiên. Bên cạnh vật liệu, đồ
dùng dạy học được lựa chọn phải đảm bảo tính khoa học và tính sư phạm. Việc chuẩn

bị các vật liệu, đồ dùng dạy học có ý nghĩa quan trọng. Đối với phương pháp "Bàn tay
nặn bột", nếu khơng có đồ dùng dạy học thì khơng thể tiến hành dạy được.
- Chuẩn bị hình thức dạy học: Có thể dạy trong, ngồi lớp học và dạy theo nhóm.
- Chuẩn bị điều kiện dạy học: Trước khi dạy học giáo viên yêu cầu học sinh kê bàn
ghế hình chữ U hoặc kê theo nhóm để thuận tiện cho học sinh làm thí nghiệm và học
theo nhóm.
- Lập kế hoạch tổ chức học sinh học tập theo phương pháp "Bàn tay nặn bột". Kế
hoạch cần được thể hiện một cách chi tiết qua việc soạn giáo án. Trong giáo án, cần
phân định rõ tiến trình của bài học bằng những hoạt động của giáo viên và học sinh,
xác định mục đích, nội dung đánh giá, lựa chọn tình huống xuất phát. Tình huống xuất
phát thường là một câu hỏi và cần đảm bảo những yêu cầu sau:
+ Câu hỏi thường mang tính chất mở hoặc nửa mở, phù hợp với mục tiêu bài học
và phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh, sao cho các em có khả năng giải
quyết.
+ Có tác dụng khiêu gợi trí tị mị và ham hiểu biết khoa học, kích thích các em suy
nghĩ và tiến hành giải quyết để đem lại những hiểu biết.
+ Câu hỏi phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, hạn chế những từ ngữ mang tính chất
8


khái niệm mà các em chưa biết, đối với những câu hỏi khó giáo viên nên tìm từ ngữ
khác thay thế sao cho vừa đảm bảo học sinh hiểu được mà vẫn giữ nguyên ý nghĩa của
nó.
+ Khi nêu câu hỏi phải đảm bảo cho tất cả học sinh nghe và biết được mình cần
phải làm gì.
- Việc lập kế hoạch tổ chức cho học sinh học tập theo phương pháp "Bàn tay nặn
bột" có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả giờ dạy. Nếu giáo viên chuẩn
bị chu đáo thì hoạt động dạy học trên lớp diễn ra suôn sẻ và hiệu quả hơn. Kế hoạch
cần được thể hiện một cách chi tiết qua việc soạn giáo án.
2.3.2 Tổ chức tốt các bước dạy khi sử dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột"

Tổ chức cho học sinh học tập theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" là giai đoạn
quan trọng nhất trong quy trình dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột". Giáo
viên và học sinh tiến hành theo 5 bước sau đây:
Bước 1: Tình huống xuất phát và nêu vấn đề
Bước này là sự xuất phát, là sự khởi điểm của một tiết học, có tác dụng kích thích sự
tị mị,muốn tìm hiểu khám phá, gây hứng thú học tập, đồng thời đặt ra nhiệm vụ cho
học sinh dưới hình thức: Giáo viên đưa ra câu hỏi, học sinh đi tìm câu trả lời. Bằng khả
năng phán đoán, suy luận cùng các việc huy động vốn sống, vốn kinh nghiệm, các cá
nhân học sinh đưa ra những hiểu biết ban đầu của mình về vấn đề mà giáo viên đặt ra.
Bước này nên để cho học sinh làm cá nhân vì những lý do sau đây:
- Đối với giáo viên:
+ Chuẩn bị tình huống xuất phát để tung ra cho học sinh
+ Biết được mức độ nhận thức của từng cá nhân để tác động đến từng đối tượng
học sinh một cách thích hợp ngay trong tiết học.
+ Kết hợp các giờ học trước và giờ học sau để làm phương tiện đánh giá sự tiến bộ
của từng học sinh.
- Đối với học sinh
+ Học sinh nào cũng phải tiến hành suy nghĩ để ghi chép những hiểu biết của mình
về bài học rồi ghi những suy nghĩ đó vào vở thí nghiệm. Những hiểu biết cá nhân có
tác dụng làm cho các em ý thức được rằng cần phải tiến hành nghiên cứu để kiểm tra
xem đúng hay sai. Đưa những hiểu biết của mình trước nhóm để xem các bạn đánh giá
như thế nào về ý kiến của mình, qua đó diễn ra sự tranh luận trong nhóm.
+ Biểu tượng ban đầu giúp các em so sánh và đối chiếu với biểu tượng mới (biểu
tượng chuẩn) sau khi tiến hành nghiên cứu. Biểu tượng ban đầu dù chỉ một phần rất ít
nhưng cũng làm cho các em vui vì thấy rằng mình có đóng góp một phần trong bài
học. Vì vậy tạo cho các em hứng thú học tập hơn.
Sau đây, tôi xin nêu ra một số câu hỏi nêu vấn đề như sau :
Khoa học 5 :
9



+ Bài 40 : “Sự sinh sản của ruồi” - Hãy nêu hiểu biết của em về sự sinh sản của
ruồi ?
+ Bài 8: "Vệ sinh tuổi dậy thì" - Chúng ta cần làm gì để vệ sinh thân thể ở tuổi dậy
thì?
+ Bài 26: "Đá vơi" - Theo em đá vơi có những tính chất gì?
+ Bài 37: "Dung dịch" - Cho một ít muối vào nước thì hiện tượng gì sẽ sảy ra?
+ Bài 49 : “Sự sinh sản ở người” - Em bé được hình thành như thế nào ?
+ Bài 51: " Cơ quan sinh sản của thực vật có hoa"- Em biết gì về nhị và nhụy của
hoa ; hoa có cả nhị và nhụy ?
+ Bài 52: "Sự sinh sản của thực vật có hoa" - Em biết gì về sự thụ phấn, sự thụ tinh
? Sự hình thành hạt và quả của thực vật có hoa diễn ra như thế nào ?
+ Bài 53: "Cây con mọc lên từ hạt" - Cây đậu phộng mọc lên từ đâu ? Trong hạt
đậu có gì?
+ Bài 56: "Sự sinh sản của côn trùng"- Em biết gì về sự sinh sản của ruồi và gián,
đặc điểm chung về sự sinh sản của hai con vật này là gì, biện pháp tiêu diệt chúng ra
sao ?
+ Bài 57: "Sự sinh sản của ếch": - Ếch đẻ trứng hay đẻ con? Nòng nọc sống ở
đâu ? Khi lớn nòng nọc mọc chân nào trước, chân nào sau ? Ếch sống ở đâu ? Ếch
khác nòng nọc ở điểm nào ?
+ Bài 58: "Sự sinh sản và nuôi con của chim" - So sánh, tìm ra sự khác nhau giữa
các quả trứng ở hình 2 ? Bạn thấy bộ phận nào của con gà trong các hình 2b, 2c, 2d ?
Theo bạn, quả trứng hình 2b và 2c, quả nào có thời gian ấp lâu hơn?
Yêu cầu học sinh suy nghĩ và ghi những dự đốn của mình hoặc của nhóm vào
phiếu.
Muốn đưa tình huống xuất phát gây hứng thú cho học sinh thì địi hỏi người giáo
viên phải lựa chọn thời điểm đưa ra tình huống phù hợp với tiết dạy (thường là đầu tiết
học, sau khi giới thiệu bài, hoạt động) hoặc thơng qua các trị chơi. Giáo viên cần lựa
chọn câu hỏi phù hợp thường có nội dung gắn liền với thực tiễn đời sống, phần đầu nội
dung của câu hỏi thường thì các em đã biết qua kinh nghiệm thực tế còn phần sau các

em chưa biết hoặc biết nhưng chưa rõ. Từ đó các em có nhu cầu khám phá, tị mị và
phải tìm mọi cách để biết.
Ví dụ: Bài 53 "Cây con mọc lên từ hạt
Tình huống xuất phát: GV cho HS quan sát vật thực (cây đậu) và hỏi : Đây là
cây gì ? Cây đậu phộng mọc lên từ đâu ? Trong hạt đậu có gì ?
+ Bài 57: "Sự sinh sản của ếch":
10


Tình huống xuất phát. GV đưa câu hỏi gợi mở: Ếch đẻ trứng hay đẻ con? Nòng
nọc sống ở đâu ? Khi lớn nòng nọc mọc chân nào trước, chân nào sau ? Ếch sống ở
đâu ? Ếch khác nòng nọc ở điểm nào ?
Bước 2: Quan điểm ban đầu của học sinh
Thảo luận nhóm để đưa ra giả thiết của nhóm
Biểu tượng ban đầu là quan niệm cá nhân riêng, mỗi em có thể trình bày bằng lời
nói hay viết, vẽ ra giấy. Rồi từ đó giao viên giúp học sinh phân tích những điểm giống
nhau và khác nhau cơ bản giữa các ý kiến, từ đó cho học sinh đặt câu hỏi cho sụ khác
nhau đó.
Sau khi học sinh đã đưa ra được giả thiết cá nhân, giáo viên cho các em tiến hành
thảo luận nhóm để thống nhất đưa ra giả thiết chung của nhóm. Việc thảo luận nhóm
nhằm mục đích để cho tất cả các học sinh có cơ hội trình bày ý nghĩ của mình trước
tập thể. Từ đó biết được quan niệm của mỗi bạn như thế nào, giống hay khác với
suy nghĩ của mình, tập thể nhóm đánh giá như thế nào về giải thiết mà mình đưa ra.
Điều đó gây ra khơng khí tranh luận khoa học xung quanh vấn đề đồng ý hay không
đồng ý về giả thiết của mỗi thành viên. Các em học được cách bảo vệ quan điểm của
mình trước tập thể và rèn luyện kĩ năng diễn đạt ngơn ngữ nói. Những lý do trên góp
phần quan trọng trong việc làm cho các em thấy được sự cần thiết phải tiến hành
làm thí nghiệm hay quan sát kiểm tra giả thiết. Đồng thời có thể làm nảy sinh các
phương án thí nghiệm mới. Điều này có ý nghĩa quan trọng cho bước kế tiếp.
Nhóm 1: Muối tan đều trong nước và có vị mặn

Nhóm 2: Muối tan trong nước nhưng cịn một ít ở đáy cốc
Nhóm 3: Muối tan trong nước và nước sẽ có màu hơi đục......

Học sinh có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, trái ngược nhau tùy theo
11


cách quan sát, sự hiểu biết của học sinh. Càng nhiều ý kiến trái ngược nhau thì sự tị
mị, ham hiểu biết và khám phá thực tiễn càng cao. Điều này đóng góp rất lớn vào sự
thành cơng của các bước tiếp theo. Lúc này đòi hỏi người giáo viên phải hết sức bình
tình và khéo léo để dẫn dắt các em sang bước học tiếp theo.
Từ những quan điểm trên, giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích để tìm ra sự
khác nhau cơ bản giữa các nhóm như:
Nhóm 2: Cịn một ít muối ở đáy cốc
Nhóm 3: Có màu hơi đục
Bước 3: Câu hỏi đề xuất
Sau khi các nhóm đưa ra tình huống xuất phát, các em nhận biết sự giống nhau
và khác nhau của nhóm bạn với nhóm mình, từ đó các em nêu câu hỏi đề xuất, thắc
mắc của mình để cùng nhau tìm cách giải quyết là làm thí nghiệm.
Khi học sinh nêu câu hỏi đề xuất, giáo viên tuyệt đối không được nhận xét ngay
là ý kiến của nhóm này đúng hay là ý kiến của nhóm khác sai. Nên quan sát nhanh và
chọn nhóm có ý kiến khơng chính xác nhất cho trình bày trước. Ý đồ của phương pháp
"Bàn tay nặn bột" thành cơng khi có nhiều ý kiến trái ngược, khơng thống nhất để từ
đó giáo viên dễ kích thích học sinh suy nghĩ, sáng tạo, đề xuất câu hỏi, thí nghiệm để
kiểm chứng. Câu trả lời không do giáo viên đưa ra hay nhận xét đúng hay sai mà được
đề xuất khách quan qua các thí nghiệm nghiên cứu.
Ví dụ: bài Dung dịch
Hoạt động 1: Hình thành khái niệm dung dịch
+ Học sinh có thể nêu một số câu hỏi đề xuất
- Bạn có chắc chắn rằng muối có thể tan hết trong nước không?

- Tại sao các bạn cho rằng dưới đáy cốc lại có cặn?
- Bạn có chắc chắn rằng cịn một ít muối trong cốc khơng?
Nếu trong trường hợp câu hỏi đề xuất của các em đưa ra qua ít thì giáo viên cần có
sự gợi ý, dẫn dắt để các em có thể đưa ra câu hỏi đề xuất nhiều và phong phú hơn. Còn
nếu trong trường hợp các câu hỏi đề xuất mà các em đưa ra quá nhiều thì giáo viên gợi
ý để học sinh có thể đưa ra các câu hỏi đúng trọng tâm không lan man hoặc sai chủ đề.
Bước 4: Làm thí nghiệm để kiểm tra giả thuyết
Đây là bước quan trọng trong quy trình. Những hoạt động của các em ở bước này
là để chấp nhận hay bác bỏ các giả thuyết của các em đề ra (Kể cả giả thuyết cá nhân,
giả thuyết của nhóm). Đồng thời, qua đó để khẳng định tính đúng đắn của kiến thức
khoa học.
Trong khi làm thí nghiệm, học sinh được khám phá các sự vật, hiện tượng trong
thế giới tự nhiên theo con đường mơ phỏng gần giống với q trình tìm ra kiến thức
mới của các nhà khoa học. Các em đưa ra dự đốn, thực hiện thí nghiệm, thảo luận với
nhau và đưa ra kết luận như công việc của các nhà khoa học thực thụ để xây dựng kiến
12


thức.
Trong q trình làm thí nghiệm để khơng mất thời gian, giờ học đạt hiệu quả cao,
giúp học sinh dễ hiểu và hứng thú hơn trong giờ học. Trong mỗi tiết học giáo viên
hướng dẫn học sinh chuẩn bị phiếu học tập để trong q trình làm thí nghiệm các em
có thể nhanh vào phiếu học tập. Ngồi ra phiếu học tập còn giúp các em nhận biết
ngay về kết quả, sự giống nhau và khác nhau của quan điểm ban đầu và kết quả thí
nghiệm. Mẫu phiếu học tập có thể như sau:
PHIẾU HỌC TẬP
Quan điểm ban đầu Các bước làm thí
của học sinh
nghiệm
.............................. ..............................

.............................
.............................
Ví dụ: bài "Dung dịch"

Kết quả của thí
nghiệm

Điểm giống và khác
nhau giữa quan điểm
ban đầu và kết quả
thí nghiệm
........................... ..............................
........................... .............................

Hoạt động 1: Hình thành khái niệm dung dịch
*) Tiến hành làm thí nghiệm tìm tịi, nghiên cứu
Trước khi cho học sinh làm thí nghiệm, giáo viên kiểm tra đồ dùng của học sinh,
chia lớp thành các nhóm và hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm. Hướng dẫn HS phân
cơng nhóm trưởng, thư kí ghi chép những ý kiến tập trung của các thành viên trong
nhóm. Nhóm trưởng phân cơng nhiệm vụ cho từng thành viên trong nhóm mình.
GV chia lớp thành các nhóm mỗi nhóm 4 học sinh:
GV nhắc nhở HS khi làm thí nghiệm cần phải cẩn thận tránh đổ ra ngoài làm bẩn
lớp.
GV: Bằng những dụng cụ và nguyên liệu đã chuẩn bị, hãy pha chế thành hỗn hợp
theo ý muốn của mình Ví dụ:
- Rót1/2 cốc nước lọc
- Đổ một lượng muối vừa phải vào cốc nước lọc
- Trộn hai chất đó lại bằng cách dùng thìa quấy đều
- HS làm thí nghiệm và ghi lại những điều sảy ra vào giấy


13


+ Đại diện nhóm báo cáo kết quả thảo luận
Nhóm 1: Muối hịa tan đều trong nước
Nhóm 2: Muối hịa tan đều trong nước và nước có vị mặn
Nhóm 3: Muối tan đều trong nước và có màu hơi vàng.

+ GV cầm cốc nước đó lên và hỏi: Các con có thấy muối trong cốc nữa khơng?
+ Như vậy muối đã tan đều trong nước lọc, hỗn hợp muối và nước lọc này người ta
gọi là dung dịch nước muối.
14


*) GV yêu cầu HS tạo hỗn hợp từ nước mắm, đường và nước lọc sau đó hỏi HS
- Đây có phải là dung dịch khơng? Vì sao?( là dung dịch vì các chất này đã hịa tan
và phân bố đều vào nhau)
- Vậy thế nào là dung dịch?
Ví dụ: Bài 40"Sự sinh sản của ếch". giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát xem
ếch phát triển qua mấy giai đoạn, xác định vị trí của chúng (Theo thứ tự vịng đời), đặc
điểm của mỗi giai đoạn.
*) Cơng việc của học sinh
- Trước khi tiến hành quan sát, các nhóm phải xác định
+ Quan sát những dấu hiệu nào của sự vật, hiện tượng
+ Tùy theo từng đối tượng quan sát mà sử dụng các giác quan khác nhau vào quá
trình quan sát.
+ Quan sát phải đi từ tổng thể đến các bộ phận
+ Quan sát dấu hiệu bên ngoài rồi mới đi vào dấu hiệu bên trong
Ví dụ: Bài 45: Sử dụng năng lượng điện
Học sinh phải tiến hành quan sát tổng thể cái bóng đèn điện có dây tóc, sau đó

quan sát các bộ phận (phích cắm, dây, đui, bóng đèn, dây tóc của bóng đèn), rồi tháo
gỡ để quan sát các bộ phận bên trong. Tiếp đến các em đối chiếu với giả thuyết ban
đầu và rút ra kết luận.
- Nhận biết đối tượng quan sát và các đồ dùng cần thiết
- Tiến hành quan sát và ghi chép những gì quan sát được
- Cả nhóm tiến hành đổi và rút ra kết luận tạm thời
Bước 5: Kết luận
Sau khi thực hiện xong thí nghiệm hay quan sát, giáo viên tiến hành tổ chức cho
học sinh báo cáo kết quả và rút ra kiến thức bài học. Trong mỗi buổi học các tổ có thể
cử tổ trưởng báo cáo kết quả trước sau đó đến tổ phó, thư kí và lần lượt đến các tổ viên
và đảm bảo thành viên nào cũng được báo cáo kết quả trước lớp, việc này giúp các em
hứng thú và phát triển khả năng giao tiếp, tự tin cho học sinh.
*) Cơng việc của giáo viên:
Sau khi cho các em hồn thành giai đoạn kiểm tra giả thuyết, giáo viên tổ chức cho
học sinh báo cáo kết quả:
- Cho đại diện các nhóm báo cáo kết quả.
- Cả lớp cùng nhau tiến hành so sánh kết quả giữa các nhóm, đối chiếu với giả
thuyết. Trường hợp khơng thống nhất thì xác định nguyên nhân và xử lý nguyên nhân
đó để khẳng định tính đúng đắn của chân lý khoa học.
- Cuối cùng giáo viên chốt lại kiến thức trọng tâm của bài học, chính xác hóa các
khái niệm và u cầu học sinh tự sửa chữa, điều chỉnh kiến thức, diễn đạt biểu tượng
15


mới một cách đầy đủ và chính xác.
*) Cơng việc của học sinh
- Đại diện các nhóm báo cáo kết quả: Ccác em có thể báo cáo theo sườn sau:
+ Thứ tự công việc:.............................
+ Kết quả:.........................................
+ Đối chiếu với giả thuyết ban đầu:.............................

+ Kết luận:.....................................
Ví dụ: bài "Dung dịch"
Hoạt động 1: Hình thành khái niệm dung dịch
Kết luận: Dung dịch là hỗn hợp chất lỏng với chất rắn bị hòa tan và phân bố đều
hoặc hỗn hợp chất lỏng với chất lỏng hòa tan vào nhau gọi là dung dịch.
- Nêu tên và công dụng của một số dung dịch thường gặp trong cuộc sống hàng
ngày?
- HS kể: + dung dịch nước xà phòng
+ dung dịch nước đường: (đường và nước lọc)
+ dung dịch nước chấm: (mì chính, nước lọc và nước mắm)
+ dung dịch nước chanh
+ dung dịch nước cam.....
2.3.3. Đánh giá học sinh trong dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột"
Đánh giá là khâu cuối cùng nhằm xác định tính đúng đắn của việc thực hiện quá
trình cũng như kết quả của quá trình ấy. Việc tổ chức cho học sinh học tập theo phương
pháp " Bàn tay nặn bột" trong môn khoa học cần được đánh giá, thơng qua đó để kịp
thời điều chỉnh hoạt động dạy học của giáo viên và hoạt động học của học sinh. Đồng
thời rút ra kinh nghiệm cho những lần sau.
Như chúng ta đã biết, phương pháp "Bàn tay nặn bột" mặc dù đã được triển khai
mạnh mẽ tuy nhiên việc áp dụng vẫn chưa phải là phổ biến, đa số đang dừng lại ở mức
thử nghiệm. Trong quá trình dạy học, bản thân tơi đã tổ chức đánh giá như sau:
a) Đối tượng đánh giá: Giáo viên; học sinh; cá nhân; tổ nhóm
b) Hình thức đánh giá:
- Giáo viên hướng dẫn để học sinh đánh giá học sinh thơng qua hình thức: Cá nhân
học sinh đánh giá cá nhân học sinh. Tổ nhóm đánh giá tổ nhóm bằng cách nhận xét câu
trả lời của cá nhân, nhóm bạn về những việc làm được và những việc chưa làm được
để bổ sung ý kiến cho bạn,...
c) Nội dung đánh giá:
- Giáo viên đánh giá sự chuẩn bị của học sinh, đánh giá quy trình thí nghiệm, thao
tác làm thí nghiệm, sự quan sát, ghi chép kết quả và tiếp thu kiến thức của học sinh.

16


- Đánh giá học sinh qua quá trình thảo luận, trình bày, phát biểu ý kiến tại lớp học:
Trong các tiết học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột", học sinh được khuyến khích
phát biểu ý kiến và trao đổi ý kiến trong nhóm nhỏ hay trước tồn thể lớp học. Trong
một số trường hợp giáo viên không được nhận xét tính chính xác ý kiến của học sinh
(Ví dụ như khi hỏi học sinh về ý kiến ban đầu), đề xuất câu hỏi, phương án thí
nghiệm....Tuy nhiên, giáo viên có thể khuyến khích học sinh phát biểu ý kiến bằng
cách ghi chú lại số lần phát biểu ý kiến và tính chính xác cũng như sự tiến bộ của học
sinh trong một tiết học hay một số tiết học nhất định.
- Đánh giá học sinh trong quá trình làm thí nghiệm: Sự tích cực, năng động, tinh
thần trách nhiệm, tính nghiêm túc trong học tập và thực hiện các hoạt động học được
yêu cầu bởi giáo viên.
c) Thời điểm đánh giá:
- Đánh giá học sinh thông qua sự tiến bộ về nhận thức của học sinh trong vở thí
nghiệm: Giáo viên có thể quan sát trong q trình học sinh ghi chép ở lớp hoặc thu vở
thí nghiệm 1 lần/tháng (vào cuối tháng) hay cuối kì để xem sự tiến bộ của học sinh để
giúp học sinh có ý thức hơn trong khi làm việc tại lớp với vở thí nghiệm, đưa lại hiệu
quả sử dụng của vở thí nghiệm khi thực hiện dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn
bột".
Nói tóm lại, dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột" là giúp học sinh rèn
luyện các kĩ năng, tìm phương án giải quyết cho các vấn đề đặt ra, hiểu kiến thức hơn
là việc làm rõ hay giúp học sinh ghi nhớ kiến thức. Chính vì vậy việc đánh giá học
sinh cũng nên thay đổi theo hướng kiếm tra kĩ năng, kiểm tra năng lực nhận thức (sự
hiểu) hơn là kiểm tra độ ghi nhớ kiến thức. Sau khi có kết quả đánh giá các mặt trên,
giáo viên tiến hành đánh giá toàn diện về hiệu quả của quy trình sử dụng phương pháp
"Bàn tay nặn bột" trong dạy học mơn khoa học trong tiến trình của bài học. Trong quá
trình đánh, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
Về phía học sinh: Tự đánh giá về bản thân mình, thấy được sự tiến bộ của mình, đồng

thời tham gia vào việc đánh giá người khác. Có thể nói rằng, lúc này thể hiện sự tập
trung cao độ sự suy nghĩ, khả năng tìm tịi, khám phá, rèn luyện óc quan sát và kỹ
năng, kỹ xảo thực hành, phát huy sức mạnh tập thể cho học sinh Tiểu học. Bởi vì các
em phải tiến hành suy nghĩ để đưa ra phương án kiểm tra giả thuyết sao cho phù hợp,
được làm thí nghiệm, được quan sát sự vật, hiện tượng cả tập thói quen tìm tài liệu. Để
làm những công việc này, đảm bảo được lượng thời gian cho phép, các em phải vận
dụng trí tuệ và sức lực của tập thể.
Có nhiều con đường kiểm tra một giả thuyết. Đối với học sinh Tiểu học, do đặc
điểm tâm sinh lý, đặc điểm nhận thức, đặc điểm môn khoa học nên khi đề xuất các
phương án kiểm tra giả thuyết, giáo viên khéo léo định hướng cho các em làm thí
nghiệm, quan sát sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên trong q trình nghiên cứu, học sinh có
thể vận dụng phối hợp một cách linh hoạt.
Bản thân tôi đã dạy minh họa cho chuyên đề vận dụng phương pháp "Bàn tay nặn
bột" do trường tổ chức và đã thành công.
Bài 37: Dung dịch
17


I. Mục tiêu
- Học sinh biết cách tạo ra một dung dịch
- Nêu được một số ví dụ về dung dịch
- Giáo dục học sinh yêu khoa học, trân trọng thành quả mà các nhà khoa học đã
nghiên cứu ra
II. Đồ dùng dạy - học
- Phiếu học tập cho các nhóm.
- Một ít muối (hoặc đường), nước sơi để nguội, một cốc thủy tinh, thìa nhỏ có cán
dài. Nước đun sơi, bình nhựa, thìa nhỏ, các chén nhỏ, bảng nhóm. Vở thí nghiệm.
- Máy chiếu, máy tính
III. Các hoạt động dạy - học
Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của học sinh
Hoạt động 1: Hình thành khái niệm
dung dịch
1. Tình huống xuất phát và nêu vấn đề
- Giáo viên nêu vấn đề: Nếu ta cho một ít - Học sinh lắng nghe
muối vào nước thì hiện tượng gì sẽ sảy
ra? Các em hãy suy nghĩ và ghi chép vào
phiếu dự đoán.
2. Quan điểm ban đầu của học sinh
- Giáo viên hỏi để học sinh nêu các quan - Học sinh nêu quan điểm ban đầu của
điểm ban đầu của mình.
mình
Ví dụ:
- Muối tan đều trong nước
- Muối tan trong nước nhưng cịn một ít
muối ở đáy cốc
- Muối tan trong nước và nước sẽ có màu
hơi đục
- Giáo viên yêu cầu học sinh nêu sự Giống:
giống nhau và khác nhau về quan điểm - Muối tan đều trong nước
ban đầu của nhóm mình với các nhóm Khác:
khác
- Cịn một ít muối ở đáy cốc
- Nước có màu hơi đục
3. Câu hỏi đề xuất
- Giáo viên cho học sinh nếu các ý kiến
Học sinh nêu
thắc mắc
- Bạn có chắc chắn rằng muối tan hết
trong nước không?

- Tại sao các bạn cho rằng dưới đáy cốc
lại có cặn?
- Bạn có chắc chắn rằng cịn một ít muối
18


trong cốc không?
- Giáo viên yêu cầu học sinh thảo luận - Đại diện nhóm lần lượt đề xuất phương
nhóm để tìm phương án giải quyết các án làm thí nghiệm.
thắc mắc
4. Thí nghiệm
- Giáo viên chia lớp thành các nhóm,
mỗi nhóm 4 em
- Giáo viên hướng dẫn học sinh tạo hỗn
hợp theo ý muốn
- Yêu cầu học sinh làm thí nghiệm
- Học sinh làm thí nghiệm và ghi kết quả
vào phiếu
- Yêu cầu các nhóm báo cáo kết quả
- Đại diện hóm báo cáo kết quả thảo luận
Ví dụ:
Nhóm 1: Muối hịa tan đều trong nước
Nhóm 2: Muối hịa tan đều trong nước
và có vị mặn
Nhóm 3: Muối hịa tan đều trong nước
và có màu hơi vàng
5. Kết luận
- Yêu cầu học sinh nêu khái niệm về - Học sinh nêu phần bài học (bóng đèn
dung dịch.
tỏa sáng) trong sách giáo khoa.

- Yêu cầu học sinh kể tên và công dụng - Học sinh lần lượt kể
của một số dụng dịch thường gặp trong
cuộc sống hàng ngày.
*) Giáo viên lưu ý học sinh điều kiện để
tạo được một dung dịch.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
+ Đối với bản thân
Sau khi được tham gia chuyên đề về phương pháp "Bàn tay nặn bột" do trường tổ
chức, bản thân tôi được dạy mẫu một hoạt động. Tơi thấy phương pháp dạy học này có
nhiều ưu điểm, đặc biệt khơi gợi trí sáng tạo, óc tị mị của trẻ, kích thích trẻ say mê
trong các hoạt động, tất cả các trẻ em được tham gia làm thí nghiệm, được tự tay tạo ra
những sản phẩm (hỗ trợ ở ví dụ trên) mà mình thích và được nghiên cứu các hiện
tượng có thể xảy ra và giáo viên được tiếp cận với phương pháp mới....
+ Đối với đồng nghiệp
Khi được tham gia chuyên đề về phương pháp "Bàn tay nặn bột" do trường tổ
chức, đồng nghiệp chúng tôi được học hỏi, giúp đỡ lần nhau từ đó tay nghề được nâng
lên và đặc biệt hiệu quả giờ dạy được nâng cao một cách rõ rệt.
Ban đầu đồng nghiệp chưa quen, chỉ vận dụng phương pháp này vào những buổi
thao giảng để dự giờ, góp ý, rút kinh nghiệm. Về sau thành thạo hơn trong mọi thao tác
nên đã áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào rất nhiều bài học và đạt hiệu quả
19


rất cao. Trong các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn, tơi thường thảo luận những bài học
của tuần có thể áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" để giáo viên đồng nghiệp áp
dụng nhân rộng phương pháp này. Hiện nay hầu hết các giáo viên trong trường liên tục
áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" để dạy môn khoa học và đạt hiệu quả cao.
+ Đối với học sinh
Việc áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" vào dạy mơn khoa học nói chung và

bài "Dung dịch" nói riêng đã tạo cho học sinh hứng thú và say mê khi tham gia vào
hoạt động học tập, hăng say vào công việc như các nhà nghiên cứu (các em tự mình
làm thí nghiệm và ghi chép những điều sảy ra mà các em quan sát được). Các em phát
huy được tính tích cực, độc lập sáng tạo. Qua đó các em rèn luyện được nhiều thao tác
tư duy phân tích, tổng hợp, so sánh, khái qt hóa, trừu tượng hóa,... thơng qua các
hoạt động tìm kiếm tri thức của bản thân đồng thời rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến
thức vào cuộc sống, kĩ năng thực hành, thí nghiệm, năng lực quan sát, sáng tạo, năng
lực tự học và hợp tác nhóm. Bên cạnh đó ngơn ngữ nói và viết của các em cũng được
phát triển thông qua việc trình bày kết quả nghiên cứu của mình,..
3. Kết luận, kiến nghị
3.1 Kết luận
Từ khi tham gia học chuyên đề: Dạy học theo phương pháp "Bàn tay nặn bột", tôi
nhận thấy phương pháp dạy học này có nhiều ưu điểm, nhưng Phương pháp “Bàn tay
nặn bột” đòi hỏi nhiều trang thiết bị dạy học như: thiết bị thí nghiệm, tranh ảnh, mơ
hình, sa bàn, sách vở tài liệu, báo chí…. Nếu tổ chức không khéo, không chu đáo đẽ
tốn nhiều thời gian, không thực hiện đúng kế hoạch dạy học thậm chí xảy ra tai nạn
hoặc dẫn đến kết quả sai, ảnh hưởng đến niềm tin của học sinh về chân lý của vấn đề.
Để đạt hiệu quả cao khi áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột vào các hoạt động học,
giáo viên cần lưu ý những vấn đề sau:
- Nghiên cứu nội dung chương trình, lựa chọn các bài học và nội dung kiến
thức có thể áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột.
- Tổ chức lớp học tốt ngay từ đầu.
- Tình huống xuất phát giáo viên đưa ra phải ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu với học
sinh.
- Câu hỏi nêu vấn đề phải phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích
thích tính tị mị, thích tìm tịi, nghiên cứu của học sinh, dùng câu hỏi mở, khơng dùng
câu hỏi đóng. Giáo viên cần khéo léo lựa chọn một số biểu tượng ban đầu khác biệt
trong lớp để giúp học sinh so sánh. Từ đó giúp học sinh đặt câu hỏi liên quan đến nội
dung bài học.
- Ưu tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật.

- Cần chuẩn bị trước các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như mong muốn.
- Vận dụng tối đa những nguyên liệu sẵn có, dễ kiếm để thực hiện thí nghiệm.
- Sử dụng cơng nghệ thông tin cho bài dạy áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột"
20


đúng lúc, đúng chỗ, hợp lí.
- Giao cho học sinh chuẩn bị các vật liệu đối với thí nghiệm đơn giản.
- Sắp xếp bàn ghế phù hợp với số học sinh, chia nhóm 4 – 6 em/nhóm.
- Có chỗ dành riêng để vật liệu lớp học.
- Trong qúa trình giảng dạy khi áp dụng phương pháp "Bàn tay nặn bột" không nên
sử dụng SGK, không nêu tên bài học trước khi học (với những bài thể hiện nội dung
bài học ở đề bài), không nhất thiết hoạt động nào cũng áp dụng phương pháp này.
Tóm lại, phương pháp "Bàn tay nặn bột" là một phương pháp dạy học có nhiều ưu
điểm, là một trong những con đường nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của học
sinh. Các em đang sống giữa thời đại mà thông tin bùng nổ một cách nhanh chóng, lối
học tập theo kiểu nhồi nhét tri thức đã trở nên lỗi thời và lạc hậu, không đáp ứng được
nhu cầu của người học. Cái mà người học cần ở đây là một phương pháp học tập đúng
đắn, cần "một cái đầu khôn ngoan" chứ không phải là "một cái đầu nhồi nhét cho đầy".
Phương pháp "Bàn tay nặn bột" đã đáp ứng được những yêu cầu này của người học.
3.2 Kiến nghị
Nhà trường cần có phịng chức năng với đầy đủ thiết bị dạy học, thí nghiệm, tài
liệu tham khảo, tranh ảnh, sơ đồ… liên quan đến nội dung bài học theo phương pháp
Bàn tay nặn bột.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa , ngày 30 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình

viết, khơng sao chép nội dung của người khác


Trần Thị Liên

21


4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
4.1. Tạp chí giáo dục Tiểu học số 11 năm 2015
4.2. Bách khoa tri thức học sinh, NXB Văn hóa Thơng tin, 2001
4.3. Khoa học 5, NXB Giáo dục Việt Nam, 2005

22



×