Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.9 KB, 23 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1. Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của
dạng bài văn tả cảnh
3.2. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu
tả, cách chọn lựa hình ảnh, nội dung miêu tả. Cung cấp vốn sống,
vốn hiểu biết về cảnh
3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý
3.4. Giải pháp 4: Rèn kĩ năng dựng đoạn và hoàn thiện bài văn tả
cảnh
3.5.Giải pháp 5: Xây dựng một số bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng
từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật tu từ
3.6.Giải pháp 6: Giúp học sinh tích lũy vốn từ dùng cho tả cảnh,
làm giàu trí tưởng tượng của các em khi tả
3.7. Giải pháp 7: Tổ chức tương tác giữa thầy và trò
3.8. Giải pháp 8: Rèn kĩ năng viết văn cho học sinh qua các môn
học khác
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị



Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
4
4
5
8
10
14
16
17
18
20
20
20
20

0


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt là một trong những môn học có vị trí quan trọng ở bậc

Tiểu học. Vì môn Tiếng việt có nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh
các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp trong các môi trường của
lứa tuổi. Việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho học
sinh những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người của Việt Nam và
nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn khác nhau như Tập đọc, Luyện từ và
câu, Kể chuyện, Tập viết, Chính tả, Tập làm văn. Song khó hơn cả đối với người
dạy cũng như đối với người học là phân môn Tập làm văn. Tập làm văn là một
phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học, nó không chỉ
giúp học sinh hình thành các kĩ năng: Nghe, nói, đọc, viết mà còn rèn cho học
sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành
cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động.
Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung quanh trong
thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em.
Đặc biệt đối với môn Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong
những nội dung chính của chương trình Tập làm văn 5 là văn miêu tả. Trong đó
tả cảnh là một kiểu bài khó vì học sinh chưa có khả năng quan sát tinh tế, chưa
cảm nhận hết được vẻ đẹp của cảnh hay những thay đổi của cảnh, không biết
dựa vào cảm xúc của mình để làm cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn, gần
gũi hơn. Bởi vậy, làm thế nào để cho học sinh làm văn hay ? Làm thế nào để
giúp học sinh làm bài văn có hiệu quả ? Thì lại là một vấn đề rất khó khăn, cần
phải suy nghĩ và dày công nghiên cứu của những người làm công tác giáo dục.
Từ thực tế giảng dạy Tập làm văn phần tả cảnh, tôi nhận thấy bản thân
người giáo viên là người hướng dẫn đôi khi cũng cảm thấy lúng túng, bí từ và
không biết phải hướng dẫn thế nào để học sinh có thể viết được bài văn hay, có
hình ảnh, có cảm xúc. Một số tài liệu như sách giáo khoa, sách giáo viên, sách
thiết kế thì hướng dẫn chung chung, còn một số sách khác như văn mẫu lại chỉ
có các bài văn đã viết sẵn mà không có một sự hướng dẫn cụ thể nào để định

hướng cho giáo viên cũng như học sinh. Lúc này đây, các em muốn đòi hỏi ở
người thầy cái tâm, cái tài để truyền cho các em niềm say mê, để động viên bồi
dưỡng các em để trở thành học sinh có năng khiếu, có tâm hồn văn học. Là một
giáo viên Tiểu học, tôi luôn trăn trở suy nghĩ làm thế nào cho học sinh thích làm
văn, viết văn chân thật, có cảm xúc và sinh động. Tôi mạnh dạn đề xuất “Một
số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5 nhằm nâng cao
chất lượng phân môn Tập làm văn ở Trường Tiểu học Nga Thiện huyện
Nga Sơn.”
1


2. Mục đích nghiên cứu:
+ Nghiên cứu thực trạng chung để đưa ra giải pháp dạy học văn tả cảnh
nhằm nâng cao chất lượng viết văn cho học sinh.
+ Giúp giáo viên có kĩ năng trong khi dạy các bài tập làm văn tả cảnh.
+ Giúp học sinh:
Biết cách làm văn tả cảnh, nắm được cấu tạo 3 phần (mở bài, thân bài,
kết bài) của một bài văn tả cảnh; biết phân tích cấu tạo của một bài văn tả cảnh.
Thấy được những ưu điểm, khuyết điểm và cách chữa lỗi đoạn văn, bài
văn của mình.
3. Đối tượng nghiên cứu:
+ Giáo viên, học sinh lớp 5 ở Trường Tiểu học Nga Thiện.
+ Phương pháp dạy - học nội dung bài tả cảnh ở lớp 5.
+ Các giải pháp để nâng cao chất lượng làm văn tả cảnh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc tài liệu liên quan đến dạy học văn
tả cảnh ở Tiểu học.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế: Tìm hiểu kết quả học tập của
học sinh, trao đổi với đồng nghiệp về những khó khăn sai sót khi dạy tả cảnh.
+ Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm: Rút ra kinh nghiệm từ thực tế

của bản thân và học sinh thông qua cách dạy và cách học.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NHGIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
- Khái niệm về văn tả cảnh:
Văn tả cảnh là loại văn dùng lời với những hình ảnh, cảm xúc làm cho
người đọc, người nghe có thể hình dung được rõ nét và cụ thể về một cảnh vật
nào đó xung quanh ta.
- Các yếu tố tác động đến khả năng làm văn tả cảnh của học sinh.
+ Óc quan sát: Trước khi tả một bài văn tả cảnh nào đó học sinh phải được
quan sát cảnh đó qua thực tế, qua phim ảnh, sau đó mới nâng cao mức độ là học
sinh tưởng tượng
+ Vốn từ : Học sinh phải giàu vồn từ, có vốn hiểu biết về từ ngữ, ngữ pháp,
khả năng sử dụng câu, từ...
+ Khả năng dạy học của giáo viên: Giáo viên có phương pháp dạy học phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, biết khởi nguồn cảm hứng văn cho học
sinh, tránh cho các em sa vào cái khuôn mẫu riêng cũng như lệ thuộc vào các bài
văn mẫu...
- Các căn cứ của vấn đề:
+ Căn cứ vào mục tiêu, chương trình Tiếng Việt lớp 5 – bậc Tiểu học.
+ Căn cứ vào tài liệu tham khảo về phương pháp dạy học môn Tiếng Việt.
+ Căn cứ vào đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh Tiểu học.
+ Căn cứ vào tình hình thực tế học sinh của nhà trường.
2


2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm ở trường
Tiểu học Nga Thiện.
2.1.Về phía giáo viên:
Qua nghiên cứu, trao đổi với một số đồng nghiệp và thăm lớp, dự giờ, tôi
thấy hầu hết các đồng chí giáo viên đã quan tâm đến việc dạy học phân môn Tập

làm văn. Các đống chí đã đầu tư nghiên cứu nhưng vẫn còn tồn tại sau:
- Một số đồng chí chưa chủ động, sáng tạo trong việc dạy học, chưa khơi
được nguồn cảm hứng học văn để khơi gợi cách viết tự nhiên ở mỗi học sinh.
- Việc cảm nhận văn của giáo viên cũng chưa cao nên cảm xúc còn nghèo,
khô cứng. Do đó khi phân tích các bài Tập đọc, các đoạn văn mẫu còn lí thuyết,
khô cứng. Dạy học sinh căn bản theo văn mẫu, thiếu tính sáng tạo.
- Giáo viên không thực hiện đúng các yêu cầu khi trả bài viết cho học
sinh, không giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi làm bài để
có sự chỉnh sửa rút kinh nghiệm cho bài làm sau.
2.2. Về phía học sinh:
- Học sinh chưa có hứng thú viết văn miêu tả. Khi làm văn, học sinh miêu
tả hời hợt, chung chung không làm nổi bật được cảnh đang tả.
- Các em chưa hiểu rõ đặc điểm của văn tả cảnh, chưa phân biệt được sự
khác biệt giữa văn tả cảnh và các kiểu bài văn khác.
- Học sinh chưa có phương pháp làm văn, chưa có ý thức quan sát đối
tượng miêu tả và ghi chép những điều quan sát được một cách cụ thể và chi tiết.
- Không có thói quen sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật
trong viết văn; khả năng giao cảm với đối tượng miêu tả còn hạn chế, cảm xúc
không tự nhiên, tình cảm gượng ép và khô cứng.
- Bài văn học sinh làm thường vay mượn ý tình của người khác, các em
thường sao chép những bài văn mẫu thành bài văn của mình không kể đề bài
quy định như thế nào. Với cách làm ấy các em không cần biết đối tượng cần
miêu tả gì, không chú ý tới đặc điểm nổi bật tạo nên nét riêng của cảnh, cũng
như không có cảm xúc về nó.
- Trong tiết trả bài, học sinh chưa chữa lỗi và tự sửa lỗi kĩ càng, đầy đủ.
Qua khảo sát chất lượng thực tế phân môn Tập làm văn của học sinh lớp
5A, tôi cho học sinh làm bài: Viết một đoạn văn miêu tả cảnh đẹp ở địa phương
em (tuần 8) và tôi đã thu được kết quả như sau:
Điểm 9 - 10
Điểm 7 - 8

Điểm 5 - 6
Điểm dưới 5
Sĩ số
Học sinh
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
34 em
1
2.9
5
14.7
15
44,2
13
38,2
Tỉ lệ học sinh làm văn tốt và biết cách làm văn còn thấp. Qua tìm hiểu, tôi
thấy nổi lên một số nguyên nhân sau:
Một là: Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của
đề bài.

3


Hai là: Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả hoặc khi

quan sát thì các em không được hướng dẫn về kĩ năng quan sát: quan sát những
gì, quan sát từ đâu ? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần
miêu tả.
Ba là: Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết
mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của mình về một sự
vật, cảnh vật cụ thể nào đó.
Bốn là: Giáo viên chưa có cách phát huy tối đa năng lực học tập và cảm
thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các em lòng yêu Tiếng Việt,
ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra rằng đã là người Việt Nam thì
phải đọc thông viết thạo Tiếng Việt và phát huy hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
3.1. Giải pháp 1: Hướng dẫn học sinh xác định đúng yêu cầu của dạng bài
văn tả cảnh.
3.1.1. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn tả cảnh:
Khi dạy văn tả cảnh, giáo viên phải cung cấp cho học sinh đối tượng của
bài. Đó là những cảnh vật quen thuộc xung quanh các em: một cơn mưa, một
ngày nắng đẹp, một đêm trăng đẹp, một dòng sông, một cánh đồng, một góc
phố,… Bài văn tả cảnh là thể loại văn bản mang tính nghệ thuật cao, mang tính
sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn tả cảnh là thứ ngôn ngữ
giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ đã được gọt giũa một cách công phu. Tả là mô
phỏng, là vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hóa đối tượng có hình ảnh … chứ không
thể là liệt kê các chi tiết.
Văn tả cảnh mang tính chất thông báo thẩm mĩ, dù tả bất kì đối tượng nào,
dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn tả cảnh không bao giờ là sự sao chép, chụp
ảnh máy móc những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng
tượng, đánh giá hết sức tinh tế và phong phú. Chẳng hạn khi tả trăng, nhà thơ
Trần Đăng Khoa cảm nhận một cách tinh tế bằng tình yêu của tâm hồn trẻ thơ,
rất đỗi hồn nhiên trong sáng: Trăng hồng như quả chín/ Lơ lửng mà không rơi…
hay Trăng tròn như quả bóng/ Bạn nào đá lên trời.
Như vậy, để tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật, giáo viên cần uốn nắn để

học sinh tránh thái độ giả tạo, giả dối; bệnh công thức sáo rỗng.
Tóm lại: Mỗi cảnh đều nằm trong một khung không gian và thời gian, đó
là cái nền cho cảnh vật được miêu tả. Các em cần nêu được khung cảnh chung
này, nhưng đặc biệt cần tập trung tả nét tiêu biểu. Khi tả cảnh các em có thể lồng
tả người, tả vật trong cảnh để cho bài văn thêm sinh động.
3.1.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề:
Bài văn của học sinh được viết theo đề bài cụ thể, nên yêu cầu hàng đầu là
các em phải viết đúng đề bài, đúng thể loại. Như vậy, để làm được bài văn hay
giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh thực hiện được những công việc sau:
- Đọc kĩ đề: GV lưu ý học sinh có thể dùng bút chì gạch chân các từ ngữ
trọng tâm của đề bài.

4


- Phân tích đề: Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn chứa đến 3
yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu nội dung, yêu cầu về trọng tâm.
Ví dụ: Đề bài: Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn
cây (hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
Giáo viên giúp học sinh hiểu được việc viết đúng yêu cầu của đề bài là
yếu tố quyết định nội dung bài viết. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu và phân tích
đề bài qua việc xác định:
a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ
“cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên…)
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề
bài “Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này,
giáo viên cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết.
Chẳng hạn “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...

Như vậy việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu
hẹp nên các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan,…..
3.2. Giải pháp 2: Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách
chọn lựa hình ảnh, nội dung miêu tả. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về
cảnh:
3.2.1. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách chọn
lựa hình ảnh, nội dung miêu tả:
a. Tập cho học sinh thói quen quan sát:
Học sinh thường không có thói quen quan sát. Phải quan sát để tìm ra
những nét nổi bật, độc đáo của đối tượng miêu tả.
- Quan sát tổng thể đối tượng, ở cả trạng thái động và tĩnh, quan sát bằng
tất cả các giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác…
- Cần xác định vị trí quan sát, thời điểm quan sát, trình tự và nội dung
quan sát.
- Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát
thật kĩ.
- Quan sát và so sánh điểm giống nhau và khác nhau với các đối tượng
khác có ở xung quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.
- Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các
sự vật xung quanh.
- Có thể ghi nhớ trong đầu, hoặc ghi chép cẩn thận, đầy đủ vào sổ sách.
- Có thể quan sát trực tiếp hoặc bằng tranh, ảnh, hồi tưởng bằng trí nhớ.
- Quan sát phải luôn gắn với việc tìm ý và tìm từ ngữ để diễn tả.
- Lập bảng quan sát và yêu cầu các em ghi kết quả quan sát vào bảng.
Một số ví dụ:

5


- Hướng dẫn học sinh quan sát và hoàn thành bảng quan sát khi tả dòng

sông quê hương:
Mắt thấy (Thị giác) -

Sông rộng mênh mông, trải dài…
Thuyền bè đi lại trên sông tấp nập…
Sóng nhấp nhô…
Bờ bên phải: bãi ngô xanh biêng biếc…
Bờ bên trái: Bãi cát trải dài, trắng xoá…
Mặt trời, mặt trăng soi bóng xuống mặt nước…
Mặt sông loang loáng, lấp lánh…
Tai nghe Sóng vỗ rì rào, soàn soạt…
( Thính giác) Bãi ngô bên bờ rì rầm, xào xạc…
Tiếng hát của ngư dân trong đêm trên sông…
Mũi ngửi Mùi tanh tanh của thuyền no bụng cá…
( Khứu giác) …
Da( Xúc giác)
Nước mát rượi…
- Hướng dẫn học sinh hoàn thành bảng quan sát dòng sông theo trình tự
thời gian:
- Sông hiền hoà chảy, uốn lượn như dải lụa.
- Sóng rì rào ca hát
Sáng
- Trên mặt sông, thuyền chở người, chở hàng...đi lại như mắc cửi.
- Bến sông nhộn nhịp tiếng cười nói.
Mặt trời chiếu tia nắng chói chang làm sông đỏ ngầu giận dữ,
Trưa
cuồn cuộn chảy về xuôi.
- Mặt nước gợn sóng, những con sóng nhẹ nhàng xô vào hai bên
bờ.
Chiều

- Lũ trẻ tắm sông tha hồ lặn ngụp.
- Làn nước mát rượi ôm ấp lũ trẻ.
- Đoàn thuyền no bụng cá nối đuôi nhau cập bến.
- Trăng lên, ánh trăng toả xuống mặt sông.
- Mặt sông như trải rộng mênh mông, bàng bạc một màu.
- Ánh đèn hai bên bờ tạo thành vệt sáng lung linh.
Tối
- Tiếng gõ lanh canh của thuyền đánh cá đêm, tiếng hát của ngư
dân làm dòng sông thêm đẹp, thêm sinh động.
- Khi dạy cho học sinh tả cánh đồng quê em, giáo viên yêu cầu học sinh tự
quan sát cánh đồng làng mình hoặc tổ chức cho học sinh đi tham quan thực tế
theo hình thức ngoại khoá để các em tận mắt quan sát cánh đồng, cây lúa, ngô,
con trâu, con người có những đặc điểm, hoạt động gì ?

6


Cánh đồng lúa làng Tri Thiện xã Nga Thiện
- Những cảnh định tả mà nơi ở của học sinh không có, các em không thể
quan sát trực tiếp được, giáo viên sưu tầm một số tranh ảnh cho học sinh quan
sát để giúp các em có vốn kiến thức thực tế hơn. VD: Để tả cảnh dòng sông quê
em, giáo viên cho học sinh quan sát tranh, ảnh dòng sông và dùng câu hỏi khai
thác. ( Sông chảy thẳng hay quanh co, uốn lượn ? Lòng sông rộng hay hẹp ?
Nước sông nhiều hay ít ? Màu sắc của nước sông như thế nào ? Trên mặt sông
có những hình ảnh gì nổi bật ? Cảnh hai bên bờ sông có gì làm em thích
thú ?...........)

Sông Hoạt - Huyện Nga Sơn
7



Với cách dạy cho học sinh quan sát tranh, tôi nhận thấy bài văn của học
sinh có nhiều hình ảnh phong phú, cách nhìn cảnh vật tinh tế hơn. Do đó khả
năng sản sinh văn bản cũng tốt hơn.
b. Lựa chọn hình ảnh tiêu biểu và nội dung để tả.
Để lựa chọn hình ảnh tiêu biểu và nội dung để tả trong bài văn, GV hướng
dẫn học sinh:
- Căn cứ vào hình ảnh lựa chọn khi quan sát.
- Căn cứ vào nội dung ghi chép được.
- Chọn lựa những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp
và khác biệt của đối tượng để miêu tả.
Lựa chọn hình ảnh, hoạt động của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên
hình ảnh tổng thể về đối tượng, có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó
mật thiết với đối tượng.
3.2.2. Cung cấp vốn sống, vốn hiểu biết về cảnh:
Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy vốn hiểu biết về cảnh, về sự thay
đổi của cảnh của học sinh còn quá ít, thậm chí có sự sai lệnh. Điều này do nhiều
nguyên nhân: có thể các em chưa có cơ hội tiếp cận cảnh để quan sát, để khám
phá về cảnh, chưa có thời gian để quan sát cảnh trong một thời gian dài và vốn
hiểu biết về tự nhiên còn hạn chế.
Ví dụ:
- Học sinh không rõ sông ít nước vào mùa nào, nhiều nước vào mùa nào,
nước sông luôn ngầu đục hay có lúc đục, lúc trong, bờ có bên lở bên bồi…
- Học sinh không nắm rõ được sự thay đổi của cảnh vật theo thời gian nên
khi tả có thể tả cây phượng vào mùa xuân có tán lá xum xuê, xanh mướt, cánh
đồng lúa chín vàng vào tháng sáu, tháng bảy…
Chính vì kiến thức về cảnh không có hoặc có ít đã làm các em thiếu tự tin
trong khi viết văn miêu tả cảnh vật đó.
Do các em chưa hiểu rõ về cảnh nên chưa thể tự tin viết được một bài văn
hay. Muốn khắc phục tình trạng trên giáo viên cần làm những việc sau:

+ Tích cực yêu cầu học sinh đi quan sát thực tế các cảnh vào các thời điểm
khác nhau, ở các vị trí khác nhau.
+ Bổ sung vốn kiến thức về cảnh qua các tiết Tiếng Việt, có dữ liệu đưa ra
liên quan đến cảnh vật, qua tiết địa lý, khoa học…
+ Cho học sinh xem tổng quan về cảnh qua kênh thông tin truyền hình.
+ Thường xuyên bổ khuyết vốn sống của học sinh ở mọi nơi mọi lúc.
+ Hướng dẫn học sinh lập từ điển cá nhân về các cảnh vật được quan sát
và yêu thích.
3.3. Giải pháp 3: Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
- Để làm bài văn đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ lời văn, đẹp
về hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng... đòi hỏi học sinh
phải có vốn kiến thức về từ ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản.
- Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ
chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích
8


xây dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở
bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng
học sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý chung:
- Bài văn tả cảnh thường có 3 phần:
+ Mở bài : Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả.
+ Thân bài: Tả từng phần của cảnh (nếu tả theo trình tự không gian) hoặc
sự thay đổi của cảnh theo thời gian( nếu tả theo trình tự thời gian).
+ Kết bài : Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ về cảnh được tả.
+ Hướng dẫn học sinh áp dụng để lập dàn ý chi tiết.
Sau khi có trong tay dàn ý chung cho cho bài văn, học sinh sẽ áp dụng để
lập dàn ý chi tiết. Dàn ý này cũng chính là cái sườn sát nhất cho học sinh viết
thành bài văn cụ thể.

Ví dụ 1:
Đề bài: Tả một buổi chiều trên cánh đồng.Tôi đưa ra hệ thống câu hỏi sau:
+ Đọc kĩ đề bài xác định thể loại?
+ Trọng tâm của đề bài là gì?
Sau khi đã quan sát được, học sinh sẽ tự sắp xếp ý để lập dàn bài chi tiết cụ thể:
* Mở bài:
+ Chiều nào em cũng đi học về qua cánh đồng làng.
+ Con đường đi học của em uốn quanh làng, men theo đồng lúa .
+ Mỗi chiều đi học về, em thả hồn mình trước cánh đồng lúa ngút ngàn.
* Thân bài: Tả theo trình tự thời gian.
+ Ông mặt trời lững thững đạp xe qua ngọn tre.
+ Những tia nắng vàng nhạt dần.
+ Cánh đồng là một màu vàng.
+ Những đợt sóng lúa nhấp nhô theo làn gió.
+ Dọc 2 bên bờ sông là hàng bạch đàn cao vút, soi bóng xuống mặt nước
trong veo.
+ Đàn trâu bò mộng, đàn bò vàng mượt trên đường làng dưới hàng cây.
+ Lũ chim chiền chiện lúc bay, lúc sà xuống ruộng lúa, lúc chấp chới trên
không trung .
+ Chim cu gáy bay về từng đàn.
+ Trên bờ ruộng mấy bác nông dân đang trò chuyện, tay nâng bông lúa lên
ngắm. Gương mặt ai cũng tràn trề niềm vui, tin tưởng chờ đợi một vụ mùa bội thu.
+ Ven bờ, một chị phụ nữ đang buộc những khóm lúa cạnh bờ.
+ Xa xa, mấy bạn nhỏ đang đi học về.
* Kết bài: Trời nhá nhem tối, em về nhà trong tâm trạng vui vui, Em ước
sao khoảnh khắc hoàng hôn còn ở mãi trên cánh đồng để ai cũng nhìn thấy một
màu vàng của no ấm.
Ví dụ 2: Dàn bài tả buổi sáng trong vườn cây.
* Mở bài: Gần nhà em có khu vườn của Bác Bảy trồng nhiều loại cây ăn
trái. Sáng nay chủ nhật em ra thăm khu vườn và trò chuyện với Bác Bảy.

9


* Thân bài: Tả từng bộ phận của cảnh vật.
+ Khu vườn rộng khoảng 1 hecta.
+ Xung quanh được rào bằng dây thép quét sơn trắng nổi bật giữa màu
xanh của cây lá.
+ Nhiều loại cây được trồng theo hàng lối, quả sai, cành lá xanh mượt óng
lên dưới ánh nắng ban mai.
+ Chim chóc làm tổ trong vườn hót líu lo.
+ Vài người làm vườn đang tỉa lá, bắt sâu, vun gốc.
* Kết bài: Em rất thích vào chơi khu vườn vào những buổi sáng như thế vì
nơi đây có không khí trong lành, được Bác Bảy giải thích ích lợi từng loại cây…
3.4. Giải pháp 4: Rèn kĩ năng dựng đoạn và hoàn thiện bài văn tả cảnh:
3.4.1. Rèn kĩ năng dựng đoạn trong bài văn tả cảnh:
Dựng đoạn văn chính là cách sắp xếp các lời văn diễn đạt sao cho hợp lý,
logic, chặt chẽ, mạch lạc. Học sinh thường rất lúng túng không biết tả cảnh cụ
thể là tả cảnh gì? Tả như thế nào? Theo trình tự từ đâu? ... Các em thường kể lể
liệt kê cảnh một cách lộn xộn, tràn lan, không tạo được ấn tượng cho người đọc
về cảnh. Trong đoạn văn của các em có thể đủ ý theo nội dung đã quan sát
nhưng các em chưa biết cách sắp xếp sao cho đoạn văn có lôgic về nội dung,
chưa có các từ nối để liên kết các câu với nhau. Vậy chúng ta phải làm như thế
nào để khắc phục tình trạng này. Trước hết, tôi hướng cho học sinh hình dung
mỗi một cảnh nhỏ sẽ viết thành một đoạn văn trọn vẹn. Trong đoạn văn đó sẽ đi
từ khái quát đến cụ thể. Bao giờ câu đầu đoạn cũng là câu miêu tả khái quát
cảnh đó.
Sau câu tả khái quát là một loạt câu miêu tả cụ thể theo trình tự từ gần đến
xa ( hoặc ngược lại) theo tầm mắt. Trong quá trình miêu tả, cần lưu ý cho học
sinh trình tự miêu tả cho phù hợp với vị trí quan sát kết hợp lời văn so sánh, lời
văn nhận xét, đánh giá và sự tưởng tượng phong phú, ý câu trước với câu sau

lôgic với nhau tạo độ kết về mặt nghĩa. Những câu ở cuối đoạn thường là những
câu có ý nghĩa sâu sắc, làm đậm nét cho bức tranh thiên nhiên nên hướng cho
học sinh biết dành những lời văn trội hơn vào cuối đoạn.
Ví dụ về cách dựng đoạn:
Cách dựng đoạn của học sinh
Cách dựng đoạn theo gợi ý của thầy
Ngôi trường của em rất đẹp.
Bước chân đến cổng trường, trước
Chúng em có một khoảng sân mắt em là tấm biển Trường Tiểu học Nga
rộng để vui đùa, có cả ghế đá của Lĩnh bằng chữ màu xanh trên nền trắng
những thầy cô và các anh chị đi trang trọng. Vào bên trong, các dãy
trước tặng lại nhà trường để ngồi phòng học cánh cửa vẫn còn đóng im.
nghỉ ngơi trong giờ giải lao. Bên trên, một màn sương lờ mờ như trùm
Những hàng xà cừ, bằng lăng, lên cảnh vật. Xung quanh là những cây
bàng, phượng vĩ đã đứng đó mấy cảnh, dáng vẻ như e thẹn, lá vẫn còn đẫm
chục năm rồi, cùng chia sẻ buồn sương đêm. Mỗi cây có một dáng vẻ
vui với bao thế hệ học trò. Những riêng, cây nào cũng đẹp. Dưới bàn tay
cây phượng cành khẳng khiu như chăm sóc, sắp đặt của các thầy cô, hình
10


hàng trăm cánh tay vươn ra giữa như mỗi cây có một nét đẹp riêng. Lôi
trời xanh.
cuốn nhất là cây sanh, gốc to, từng túm lá
xòe ra trông rất ngộ nghĩnh.
3.4.2. Hướng dẫn xây dựng mở bài, thân bài, kết bài trong bài văn tả
cảnh:
a. Xây dựng phần mở bài:
Chương trình dạy tập làm văn lớp 5 có hướng dẫn học sinh mở bài khi
miêu tả cảnh như: Mở bài gián tiếp và trực tiếp. Tuy nhiên học sinh mới hiểu

phần lí thuyết mà chưa biết cách làm thế nào cho hay cho sinh động và ở hai
kiểu mở bài đó có những cách mở bài nào. Đây chính là nguyên nhân khiến cho
các em vô cùng lúng túng và mất nhiều thời gian để suy nghĩ trong khi đã sẵn
sàng viết phần thân bài.
Mở bài là phần đầu tiên, vị trí của nó bao giờ cũng nằm ở phần đầu bài, là
phần trước nhất đến với người đọc, gây cho người đọc cảm giác, ấn tượng về bài
viết, tạo ra âm hưởng chung cho toàn bài. Phần này có vai trò và tầm quan trọng
khá đặc biết vì một mở bài gọn gàng, hấp dẫn sẽ tạo được hứng thú cho người
đọc và báo hiệu một nội dung tốt.
Để học sinh làm tốt phần mở bài giáo viên cần cho học sinh hiểu thế nào
là mở bài trực tiếp, gián tiếp, ưu nhược điểm của từng loại.
* Mở bài trực tiếp: Là giới thiệu ngay với người đọc cảnh mà mình sẽ
miêu tả.
- Ưu điểm: Cách trình bày nhanh gọn, tự nhiên, giản dị, dễ tiếp nhận và
thích hợp với bài viết ngắn.
- Nhược điểm: Nếu mở bài không khéo sẽ gây cảm giác khô khan, ít hấp
dẫn.
Với kiểu mở bài này giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách vào bài
trực tiếp như sau:
+ Mở bài bằng một câu cảm nhận xét, đánh giá về cảnh.
Ví dụ : Ôi, dòng sông Hồng mới đẹp làm sao !
+ Mở bài bằng cách nêu cảnh miêu tả và vị trí, thời gian quan sát cảnh.
Ví dụ: Chiều qua, em cùng các bạn ra bờ sông Hồng chơi. Cảnh ở đó rất đẹp.
* Mở bài gián tiếp: là nói chuyện khác có liên quan rồi dẫn vào giới thiệu
đối tượng mình định tả. Có một số cách mở bài gián tiếp như:
- Mở bài bằng một âm thanh.
- Một cách so sánh .
- Một lời đối thoại.
- Trích dẫn câu văn, câu thơ câu hát… về đối tượng.
Giáo viên cần khuyến khích học sinh mở bài theo cách gián tiếp. Vì mở

bài gián tiếp sẽ làm cho bài văn thêm sinh động, gợi cảm hấp dẫn gây hứng thú
cho người đọc. Tuy vậy nếu mở bài không khéo sẽ lan man, vòng vèo, làm phân
tán sự chú ý của người đọc. Tuỳ theo từng đối tượng mà ta lựa chọn cách mở
bài gián tiếp cho phù hợp.

11


Cách mở bài gián tiếp

Ví dụ
Quê hương em có rất nhiều cảnh đẹp. Cánh đồng
lúa chín vàng thẳng cánh cò bay, triền đê xanh mượt
cỏ với những buổi chiều hè đá bóng thả diều. Nhưng
cảnh đẹp nên thơ và là niềm tự hào nhất của người
Bằng hình ảnh so sánh
dân quê em chính là dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa
quanh năm hiền hoà chảy.
“Bộp…bộp…” Tiếng mưa nặng nề rơi xuống mái
Bằng một âm thanh
tôn làm mọi người hoảng hốt nhận ra trời đã mưa.
- Mai ơi, cậu thích nhất cảnh nào ở quê mình?
- Quê mình có rất nhiều cảnh đẹp nhưng mình thích
nhất được ngắm cảnh dòng sông Hồng.
Bằng lời đối thoại
- Vì sao thế?
- Vì mình thấy đó là một cảnh sông nước rất đẹp và
nên thơ.
“Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi bóng những hàng tre

Trích dẫn câu văn, câu
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
thơ, câu hát …về đối
Toả nắng xuống dòng sông lấp loáng...”
tượng
Mỗi khi đọc những câu thơ trên, em không khỏi
bồi hồi khi nghĩ về dòng sông Hồng yêu dấu của quê
hương, nơi giữ biết bao kỉ niện đẹp đẽ thời thơ ấu.
Mỗi một đề văn giáo viên cần khéo léo đặt các câu hỏi để học sinh suy
nghĩ và tìm ra cách mở bài hay nhất độc đáo nhất.
b. Xây dựng phần thân bài:
- Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết theo
từng phần, từng ý đã sắp xếp khi quan sát, khi chuẩn bị bài. Trong đó, thể hiện
được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ thuật mà
người viết vận dụng để tả.
- Giáo viên cần hướng dẫn học sinh:
+ Bám sát dàn bài chi tiết.
+ Dùng từ gợi tả, gợi cảm và các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa.
+ Dùng từ đặt câu có liên kết và các biện pháp tu từ về câu.
+ Đoạn văn trình bày đúng cách có liên kết đoạn.
+ Sử dụng đúng các dấu câu.
Để học sinh làm tốt phần thân bài, giáo viên cần hướng dẫn học sinh viết
theo một trình tự nhất định đã được chọn khi lập dàn bài.
c. Xây dựng phần kết bài:
Nếu như mở bài như một lời thân ái mời chào của chúng ta đối với khách
tới thăm nhà thì kết bài là lời tạm biệt đầy tình cảm mến yêu, nó khép lại trước
mắt người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà các em đã
miêu tả, nó kết lại những ý lớn ở phần thân bài. Vì thế khi viết phần kết bài, giáo
viên cần hướng dẫn học sinh viết làm sao cho thật cô đọng, ngắn gọn, tránh hành
12



văn cộc lốc, công thức hoặc khuôn sáo. Giáo viên hướng dẫn học sinh hai kiểu
kết bài mở rộng và không mở rộng. Với mỗi cách kết bài đều có những cách
diễn đạt khác nhau.
* Kết bài không mở rộng thường được đóng ý một cách gọn đủ các ý:
- Nhận xét, đánh giá về cảnh.
- Tình cảm đối với cảnh.
- Hành động: Chăm sóc, bảo vệ,...
Các ý trên có thể được sắp xếp ở các vị trí khác nhau để cho các kết bài
khác nhau.
Ví dụ: Khi kết bài văn tả khu vườn vào buổi sáng học sinh nêu được các ý:
1. Nhận xét, đánh giá: Khu vườn thật đẹp.
2. Tình cảm: Yêu quý và luôn cảm thấy thích thú khi ngắm.
3. Hành động: Chăm sóc, bảo vệ cây cối.
Với 3 ý trên học sinh có thể viết được các kiểu kết bài.
Ví dụ:
- Kiểu 1: Khu vườn thật đẹp. Được ngắm nhìn nó em thấy rất thích thú và
thoải mái. Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
- Kiểu 2: Được ngắm nhìn khu vườn em rất thích thú trước vẻ đẹp của nó.
Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
- Kiểu 3: Chăm sóc và bảo vệ cây cối ở đây để khu vườn ngày thêm đẹp là
niềm vui của em.
* Kết bài mở rộng: Khi viết kết bài mở rộng học sinh vẫn đưa 3 ý suy nghĩ,
tình cảm, hành động như mở bài không mở rộng nhưng diễn đạt mở rộng bằng
cách:
- Nêu ra câu hỏi. Nêu một ý mới lạ.
- Đưa ra một lời bình.
Từ việc phân tích một số mẫu kết bài trên học sinh sẽ luyện tập viết kết
bài theo một trong các cách kể trên.

Ví dụ: Đề bài Tả khu vườn vào buổi sáng.
Học sinh có thể viết kết bài mở rộng như sau:
Bạn thấy khu vườn nhà mình thế nào ? Rất tuyệt vời
phải không ? Sáng nào cũng vậy, cứ ra ngắm khu vườn
mình lại tìm thấy một cảm giác thật dễ chịu, sảng khoái.
Nêu câu hỏi
Mình sẽ chăm sóc cho khu vườn ngày thêm đẹp, cho cây
cối quanh năm tươi tốt, tràn trề sức sống.
Bản hoà tấu có tiếng chim ca hát, có tiếng lá xào xạc,
tiếng cựa mình của cây cùng với cảnh vui chơi nhảy nhót
của nắng của gió, của ong bướm đã làm khu vườn thật đẹp,
Nêu một ý tưởng thật lộng lẫy, không gian thật khoáng đạt, trong lành. Yêu
biết mấy khu vườn nhà em.
Khu vườn không rộng, không lộng lẫy những sắc màu
Đưa ra một lời của các loài hoa nhưng khi đứng mgắm nhìn nó, em luôn
bình
có một cảm giác thật dễ chịu và thoải mái. Ngày qua ngày,
13


nó cứ bình yên hiền lành sống vui bên nắng gió, bên gió
bên tiếng chim ca hát. Yêu biết mấy khu vườn nhà em !
Tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài nhưng kết bài rất quan trọng bởi đoạn kết
bài thể hiện được rất nhiều tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực
tế cho thấy, học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình làm phần kết luận khô
cứng, gò bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết bài không mở
rộng. Kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc. Vì
vậy giáo viên cần phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài mở rộng
bằng cảm xúc tự nhiên của mình.
3.4.3. Giúp học sinh hoàn thiện bài văn tả cảnh:

Đây là bước quan trọng, cần thiết để có được một bài làm văn tốt nhất. Để
bài văn đạt hiệu quả cao, lời nhắc nhở dặn dò của giáo viên trước lúc viết cũng
rất quan trọng. Ngoài việc thực hiện theo đúng các bước trong tiết viết bài, trong
mỗi tiết viết tôi còn chú ý dặn thêm:
- Liên kết phần mở bài, thân bài, kết bài để tạo thành bài văn hoàn chỉnh.
- Cần lựa chọn, sử dụng đúng và hay các từ ghép, từ láy, từ tượng thanh, từ
tượng hình...nhằm gợi tả rõ không khí của cảnh.
- Chú ý dùng cách so sánh, nhân hoá, làm nổi bật cảnh chính..
- Khi làm bài vào vở, học sinh chú ý cách trình bày, chữ viết, lỗi chính tả.
Đó là những yếu tố giúp học sinh thành công trong quá trình học làm văn..
3.5. Giải pháp 5: Xây dựng một số bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ
ngữ và các biện pháp nghệ thuật tu từ:
Trong thời gian học sinh học về tả cảnh thì giáo viên có thể xây dựng các
bài tập bổ trợ về cách dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn nói về cảnh. Các bài tập
này có thể làm vào các tiết luyện tiếng việt buổi 2 hoặc lồng ghép trong các tiết
thuộc phân môn Tiếng Việt.
* Một số lưu ý khi xây dựng bài tập bổ trợ:
- Bài tập đưa ra phải có dữ liệu đảm bảo tính chính xác về cấu tạo ngữ
pháp, tính nghệ thuật trong ngôn từ và cú pháp.
- Bài tập phải phát huy được sự sáng tạo của học sinh.
Bài tập có nhiều hướng giải quyết khác nhau tạo sự phong phú trong suy
nghĩ của học sinh.
3.5.1. Bài tập bổ trợ rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ:
* Mục đích:
- Qua bài tập, học sinh nhận thấy tác dụng của việc sử dụng các từ ngữ gợi
tả, gợi cảm.
- Học sinh biết cách chọn từ và sử dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm phù
hợp với văn cảnh.
* Một số kiểu bài tập:
Bài 1: Tìm các từ ghép, từ láy chỉ về:

a. Độ rộng.
b. Độ cao.
c. Độ sáng.
14


d. Màu sắc của cây cối.
Bài 2: Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống để câu văn diễn tả cụ thể,
sinh động:
a. Trên vòm cây, bầy chim hót….
b. Đàn cò bay…trên cánh đồng rộng…
c. Ngọn núi cao…nổi bật giữa bầu trời xanh...
d. Những tàu lá chuối …. trong gió.
Bài 3: Thay các từ in nghiêng dưới đây bằng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm.
a. Vầng trăng tròn quá, ánh trăng trong xanh tỏa khắp khu rừng.
b. Gió bắt đầu thổi mạnh, lá cây rơi nhiều, từng đàn cò bay nhanh theo
mây.
c. Tiếng sấm sét vang lên kèm theo ánh chớp sáng ngang bầu trời.
3.5.2. Bài tập rèn kĩ năng viết câu có hình ảnh:
* Mục đích : Rèn kĩ năng sử dụng câu tả, sử dụng các biện pháp tu từ
trong viết văn để tạo ra những câu văn có hình ảnh sinh động
* Một số kiểu bài tập.
Bài 1: Mở rộng thành phần câu để được câu văn có hình ảnh hơn.
a. Lá rơi.
b. Biển đẹp.
c. Cánh đồng lúa rất rộng.
d. Mặt trời mọc.
Bài 2: Chuyển các câu kể sau thành câu tả có sử dụng biện pháp nhân hoá
hoặc so sánh.
- Những bông hoa nở trong nắng sớm.

- Mấy con chim đang hót ríu rít trên vòm cây.
- Mặt trời mọc từ phía đông, chiếu những tia nắng xuống cánh đồng lúa
xanh rờn.
3.5.3. Dạng bài tập cảm thụ cái hay, cái đẹp trong việc dùng từ và
biện pháp tu từ trong một số đoạn văn, đoạn thơ hay:
* Tác dụng: Đây là dạng bài tập cảm thụ văn học, dạng bài tập này giúp
học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong các văn bản từ đó có kĩ năng
dùng từ, viết câu và khả năng thể hiện những tình cảm, những xúc cảm của mình
khi viết văn.
* Ví dụ:
Bài 1: Trong cuốn Hồi kí Bác Hồ, hai nhà văn Hoài Thanh và Thanh Tịnh
đã tả phong cảnh Quê hương Bác như sau:
Trước mắt chúng tôi, giữa hai dãy núi là nhà Bác với cánh đồng quê Bác.
Nhìn xuống cánh đồng có đủ các màu xanh, xanh pha vàng của ruộng mía, xanh
rất mượt của lúa chiêm đương thời con gái, xanh đậm của những rặng tre.
Đọc đoạn văn trên, em có nhận xét gì về cách dùng từ ngữ chỉ màu xanh ?
Cách dùng từ ngữ như vậy đã góp phần gợi tả điều gì về cảnh vật trên quê Bác?
Bài 2:Trong bài Mặt trời xanh của tôi, nhà thơ Nguyễn Viết Bình có viết:

15


Rừng cọ ơi! Rừng cọ
Lá đẹp, lá ngời ngời
Tôi yêu thường vẫn gọi
Mặt trời xanh của tôi.
Theo em, khổ thơ trên đã bộc lộ tình cảm của tác giả đối với rừng cọ của
quê hương như thế nào?
3.6. Giải pháp 6: Giúp học sinh tích lũy vốn từ dùng cho tả cảnh, làm giàu
trí tưởng tượng của các em khi tả:

3.6.1. Tích lũy vốn từ:
- Vốn từ được tích lũy từ nhiều nguồn: trong giao tiếp hàng ngày; qua đọc
sách, báo; qua xem, nghe truyền hình, truyền thanh; trao đổi với bạn bè; thầy cô
giáo cung cấp…
- Ghi chép lại dùng để miêu tả. Ví dụ như:
+ Các từ dùng để miêu tả cây cối: xanh mướt, xanh rì, xanh mơn mởn,
xanh non, xanh lá mạ, xanh biết, xanh lục, …. rung rinh, um tùm, sum suê,
khẳng khiu, rực rỡ, mỡ màng, vàng úa, xơ xác, trơ trụi, lác đác, xào xạc, lả tả,…
+ Các từ ngữ dùng để miêu tả âm thanh: vi vu, ầm ầm, đì đùng, xoèn xoẹt,
lách cách, cót két, phành phạch, râm ran, ríu rít, rào rào, tí tách, đồm độp, …
+ Các từ dùng để tả mùi vị: thơm thoang thoảng, ngòn ngọt, chan chát,
nồng nồng, cay xè, ngai ngái, hăng hắc, dìu dịu, ngào ngạt, sực nức, ngọt mát,…
+ Cung cấp và khuyến khích học sinh tích luỹ vốn từ ngữ khi học, đọc các
bài văn, thơ về cảnh.
- Giáo viên cần phân tích, mở rộng việc dùng từ, đặt câu, việc sử dụng các
biện pháp nghệ thuật khi học các văn bản nghệ thuật, đặc biệt là tả cảnh. Số
lượng từ ngữ miêu tả ở các bài thơ, văn rất phong phú đồng thời cách sử dụng
chúng rất sáng tạo nên khi dạy tập đọc giáo viên cần chỉ ra các từ ngữ miêu tả,
cách sử dụng biện pháp tu từ, các đặt câu…trong một vài trường hợp đặc sắc để
phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng. Việc phân tích này
giúp các em tiếp cận đựơc với các văn bản nghệ thuật, tiếp cận với kĩ năng viết
văn một cách thường xuyên và có chất lượng mà lại nhẹ nhàng không áp đặt.
- Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ ngữ miêu tả nói chung và tả cảnh nói
riêng thông qua các tiết dạy: Luyện từ và câu và các tiết họat động ngoại khóa.
Những tiết luyện từ và câu giáo viên có thể cho học sinh được mở rộng vốn từ
bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa, các từ gợi tả, gợi cảm sau đó lựa chọn chép
vào sổ tay từ ngữ của mình
3.6.2. Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng:
- Tưởng tượng trong văn miêu tả nói chung; văn tả cảnh nói riêng là rất
quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh hoàn chỉnh về đối tượng miêu tả.

Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được điểm tương
đồng với đối tượng khác. Từ tưởng tượng học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng
miêu tả bằng tình cảm, tình yêu của chính mình đối với cảnh sẽ tả. Tưởng tượng
làm cho đối tượng được miêu tả hoàn thiện hơn, đẹp hơn, sống động hơn và gần
gũi với con người hơn.
16


- Tưởng tượng thế nào?
+ Không trực tiếp quan sát mà tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.
+ Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng,
những ảnh hưởng tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
+ So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng.
Đây là một trong những “bí quyết” để viết văn miêu tả nói chung, tả cảnh nói
riêng được hay hơn. Chẳng hạn, khi tả trăng ta có thể so sánh với những sự vật
như con thuyền, cánh diều, quả bóng, cái đĩa,…Tả chiếc lá bàng ta có thể so
sánh với cái quạt, chiếc bánh đa,… Hay khi tả những chùm hoa phượng ta có thể
so sánh với những đốm lửa hồng bập bùng; tả những quả bàng xanh tại sao ta lại
không so sánh với những chú rùa con bé xíu…
+ Phân tích đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
+ Ghi chép lại những gì mà mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa
vào bài viết của mình.
+ Nhân hóa hay tự nhiên hóa một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
Ví dụ: “Máy tuốt to lù lù đững giữa sân kho, kêu tành tạch. Người ta nhét
những ôm lúa vào miệng nó. Nó nhằn nhằn một thoáng rồi phì rơm ra” (tả một
ngày mùa).
3.7. Giải pháp 7: Tổ chức cho học sinh được tương tác trong tiết tập làm
văn.
3.7.1. Tổ chức tương tác giữa trò và trò:
Trong giờ tập làm văn, giáo viên cần chia nhóm phù hợp cho từng hoạt

động học, từng đơn vị kiến thức kĩ năng. Hình thành cơ cấu nhóm phải linh hoạt
phù hợp với tất cả mọi đối tượng học sinh nhằm tạo cơ hội nhiều hơn cho những
em yếu, trung bình được hoạt động. Từ đó, vừa vun đắp cho các em khả năng
thích nghi giao tiếp trong mọi hoàn cảnh, vừa bồi đắp tình yêu, lòng say mê văn
học, lòng tự hào về tiếng Việt Việt, xây dựng được lòng ham thích đọc sách báo
cho học sinh. Đặc biệt chú trọng việc tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm trong
quá trình quan sát, tìm ý và lập dàn ý để chọn ra những nét tiêu biểu của cảnh và
tả đúng theo trình tự. Tổ chức cho học sinh thảo luận để tìm ra các câu v ăn hay,
các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong những đoạn văn, bài văn hay của
các bạn hoặc trong các bài văn mẫu để học tập.
Ví dụ: Với đề văn tả cảnh buổi sáng mùa xuân, cho học sinh thảo luận
nhóm với yêu cầu sau:
Đọc đoạn văn sau và làm các yêu cầu ở dưới:
Xuân sang, xua tan đi cái không khí giá rét, ẩm thấp, thay vào là sự ấm áp
của đất trời. Ông mặt trời đã thức giấc nhưng hình như vẫn còn mơ màng trong
giấc mộng ngọt ngào, ló ra kéo chiếc đèn lửa lên cao, thắp sáng, xua đi cái nền
trời xám xịt, nặng nề cua mùa đông. Những đám mây trắng tựa bông bồng bềnh
trôi thanh thản, nhẹ nhàng như đang lướt qua một làn nước xanh, cao vút.
Những lộc non ấy bé li ti, xanh mơn mởn nhú ra, vươn mình, cựa quậy thích thú
nhìn ra thế giới bên ngoài như một đứa trẻ vừa tinh nghịch, vừa tò mò muốn
khám phá bao điều xung quanh, muốn được ngắm nhìn tất cả mọi vật. Rồi thân
17


cây mẹ sau một mùa đông kiên nhẫn, lặng thầm chắt chiu cũng bừng giấc, dang
tay vẫy chào cô tiên mùa xuân và bắt đầu cho một sự sống mới với bao hứa hẹn.
- Tìm ra các câu văn hay trong đoạn văn.
- Tìm các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn văn.
- Các biên pháp nghệ thuật đó có tác dụng gì?
- Em cùng bạn thảo luận để viết một số câu văn tương tự như các câu văn

vừa nêu.
Nhận được yêu cầu, học sinh thảo luận rất sôi nổi. Từng nhóm thi nhau nêu
các câu văn hay, các hình ảnh đẹp và nêu tác dụng của các biện pháp nghệ thuật.
Sau đó các nhóm nêu câu văn của nhóm mình. Quả thật, câu văn của các em đã
hay hơn rất nhiều, có nhiều hình ảnh gợi tả, gợi cảm. Từ đó tôi nhận thấy, tổ
chức cho học sinh được trao đổi, thảo luận để tìm cái hay, cái đẹp trong tiết Tập
làm văn thực sự có hiệu quả.
3.7.2. Tổ chức tương tác giữa thầy và trò:
Tổ chức tương tác giữa thầy và trò được thể hiện trong quá trình giảng dạy,
giáo viên dùng hệ thống câu hỏi để học sinh trả lời, nhận xét, đánh giá học sinh.
Ví dụ: Với đề văn tả cảnh cánh đồng, giáo viên tương tác với học sinh
bằng hệ thống câu hỏi sạu:
- Cánh đồng em tả ở đâu ?
- Em quan sát cánh đồng trong hoàn cảnh nào ?
- Cánh đồng đó có rộng không, chạy từ đâu tới đâu ?
- Khi bình minh lên cánh đồng đẹp như thế nào?
- Khi mặt trời lên cao, cánh đồng như thế nào? Từng thửa ruộng ra sao ?
- Có người làm việc ngoài đồng không ? Họ đang làm gì ? Có cây bóng
mát không ? Có chim chóc không ? Chúng ở đâu và đang làm gì ?
- Cảm nghĩ của em về cảnh vật và cuộc sống nơi đồng quê ?
Đặc biệt ở tiết trả bài tập làm văn, tổ chức tương tác giữa thầy và trò rất
quan trọng, giúp các em sửa chữa lỗi, rút kinh nghiệm cho bài viết lần sau và
học tập các bạn những cách viết hay để vận dụng vào các bài văn. Tuy nhiên, ở
tiết học này một số giáo viên thường làm qua loa, không chữa kĩ càng, bớt xén
thời gian để dạy môn khác. Vậy, muốn có được tiết trả bài có hiệu quả giáo viên
cần phải:
- Chấm bài cẩn thận, kĩ càng; chữa từng lỗi nhỏ của bài viết cho học sinh.
- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại nh ư: lỗi về cách dùng từ, đặt
câu; lỗi diễn đạt; lỗi chính tả;… ghi lại các từ, các câu hay, đoạn văn hay.
- Nhận xét ưu điểm, nhược điểm trong bài làm của học sinh.

- Chữa lỗi cho học sinh theo các lỗi giáo viên đã tổng hợp khi chấm bài.
- Đọc những câu văn hay, đoạn văn hay để học sinh học tập.
- Trả bài và cho học sinh tự sửa lỗi và viết lại một đoạn cho đạt yêu cầu.
3.8. Giải pháp 8:Rèn kĩ năng viết văn cho học sinh thông qua các môn học
khác:
Tất cả các môn học ở Tiểu học đều có nội dung rèn kĩ năng làm văn được
tích hợp trong nó. Để khai thác tốt và giúp học sinh vận dụng chúng một cách có
18


hiệu quả, tôi luôn xem xét môn học đó hoặc bài học đó cần rèn cho học sinh kĩ
năng nào. Từ đó giáo viên có định hướng tích hợp chúng vào bài dạy.
Ví dụ: Đối môn toán: Qua các bài tập giải toán có lời văn, chúng ta rèn
cho học sinh trí thông minh, tư duy nhanh nhẹn, khả năng tính toán. Cũng trong
môn học này, khi hướng dẫn học sinh giải bài tập, tôi rèn cho học sinh kĩ năng
đọc hiểu đề bài, phân tích đề bài, kĩ năng lập đề bài từ sơ đồ cho trước, kĩ năng
viết các câu lời giải sao cho đủ ý nhưng vẫn đúng cấu trúc cần thiết của câu.
Đối với các môn học như Lịch sử - Địa lí, Đạo đức…, qua tìm hiểu nội
dung bài học, tôi cho học sinh đọc kĩ văn bản, hiểu rõ câu từ trong đó. Khi các
em trình bài bài làm, tôi cũng thường xuyên yêu cầu cao về cấu trúc, bố cục, nội
dung. Từ đó kĩ năng viết văn của các em cũng dần được hoàn thiện.
Ví dụ như bài của em Phạm Thị Như Ý lớp 5A như sau:

Ngoài các môn học trong chương trình, trong các buổi sinh hoạt tập thể,
tôi cũng luôn chú trọng để rèn kĩ năng cho học sinh. Khi các em giao tiếp với
thầy cô thì ngôn ngữ, giọng điệu phải ra sao, giao tiếp với bạn thì thế nào. Khi
các em giao tiếp có biểu hiện lệch lạc, tôi kịp thời điều chỉnh, uốn nắn để học
sinh của mình có thói quen nói đủ câu, nói có sắc thái biểu cảm. Qua đó tôi cũng
rèn được phần nào kĩ năng viết văn cho học sinh.
* Kết luận: Tích hợp rèn kĩ năng làm văn cho học sinh trong các môn học

ở trường Tiểu học là vấn đề cốt yếu. Để rèn cho học sinh có hiệu quả, tôi luôn
coi trọng vấn đề lập kế hoạch bài học. Kế hoạch nhất thiết phải có nội dung tích
hợp nếu như bài đó có thể thể lồng ghép được. Qua nhiều lần thực hiện, tôi đã
hình thành cho học sinh thói quen rèn kĩ năng sản sinh văn bản sau mỗi tiết học.
Từ đó giúp học sinh có đủ điều kiện về ngôn ngữ để tham gia tốt việc học tập
nói chung và học văn nói riêng.
19


4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân và đồng nghiệp:
Trong quá trình nghiên cứu, áp dụng những kinh nghiệm vào việc dạy học
văn tả cảnh, tôi đã tiến hành một số giờ dạy ở lớp 5A đồng thời ra đề kiểm tra:
Tả cánh đồng lúa quê em vào buổi sáng (tuần 31) và tôi đã thu được kết quả rất
khả quan:
Điểm 9- 10
Điểm 7- 8
Điểm 5- 6
Điểm dưới 5
Sĩ số
Học sinh
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
34 em

12
35,3
13
38,2
9
26,5
0
0
Sau một thời gian suy nghĩ và áp dụng những biện pháp trên, tôi nhận thấy
các em có rất nhiều tiến bộ. Từ việc ngại viết văn các em đã hứng thú làm văn,
biết làm một bài văn miêu tả cảnh theo trình tự các bước một cách độc lập và
thành thói quen tốt. Nhiều bài văn có chất lượng cao. Tình trạng học sinh làm
lạc đề, sai lỗi về chính tả, dùng từ đặt câu...đã giảm rõ rệt. Nhiều học sinh biết
cách sử dụng những biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa vào bài của mình làm cho
bài văn trở nên sinh động và giàu hình ảnh. Bên cạnh đó các em còn biết làm
văn có cảm xúc hơn, câu văn trau chuốt hơn... Tóm lại, chất lượng môn Tập làm
văn nói chung và kiểu bài văn tả cảnh nói riêng đã được nâng lên rõ rệt.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Dạy Tập làm văn, người dạy phải gửi cả tâm hồn mình vào trong bài dạy,
giáo viên và học sinh cùng đắm mình vào đối tượng miêu tả theo một dòng cảm
xúc, cùng hòa chung tình cảm để cùng tìm hiểu và cùng cảm nhận đối tượng với
niềm say mê, thích thú. Để giúp học sinh lớp 5 làm được bài văn tả cảnh sinh
động, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu soạn
giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Khi học
sinh đã hiểu rõ đặc điểm của văn tả cảnh, biết quan sát đối tượng, tích lũy được
vốn từ miêu tả, biết xây dựng bố cục bài văn, cách diễn đạt, biết tưởng tượng và
sử dụng biện pháp nghệ thuật trong viết văn, được sửa lỗi kĩ càng trong tiết trả
bài thì viết văn tả cảnh trở nên dễ dàng hơn; học sinh hứng thú học hơn rất
nhiều, chất lượng bài viết của học sinh được nâng cao.

2. Kiến nghị:
Cần trang bị thêm đồ dùng học tập đặc biệt là các tranh khổ to, băng đĩa
quay các cảnh. Tổ chức cho học sinh thăm quan, dã ngoại để học sinh có thêm
nhiều hiểu biết về cảnh. Điều đó sẽ rất tốt cho các em khi viết văn.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của tôi viết
không lấy nội dung của người khác.
Người viết

20


Mai Thị Duyến

Mai Thị Thuỷ
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tuyển tập 150 bài văn hay lớp 5. Tác giả: Thái Quang Vinh, Trần Đức
Niềm, Trần Lê Thảo Linh, Lê Thị Nguyên
2. Những bài văn chọn lọc 5. Tác giả: Phạm Thị Phương Lan
3. Luyện tập làm 5. Tác giả: Đặng Mạnh Thường
4. Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 5. Tác giả: Trần Mạnh Hưởng, Lê
Hữu Tỉnh

21



DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD & ĐT, CẤP SỞ GD & ĐT VÀ
CÁC CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên: Mai Thị Thủy
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Nga Thiện - Nga Sơn.
Kết quả
Năm học
đánh giá
đánh giá
Cấp đánh giá xếp loại
xếp loại.
STT
Tên đề tài SKK
xếp
( A, B
loại( Phòng,
hoặcC)
Sở, Tỉnh…)
1 Rèn kỹ năng giải các bài toán Phòng GDLoại C
2008- 2009
điển hình có lời văn bằng sơ
ĐT Nga Sơn
đồ đoạn thẳng cho học sinh
lớp 4
2 Kinh nghiệm hướng dẫn HS
Phòng GDLoại B
2009 - 2010
lớp 4 giải toán Tìm 2 số khi
ĐT Nga Sơn

biết tổng và tỷ số bằng sơ đồ
đoạn thẳng
3 Một số biện pháp giải toán
Phòng GDLoại B
2010 - 2011
chuyển động đều cho HS lớp ĐT Nga Sơn
5.
4 Rèn kỹ năng chuyển đổi đơn
Phòng GDLoại B
2011 - 2012
vị đo lường cho HS lớp 5.
ĐT Nga Sơn
5 Rèn kỹ năng viết đoạn văn
Phòng GDLoại B
2012 - 2013
cho học sinh lớp 4.
ĐT Nga Sơn
6 Một số biện pháp phụ đạo học Phòng GDLoại B
2013 - 2014
sinh yếu môn Toán ở lớp 4.
ĐT Nga Sơn
7 Rèn kỹ năng giải các bài toán Phòng GDLoại B
2014 - 2015
bằng sơ đồ đoạn thẳng cho
ĐT Nga Sơn
học sinh lớp 4
8 Kinh nghiệm giúp HS lớp 4
Phòng GDLoại B
2015 - 2016
học tốt các yếu tố hình học ở

ĐT Nga Sơn
trường Tiểu học Nga Thiện.

22



×