Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1a trường tiểu học hải long học tốt giải toán có lời văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Ở Tiểu học, phần lớn thời gian của học sinh dành cho việc học bốn phép
tính (toán số) và giải toán có lời văn (toán đố), trong đó việc học bốn phép tính
thường không khó với đại đa số học sinh còn việc học giải toán (có lời văn) lại
không dễ đối với hầu hết các em. Vì sao vậy? Đó là vì trong các bài toán có lời
văn, bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia không hiện ra một cách rõ ràng, mà
chúng ẩn náu đằng sau các câu chữ mô tả những tình huống trong đời sống, sinh
hoạt, lao động và học tập thường ngày. Nếu không biết phương pháp suy nghĩ,
tìm hiểu,…thì không thể phát hiện ra cách giải. Do đó đa số học sinh Tiểu học
thường sợ các bài toán đố (toán có lời văn), nhất là các em tiếp thu bài chậm.
Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức được học xuyên suốt
từ lớp 1 đến lớp 5 ở bậc Tiểu học. Đây là mạch kiến thức khó, đòi hỏi khả năng
phân tích, tổng hợp của học sinh khi học tập. Muốn học sinh học tốt được mạch
kiến thức này thì ngay từ lớp 1 các em phải học tốt giải toán có lời văn.
Với học sinh lớp 1, khi tiếp cận với giải toán có lời văn ở thời điểm này
đa số học sinh đọc bài toán chưa thạo, chưa hiểu rõ được nội dung bài toán, chưa
biết xác định yêu cầu của bài toán: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?, chưa
nắm vững cách trình bày bài toán. Vậy làm thế nào để học sinh học lớp 1 học tốt
mạch kiến thức này? Đó là câu hỏi mà mỗi giáo viên dạy lớp 1 phải trăn trở tìm
câu trả lời, trong đó có bản thân tôi.
Trong nhiều năm dạy học lớp 1, tôi đã có cho mình một số biện pháp giúp
học sinh lớp 1 có kĩ năng giải toán có lời văn. Vì vậy, tôi xin được chia sẻ cùng
đồng nghiệp: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 1A Trường Tiểu học Hải
Long học tốt giải toán có lời văn”. Đây là đề tài đã được tôi áp dụng thành
công trong nhiều năm qua.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Xây dựng và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này nhằm mục đích để việc dạy
và học đạt chất lượng tốt nhất, góp phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy
học môn toán lớp 1, giúp các em có được nền tảng giải toán có lời văn vững
chắc để tự tin khi lên lớp trên. Cụ thể giúp các em nắm vững những vấn đề sau:


- Nhận biết được cấu tạo của một bài toán có lời văn ở lớp 1.
- Các bước cần thiết khi giải toán có lời văn: Đọc đề - Hiểu đề - Tóm tắt - Trình
bày bài giải.
- Giải bài toán đơn thêm ( bớt) bằng một phép tính cộng hoặc trừ.
- Trình bày đúng cấu trúc của một bài giải: Câu lời giải - phép tính - đáp số.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Từ cơ sở lí luận và thực trạng của việc dạy giải toán có lời văn tôi đã nghiên
cứu và đưa ra các biện pháp thiết thực và hiệu quả giúp học sinh lớp 1 học tốt
giải toán có lời văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
a. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
b. Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập thông tin.
c. Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.

1


2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Toán học có vị trí rất quan trọng đối với mỗi học sinh, nó phù hợp với
cuộc sống thực tiễn và cũng là công cụ cần thiết cho các môn học khác, giúp học
sinh nhận thức thế giới xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn.
Khả năng giáo dục nhiều mặt của môn toán rất to lớn, nó có khả năng phát
triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ. Nó có vai trò to lớn trong việc rèn luyện
phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề có
suy luận, có khoa học toàn diện, chính xác, có nhiều tác dụng phát triển trí thông
minh, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt..., góp phần giáo dục đức tính nhẫn nại,
vượt khó của học sinh.
Việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau:
+ Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung đều

được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh củng cố,
vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua việc giải
toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu điểm, thiếu
sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các em phát huy hoặc
khắc phục.
+ Việc kết hợp học và hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực hiện
thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống một
cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng thực hành
cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng những kỹ năng đó
trong cuộc sống.
+ Việc giải toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh
những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, thế giới quan
duy vật biện chứng: việc giải toán với những đề tài thích hợp, có thể giới thiệu
cho các em những thành tựu trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta và các
nước anh em, trong công cuộc bảo vệ hoà bình của nhân dân thế giới, góp phần
giáo dục các em ý thức bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch ... Việc
giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví dụ: Các số,
các phép tính, các đại lượng ... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực,
trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện chứng
giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm ...
+ Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh năng
lực tư duy và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài
toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân
biệt cái gì đã cho và cái gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện,
giữa cái đã cho và cái phải tìm; suy luận, nêu lên những phán đoán, rút ra những
kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra ... Hoạt
động trí tuệ có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý trí vượt khó
khăn, đức tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn
cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc
sáng tạo ...


2


Nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý học sinh tiểu học nói chung và học
sinh lớp 1 nói riêng là dễ nhớ nhưng mau quên, sự tập trung chú ý trong giờ học
toán chưa cao, trí nhớ chưa bền vững, thích học nhưng chóng chán. Vì vậy, giáo
viên phải khắc sâu kiến thức cho học sinh, tạo ra không khí sẵn sàng học tập và
chủ động tích cực trong việc tiếp thu kiến thức. Ở lớp 1 các em được làm quen
với giải toán có lời văn nhưng ở dạng đơn giản. Tuy nhiên việc học tốt giải toán
có lời văn ở học sinh lớp 1 lại là nền tảng, tiền đề để các em tiếp tục học tốt
dạng toán này ở lớp trên.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng
Trường Tiểu học Hải Long nằm ngay trung tâm xã Hải Long và gần trung
tâm huyện Như Thanh, giao thông đi lại thuận tiện. Cơ sở vật chất nhà trường
tương đối đầy đủ đáp ứng cho nhu cầu dạy và học.

Sân khấu trường Tiểu học Hải Long
Trường có đội ngũ giáo viên vững tay nghề, nhiệt tình, yêu nghề, luôn có
ý thức tự học, tự nâng cao trình độ chuyên môn. Ban giám hiệu nhà trường rất
quan tâm đến tập thể giáo viên và học sinh, tạo mọi điều kiện để giáo viên và
học sinh hoàn thành tốt nhiệm vụ năm học. Học sinh được học 2 buổi/ ngày, các
em học sinh chăm ngoan, có nhiều cố gắng trong học tập và tu dưỡng đạo đức.
Phần lớn phụ huynh học sinh rất quan tâm đến việc học tập của con em mình.
Lớp 1 là nơi các em bắt đầu được làm quen với việc học chữ, học số, hầu
hết cô và trò cùng phụ huynh của các em đều phấn khởi, tuy còn nhiều bỡ ngỡ
và khó khăn bởi học sinh còn rụt rè, phụ huynh còn ngại ngùng, cô giáo chưa
mạnh dạn đưa phụ huynh của các em hòa chung vào công tác dạy học.
Đa số học sinh là con gia đình làm nghề nông nghiệp, kinh tế gia đình còn

gặp nhiều khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa nên học sinh phải ở với ông bà, cô bác.

3


Sách vở được mua đầy đủ nhưng các em chưa biết giữ gìn, bảo quản. Học sinh
đi học còn thiếu đồ dùng học tập, quần áo, điều kiện học tập ở nhà không đảm
bảo, việc học tập còn nhiều bỡ ngỡ.
Bản thân là một giáo viên có nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 1, cộng
với sự trao đổi kinh nghiệm của nhiều giáo viên cùng khối tôi thấy rằng hầu như
các giáo viên đều phàn nàn khi dạy đến phần giải toán có lời văn lớp 1. Giáo
viên mất rất nhiều thời gian khi dạy đến phần này. Học sinh thường mắc vào
những lỗi như sau:
- Đa số các em rất lúng túng khi quan sát tranh viết phép tính.
- Khi đọc đề không biết bài toán hỏi gì? Cho biết gì?
- Chưa nêu được lời giải của bài toán hoặc nêu sai câu lời giải.
-Viết sai phép tính, sai đơn vị hoặc thiếu đơn vị, viết sai đáp số.
- Nhiều học sinh không biết tóm tắt bài toán hoặc tóm tắt không đúng.
- Cách trình bày bài giải chưa đẹp, chưa khoa học.
- Các em hoàn thành, hoàn thành tốt làm bài còn rập khuôn.
Năm học 2017-2018, tôi trực tiếp giảng dạy lớp 1A, lớp có 34 học sinh,
trong đó có 14 học sinh nữ và 20 học sinh nam. Các em sống rải rác ở các thôn
trong xã. Hầu hết các em đều ngoan, lễ phép, đoàn kết.

Các em học sinh lớp 1A trong giờ học toán
Nhìn chung các em có ý thức học tập cao, có tinh thần xây dựng tập thể,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Các em được cấp sách vở đầy đủ, được mang về nhà
phục vụ cho việc học tập, người thân các em tương đối quan tâm, thường xuyên
trao đổi với giáo viên. Tuy nhiên vẫn gặp một số hạn chế như các em tiếp thu
chậm, chưa sáng tạo trong cách học, việc đọc đề và tìm hiểu đề còn nhiều khó

khăn do kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, các em chưa biết bảo quản
sách vở, đồ dùng học tập, chưa thật sự tự tin khi tham gia các hoạt động chung

4


của lớp, một số phụ huynh chưa thật sự sát sao với việc học tập của con em
mình.
Trước thực trạng chung đó tôi đã tiến hành khảo sát môn toán dạng: “Giải
toán có lời văn” giữa HKI năm học 2017-2018 ở lớp 1A.
ĐỀ KHẢO SÁT
Bài 1: Số? (2 điểm)

-

=

Bài 2: ( 2 điểm) Nối hình vẽ với phép tính thích hợp

53

4

- 2 = 2

5

5

- 2 = 3 2


Bài 3: Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng ( 2 điểm)
Phép tính thích hợp là:

5


?

A. 5 – 2 = 3

B. 5 + 0 = 5

C. 5 – 3 = 2

D. 3 + 2 = 5

Bài 4: Viết phép tính thích hợp (2 điểm)

a)

?
b)
Bài 5: ( 2 điểm) Nhìn tranh vẽ hãy viết các phép tính thích hợp:

Kết quả thu được trước khi thực nghiệm như sau:
TSHS
34
Kết quả
khảo sát


HS đạt điểm
9-10
SL
TL
2
5,9%

HS đạt điểm
8- 7
SL
TL
6
17,6%

HS đạt điểm
5- 6
SL
TL
15
44,1%

HS đạt điểm
dưới 5
SL
TL
11
32,4%

2.2.2. Đánh giá thực trạng.

a. Nguyên nhân từ phía giáo viên.
Nhiều giáo viên chưa dạy tốt cho các em những bài học tiết trước. Các bài
tập nhìn hình vẽ viết phép tính thích hợp đa số giáo viên tỏ ra chủ quan, ít nhấn
mạnh hoặc không chú ý lắm mà thường chú trọng dạy kĩ năng đặt tính, tính toán
của học sinh mà quên đi mục đích biên soạn của chương trình SGK là làm bước
đệm, bước khởi đầu của giải toán có lời văn sau này. Hơn nữa giải toán có lời
văn là một nội dung dạy học mất rất nhiều thời gian, lại thường ở cuối giờ mà
6


giáo viên lại muốn tiết học phải giải được nhiều bài toán. Do vậy giáo viên
thường nói trước cách giải hoặc chỉ cho học sinh luôn phép tính để tìm ra kết
quả mà chưa quan tâm đến việc khai thác hết tiềm năng của bài toán yêu cầu.
Một số giáo viên chưa linh hoạt trong việc chuyển đổi phương pháp dạy học tích
cực, chưa phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, phương
pháp dạy học truyền thống ăn sâu vào lối mòn giảng dạy hằng ngày. Một số khác
giáo viên ngại đầu tư làm đồ dùng dạy học phục vụ cho tiết học, ngại hướng dẫn
học sinh tóm tắt bằng hình vẽ hoặc sơ đồ đoạn thẳng, dẫn dắt học sinh phân tích
bài toán tìm hướng giải diễn đạt còn khó hiểu. Có giáo viên có nhiều cố gắng
trong đổi mới phương pháp dạy học nhưng ngại không dám “ thoát li” các gợi ý
trong SGK, sách tham khảo vì sợ tốn nhiều thời gian.
b. Nguyên nhân từ phía học sinh.
Do tư duy của học sinh lớp 1 còn mang tính trực quan là chủ yếu nên lần
đầu tiên làm quen với dạng toán có lời văn khi nhìn vào tranh vẽ các em không
xác định được phép tính cần điền là phép tính gì? Mặt khác ở giai đoạn này các
em đọc còn đánh vần, chưa đọc thông viết thạo dẫn đến đọc xong bài toán rồi
nhưng không hiểu bài toán nói gì, thậm chí có nhiều em đọc đi đọc lại nhiều lần
mà vẫn chưa hiểu bài toán. Vì vậy học sinh làm sai bài toán là điều dễ hiểu.
Ngoài ra học sinh còn gặp khó khăn trong vấn đề tìm phương pháp giải toán.
Khi gặp một bài toán giải dễ hay khó còn phụ thuộc vào việc học sinh đã giải bài

toán nào tương tự hay chưa. Nếu khi giải một bài toán mới các em biết dẫn dắt
về một bài toán mà các em đã biết thì vấn đề trở nên khá dễ dàng. Nhưng nếu
gặp bài toán mà trước đó các em chưa giải những bài toán tương tự thì các em
lại không làm được. Vậy làm thế nào để học sinh có thể nắm được cách giải bài
toán có lời văn một cách chắc chắn và chính xác?
2.3. Một số biện pháp thực hiện
2.3.1. Tìm hiểu và nắm bắt nội dung chương trình.
Muốn dạy tốt giải toán có lời văn lớp 1 yêu cầu đầu tiên là mỗi giáo viên
phải nắm chắc nội dung chương trình SGK. Môn toán lớp 1 nói chung và giải
toán có lời văn nói riêng kiến thức đưa ra còn khá đơn giản vì thế nhiều người
cho rằng ai cũng dạy được. Đôi khi chính giáo viên trực tiếp giảng dạy cũng chủ
quan và có suy nghĩ tương tự như vậy dẫn đến dạy bài nào chỉ nhằm khai thác
kiến thức của bài đó mà quên đi những kiến thức của bài học trước có liên quan.
Phải thấy được mạch kiến thức của giải toán có lời văn lớp 1 mà SGK biên soạn
ta mới thấy được cái hay của giải toán và giúp HS từng bước khắc sâu cách giải
toán, đem lại hứng thú học tập cho học sinh trong các giờ học.
Nghiên cứu SGK ta nhận thấy trong chương trình toán lớp 1 do giai đoạn
đầu học sinh còn đang học chữ, tư duy còn mang tính trực quan nên chưa thể
đưa dạy ngay “ Bài toán có lời văn”. Mãi đến tuần 22 học sinh chính thức được
học cách giải “Bài toán có lời văn” song chúng ta đã có bước đệm chuẩn bị từ
bài “Phép cộng trong phạm vi 3”- Luyện tập tuần 7.

7


* Bắt đầu từ tuần 7 đến tuần 16 trong các tiết dạy về phép cộng trong
phạm vi 10 đều có các bài tập thuộc dạng “ Nhìn tranh vẽ nêu phép tính”. Qua
dạng bài tập này học sinh được thực hiện các yêu cầu sau:
+ Quan sát tranh vẽ.
+ Tập nêu bài toán bằng lời.

+ Nêu câu trả lời.
+ Điền phép tính thích hợp với tình huống tranh vẽ.
Ví dụ minh hoạ: ( Bài 4: Phép cộng trong phạm vi 4).
Viết phép tính thích hợp:

Với dạng bài tập này GV tiến hành như sau:
- GV cho HS quan sát tranh vẽ và trả lời câu hỏi:
+ Trên cành cây có mấy con chim? GV kết hợp chỉ tranh.
+ Có mấy con chim đang bay đến? GV kết hợp chỉ tranh.
- GV cho HS nhìn tranh nêu lại bài toán.
+ HS nêu: Có 3 con chim đậu trên cành cây, 1 con chim bay đến. Hỏi có tất
cả mấy con chim?
+ Gọi 1 số HS nêu bài toán - cả lớp đọc đồng thanh.
- Gọi HS nêu phép tính - GV nhận xét.
- GV cho HS viết phép tính vào ô trống 1 + 3 = 4 hay 3 + 1 = 4
*Đến tuần 17 học sinh được làm quen với tóm tắt bằng lời. Ở dạng bài này
yêu cầu cao hơn, không còn tranh vẽ nữa thay vào là phải đọc tóm tắt rồi viết
phép tính thích hợp vào ô trống. Cùng với khả năng đọc cao hơn học sinh từng
bước làm quen với lời thay hình vẽ, học sinh thoát ly khỏi hình ảnh trực quan
dần dần tiếp cận với đề bài toán.
Ví dụ: Dạy bài Luyện tập chung ( SGK trang 89 - Bài tập 5a)
Viết phép tính thích hợp.

: 5 quả
Thêm : 3 quả
Có tất cả: …quả?
Với bài tập này GV có thể liên hệ giúp HS hiểu bài hơn: Có thể ở đây là mẹ
có, bà có hay chị có…, còn quả có thể là quả cam, quả lê, quả táo…từ đó hướng
dẫn các em nêu bài toán. Chẳng hạn: Mẹ có 5 quả cam, mẹ mua thêm 3 quả nữa.
Hỏi mẹ có tất cả mấy quả cam? Hoặc Chị có 5 quả táo, mẹ cho thêm chị 3 quả

táo nữa. Hỏi chị có tất cả bao nhiêu quả táo?

8


Giáo viên có thể cho HS các nhóm thi nêu bài toán dựa vào tóm tắt. Sau đó
giáo viên nhận xét, chỉnh sửa.
Với dạng này tiến hành cụ thể từng bước như sau:
Bước 1: Yêu cầu vài em nêu tóm tắt bài toán.
Bước 2: Hướng dẫn HS nêu đề toán hoàn chỉnh.
Bước 3: Hướng dẫn HS nêu phép tính thích hợp.
Bước 4: Hướng dẫn HS viết phép tính vào ô trống.
Thông qua đó các em được làm quen dần và là cầu nối với bài toán có lời văn ở
tuần 22.
* Tiếp đó trước khi chính thức học “ Giải toán có lời văn” học sinh được học
bài “ Bài toán có lời văn”, giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của bài toán có
lời văn gồm 2 bộ phận:
+ Cái đã cho (dữ kiện)
+ Cái phải tìm (câu hỏi)
Ví dụ:
Bài 1: trang 115 SGK.
Viết số thích hợp vào chỗ chấm để có bài toán:

Bài toán: Có …bạn, có thêm …bạn đang tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn?
( Bài toán còn thiếu cái đã cho)
- GV đặt câu hỏi, HS trả lời và điền số còn thiếu vào chỗ chấm để có bài toán.
(GV kết hợp dùng phấn màu ghi số còn thiếu vào bài toán mẫu ghi trên bảng
lớp)
+ Bạn đội mũ đang làm gì? ( đang giơ tay chào)
+ Còn 3 bạn kia? ( đang đi tới)

+ Vậy lúc đầu có mấy bạn? ( có 1 bạn)
+ Về sau có thêm mấy bạn đang đi tới? ( 3 bạn đang đi tới)
- GV cho HS điền số rồi đọc bài toán hoàn chỉnh ( cá nhân, đồng thanh)
Có 1 bạn, có thêm 3 bạn chạy tới. Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn?
- GV đặt câu hỏi để tìm dữ kiện của bài toán.
+ Bài toán cho biết gì? ( Có 1 bạn, có thêm 3 bạn nữa)
+ Bài toán hỏi gì ? ( Hỏi có tất cả bao nhiêu bạn)
+ Để tìm có tất cả bao nhiêu bạn ta phải làm gì?
- GV chốt: Bài toán có lời văn bao giờ cũng có 2 phần.
Bài 3: SGK trang 116.
Viết tiếp câu hỏi để có bài toán:

9


Bài toán: Có 1 gà mẹ và có 7 gà con.
Hỏi ………………………………………………………………?
( Bài toán thiếu câu hỏi)
- GV cho HS quan sát tranh vẽ và đọc bài toán.
+ Bài toán còn thiếu gì? ( Bài toán còn thiếu câu hỏi)
- GV cho HS nêu câu hỏi của bài toán ( khuyến khích HS nêu nhiều câu hỏi
khác nhau). Chẳng hạn:
+ Hỏi có tất cả mấy con gà?
+ Hỏi có bao nhiêu con gà tất cả?
+ Hỏi cả đàn gà có bao nhiêu con?
+ Hỏi cả gà mẹ và gà con có bao nhiêu con?
Bài 4: SGK trang 116.
Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán:

Bài toán: Có …con chim đậu trên cành, có thêm…con chim bay đến.

Hỏi…………………………………………………………….?
( Bài toán thiếu cả cái đã cho và cái phải tìm)
* Tuần 22 học sinh được học bài toán có lời văn hoàn chỉnh. Toán có lời văn
thực chất là những bài toán thực tế của cuộc sống hằng ngày. Cái khó ở chỗ làm
thế nào để lược bỏ đi những yếu tố lời văn đã che đậy bản chất toán học của bài
toán để tìm câu trả lời và phép tính thích hợp.
Vì vậy giáo viên phải hướng dẫn cụ thể từng bước giải để học sinh hiểu
và làm được bài.
2.3.2. Hình thành cho học sinh kĩ năng giải bài toán có lời văn theo các
bước chung.

10


Bước 1: Đọc đề bài và tóm tắt bài toán.
Đọc đề toán là một khâu rất quan trọng. Học sinh cần đọc đề bài toán từ
2-3 lần để hiểu rõ đề bài và nắm được một số từ “chìa khoá” ở trong bài như: “ít
hơn”, “ nhiều hơn”, “tất cả”…
Trình bày một cách ngắn gọn cô đọng phần đã cho và phần phải tìm của
đề toán để làm nổi bật phần trọng tâm của bài toán. Thể hiện bản chất toán học
của bài toán. Do vậy giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách đọc, cách hiểu đúng
từng câu văn và biết phân tích ý nghĩa thực tiễn bài toán tạo điều kiện cho việc
tóm tắt bài toán. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách tóm tắt bài toán theo
các cách khác nhau phù hợp với đề bài toán cho.
- Tóm tắt dưới dạng câu văn ngắn gọn.
- Tóm tắt dưới dạng sơ đồ đoạn thẳng.
Ví dụ: Bài 3 trang 124 SGK phần Luyện tập chung.
Một hộp có 12 bút xanh và 3 bút đỏ. Hỏi hộp đó có tất cả bao nhiêu cái
bút?
Tóm tắt dưới dạng câu văn ngắn gọn:

Bút xanh: 12 bút
Bút đỏ : 3 bút
Có tất cả : …cái bút?
Tóm tắt dưới dạng sơ đồ đoạn thẳng
Bút xanh:
3 bút
Bút đỏ:

12 bút
bút?

Tóm tắt đề toán không nằm trong lời giải của bài toán, nhưng phần tóm
tắt cần được luyện kĩ để học sinh nắm được bài toán đầy đủ và chính xác.
Bước 2: Đặt câu lời giải thích hợp.
Qua qúa trình giảng dạy tôi nhận thấy đối với học sinh lớp 1 việc đặt được câu
lời giải và câu lời giải đặt đúng là khó khăn với các em nhất. Sau khi đọc đề bài
toán và xác định được các dữ kiện bài toán giáo viên hướng dẫn học sinh đặt câu
lời giải. Tuỳ từng đối tượng học sinh tôi lựa chọn 5 cách hướng dẫn đặt câu lời
giải.
Ví dụ : Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả
mấy con gà?
Tóm tắt

: 5 con gà.
Thêm : 4 con gà.
Có tất cả: …con gà?
* Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán bỏ bớt từ “hỏi” và từ cuối “mấy
con gà” rồi thêm từ “là” để có câu trả lời “Nhà An có tất cả là:”

11



*Cách 2: Dựa vào câu hỏi cuối bài bỏ từ “hỏi”, thay từ mấy (hoặc bao
nhiêu) bằng từ “số” và thêm từ “là” ở cuối câu được câu trả lời “Nhà An có tất
cả số con gà là:”
*Cách 3: Đưa từ “con gà” ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ “Hỏi” và
thêm từ Số ở đầu câu, là ở cuối câu để có “Số con gà nhà An có tất cả là:”
*Cách 4: Dựa vào dòng cuối của câu tóm tắt + thêm từ “là”
“ Có tất cả là:”
*Cách 5: Sau khi học sinh tính xong 5 + 4 = 9 (con gà) giáo viên chỉ vào
9 rồi hỏi “9 con gà ở đây là của nhà ai?” (là số gà nhà An có tất cả). Từ câu trả
lời đó giúp học sinh chỉnh sửa thành câu lời giải “Số gà nhà An có tất cả là:”
* Riêng với loại bài mà đơn vị tính là đơn vị đo độ dài, cần thêm chữ dài vào
trước chữ là.
Ví dụ cụ thể:
Đoạn thẳng AB: 5cm
Đoạn thẳng BC : 3 cm
Cả hai đoạn thẳng:…cm?
Câu lời giải: “Cả hai đoạn thẳng dài là:”
Qua ví dụ trên ta thấy có rất nhiều cách đặt câu lời giải cho bài toán, do
vậy tuỳ từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn học sinh lựa chọn
đặt câu lời giải cho phù hợp. Tuy nhiên cách 1 và cách 2 là hai cách học sinh
thường áp dụng hơn cả.
Bước 3: Lựa chọn phép tính thích hợp cho bài toán.
Ở lớp 1 học sinh chỉ mới tiếp cận bài toán có lời văn dạng thêm hoặc bớt
với một phép tính cộng hoặc trừ. Và để xác định đúng phép tính cần tìm thì giáo
viên hướng dẫn học sinh chú ý đến một số từ khoá đặc biệt trong bài.
Học sinh chọn phép cộng nếu bài toán chứa các chữ “nhiều hơn” , “gộp”
, “thêm”, “tất cả”, “cả hai”
Học sinh chọn phép trừ nếu bài toán chứa các chữ “ít hơn”, “bớt đi”,

“còn lại”.
Ví dụ 1: Lan hái được 20 bông hoa, Mai hái được 10 bông hoa. Hỏi cả
hai bạn hái được bao nhiêu bông hoa?
+ Muốn biết cả hai bạn hái được bao nhiêu bông hoa ? (làm phép tính
cộng)
Ví dụ 2: An có 30 cái kẹo, chị cho An thêm 10 cái nữa. Hỏi An có tất cả
bao nhiêu cái kẹo?
+ Muốn biết An có tất cả bao nhiêu cái kẹo ? (làm phép tính cộng)
Ví dụ 3: Nhà em có 34 con gà, đã bán đi 12 con gà. Hỏi nhà em còn lại
bao nhiêu con gà?
+ Muốn biết nhà em còn lại bao nhiêu con gà? (làm phép tính trừ)
Bước 4: Trình bày bài giải.
Khi giải bài toán có lời văn học sinh phải tự viết câu lời giải, phép tính,
đáp số, thậm chí cả tóm tắt. Do đó ngay từ lớp 1 chúng ta phải hướng dẫn sao

12


cho học sinh biết cách trình bày bài giải đúng, khoa học, đẹp mắt. Muốn vậy tôi
đã hướng dẫn cụ thể như sau:
Đầu tiên là tóm tắt rồi trình bày bài giải.
+ Từ “Bài giải” ghi ở giữa trang vở có gạch chân.
+ Câu lời giải ghi cách lề khoảng 2 đến 3 ô vuông, chữ đầu câu viết hoa,
cuối câu sau tiếng là có dấu hai chấm (:)
+ Phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 2 đến 3 chữ, cuối phép tính
là đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn.
+ Đáp số ghi ngay phía dưới dấu = , chấm hai chấm (:) rồi mới viết kết quả
và đơn vị tính (đơn vị tính không phải viết trong dấu ngoặc đơn nữa). Gạch chân
từ “Đáp số”.
Cùng với việc hướng dẫn tỉ mỉ các bước thực hiện, tôi thường xuyên trình

bày bài mẫu lên bảng (có thể giáo viên hoặc học sinh làm tốt) cho học sinh quan
sát, nhận xét từ đó nắm vững cách trình bày bài giải đúng, đẹp. Kết hợp việc
chấm chữa bài hằng ngày tôi tuyên dương trước lớp những học sinh làm đúng,
trình bày đẹp và chỉ rõ kết hợp sửa lỗi cho học sinh trình bày chưa đẹp.
2.3.3. Dạy học theo đối tượng học sinh.
Qua thực tế nhiều năm giảng dạy, bản thân tôi thấy rằng trong một lớp học
có sự nhận thức không giống nhau, có em tiếp thu nhanh có em tiếp thu chậm.
Do đó, nếu trong một tiết dạy giáo viên chỉ dừng lại ở mức độ truyền đạt hết nội
dung trong sách giáo khoa thì sẽ gây nhàm chán đối với một số học sinh, không
phát huy được tố chất của học sinh có năng khiếu.
Ngay từ đầu năm học tôi tiến hành điều tra, phân loại từng đối tượng học
sinh: Học sinh đã đọc thông viết thạo, học sinh còn phải đánh vần. Nắm chắc đối
tượng học sinh, tôi đề ra kế hoạch dạy học phù hợp với từng nhóm đối tượng,
giúp học sinh tiếp thu bài còn chậm biết làm toán có lời văn.
V× vậy tuỳ theo đối tượng HS mà khi dạy giải toán có lời văn, giáo viên
có thể khai thác bài toán theo các mức độ khác nhau. Có thể chia thành các mức
độ như sau:
* Mức độ 1:
Thực hiện các bước giải toán có lời văn và giải được bài toán.
+ Đọc đề bài.
+ Phân tích đề bài nhận biết những cái đã cho và cái phải tìm. Xác định
mối quan hệ giữa cái đã biết và cái phải tìm để xác định được dạng toán và
phương hướng giải.
+ Tóm tắt bài toán ( HS có thể tóm tắt bằng lời hoặc bằng sơ đồ)
+ Giải và trình bày bài giải (Khuyến khích HS tìm nhiều cách giải và lựa
chọn lời giải đủ ý, ngắn gọn).
Ví dụ : Bài 3: (Toán 1 - trang 172)

13



Lan gấp được 10 cái thuyền, Lan cho em 4 cái thuyền. Hỏi Lan còn lại
mấy cái thuyền?
Hướng dẫn HS giải và trình bày bài giải.
+ Bài toán cho biết gì? (Lan gấp 10 cái thuyền, cho em 4 cái thuyền)
+ Bài toán hỏi gì? ( Lan còn mấy cái thuyền)
+ Muốn biết Lan còn lại mấy cái thuyền em làm tính gì ? (làm tính trừ)
Tóm tắt
Lan có : 10 cái thuyền.

Bài giải
Lan còn lại số cái thuyền là:

Cho em : 4 cái thuyền.

10 - 4 = 6 (cái)

Còn lại : ...cái thuyền?

Đáp số: 6 cái thuyền.

* Mức độ 2:
Thay số liệu trong bài toán ban đầu để có bài toán mới cùng dạng với bài
toán đã cho. Từ đó khuyến khích HS nêu nội dung thực tế của bài toán bằng
nhiều cách.
Ví dụ: Từ bài toán đã cho ở mức độ 1, có thể sửa số liệu để bài toán mới
cùng dạng như sau:
Hồng hái được 16 quả cam, Hồng cho bạn 5 quả cam. Hỏi Hồng còn lại
mấy quả cam?
* Mức độ 3:

Sửa dữ kiện, chuyển dạng bài toán, giúp HS thấy được mối quan hệ giữa
một số dạng toán có lời văn.
Sau khi dạy học sinh giải toán có lời văn ở các dạng:
+ Thêm ( với phép tính cộng)
+ Bớt (với phép tính trừ)
Ta có thể tổ chức khai thác bài toán như sau:
Từ bài toán thuộc dạng này sửa dữ kiện để chuyển sang dạng toán còn lại.
Chẳng hạn: Nếu lấy bài 3 trang 172 toán 1 làm bài toán ban đầu, bài toán
có dạng bớt đi một số. Cụ thể là:
Bài toán: Lan gấp được 10 cái thuyền, Lan cho em 4 cái thuyền. Hỏi Lan
còn lại mấy cái thuyền?
Sửa dữ kiện:
Chuyển sang dạng toán: Thêm vào một số.
Bài toán: Lan có 6 cái thuyền, em cho Lan thêm 4 cái thuyền. Hỏi Lan có tất cả
bao nhiêu cái thuyền?
Tóm tắt

Bài giải

14


Lan có: 6 cái thuyền

Lan có tất cả số cái thuyền là:

Thêm : 4 cái thuyền

6 + 4 = 10 ( cái )


Tất cả : ...cái thuyền?

Đáp số: 10 cái thuyền

Qua việc sửa dữ kiện chuyển dạng bài toán không những học sinh nắm
được đặc trưng của một số dạng toán có lời văn mà còn nắm chắc đặc trưng của
các dạng toán có liên quan và mối quan hệ giữa các dạng toán đó.
Chú ý: Đối với HS đại trà yêu cầu mức độ 1, đối với HS hoàn thành tương
đối tốt nâng lên mức độ 2, đối với HS hoàn thành tốt ở mức độ 3.
2.3.4. Tạo hứng thú học tập cho học sinh.
Nắm được đặc điểm tâm sinh lí của học sinh lớp 1- lứa tuổi học sinh đầu
cấp, cộng với đánh giá nhận xét theo thông tư 22, tôi thường xuyên nhận xét
đánh giá học sinh qua những lời khen trước lớp, hạn chế chê các em trong học
tập và rèn luyện. Đối với những em chậm tiến bộ, rụt rè, tự ti tôi luôn động viên,
nhắc nhở, gọi các em trả lời câu hỏi hay lên bảng làm bài. Khi các em có một
“tiến bộ nhỏ” tôi kịp thời tuyên dương, nhờ đó các sẽ ngày càng tiến bộ, thêm
mạnh dạn, tự tin. Đối với những em hoàn thành tương đối tốt, hoàn thành tốt
phải có những biểu hiện vượt bậc, luôn hoàn thành tốt yêu cầu bài học tôi mới
khen. Chính những lời khen, chê kịp thời, đúng đối tượng đã mang lại sự khích
lệ trong học tập cho học sinh.

Những HS được tuyên dương trước lớp
Ngoài ra tuỳ từng tiết học cụ thể tôi luôn tìm tòi đưa vào một số trò chơi
làm cho không khí lớp học thêm sôi nổi, học sinh hăng hái học tập hơn và khắc
sâu hơn kiến thức của bài học.

15


Trò chơi tiếp sức “Nối hình với phép tính đúng”

Là người giáo viên đứng lớp giảng dạy tôi biết rằng trong quá trình dạy
học giáo viên không chỉ rèn luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho học sinh mà
còn phải tạo khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh.
2.4. Kết quả đạt được.
Áp dụng sáng kiến này với học sinh lớp 1A năm học 2017-2018, tôi đã ra
đề khảo sát với những dạng bài học sinh đã học đến hết tuần 30 như sau:
ĐỀ KHẢO SÁT
Câu 1 Đúng ghi Đ, sai ghi S:

Bài toán: Mẹ mua về 5 que kem. Cả nhà đã ăn hết 3 que kem. Hỏi còn lại mấy
que kem?
a) Bạn An làm:
5 – 2 = 3 ( que kem)
b) Bạn Bình làm:
5 que – 3 que = 2
c) Bạn Thu làm:
5 – 3 = 2 que kem
d) Bạn Dũng làm:
5 -3 = 2 ( que kem)

Câu 2: Viết phép tính thích hợp ( 2 điểm)

: 10 cái kẹo
Cho bạn : 5 cái kẹo
Còn lại :….. cái kẹo?
16


Bài 3: ( 2 điểm) Giải bài toán theo tóm tắt sau:
Tổ 1: 10 bạn

Tổ 2: 8 bạn
Cả hai tổ: ... bạn?
Bài giải

Bài 4: ( 2 điểm) Nhìn tranh vẽ, viết tóm tắt bài toán, rồi giải bài toán đó:

Tóm tắt

Bài giải

Bài 5: ( 2 điểm) Trên cây cam có 46 quả, mẹ hái đi 25 quả. Hỏi trên cây còn lại
bao nhiêu quả cam?
Bài giải

17


Kết quả thu được là:
TSHS
34
Hết tuần 30

HS đạt điểm
9-10
SL
TL
12 35,3%

HS đạt điểm
8- 7

SL
TL
16
47,1%

HS đạt điểm
5- 6
SL
TL
6
17,6%

HS đạt điểm
dưới 5
SL
TL
0
0%

Nhìn vào bảng tổng hợp trên ta thấy chất lượng giải toán có lời văn của
học sinh lớp 1 sau khi học xong tuần 30 cao hơn hẳn so với giữa học kì 1. Học
sinh hoàn thành tốt tăng lên, không còn học sinh chưa hoàn thành. Chắc chắn
với tiền đề và kết quả thu được ở trên, học sinh lớp 1A sẽ có kĩ năng thành thạo
khi giải toán có lời văn ở các lớp trên.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng SKKN này vào giảng dạy thực tế
cho học sinh lớp 1 cho thấy để học sinh học tốt giải toán có lời văn là không quá
khó, và tôi tin tưởng rằng kinh nghiệm này có thể áp dụng và phổ biến nhằm
nâng cao chất lượng của học sinh về việc giải toán có lời văn.

Để học sinh học tốt giải toán có lời văn lớp 1, giáo viên cần:
+ Rèn kĩ năng đọc hiểu, phân tích bài toán.
+ Tóm tắt được bài toán, hiểu được nội dung bài toán, nắm được các bước
giải toán.
+ Dạy học phân hoá đối tượng học sinh, dạy mở rộng và nâng cao kiến
thức cho học sinh ở buổi học thứ 2, trong quá trình dạy học luôn lấy học sinh
làm trung tâm.
+ Dạy theo chuẩn kiến thức, kĩ năng, kết hợp động viên kịp thời.
+ Đổi mới phương pháp dạy học, trao đổi với đồng nghiệp để tìm ra
phương
pháp tối ưu nhất.
3.2. Kiến nghị.
Sự tiến bộ của học sinh trong học tập phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia
đình - nhà trường - xã hội. Vì vậy:
a) Phụ huynh:

18


+ Thường xuyên nhắc nhở con em học bài ở nhà.
+ Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập cho con em.
+ Mỗi học sinh phải có góc học tập.
b) Nhà trường:
+Thường xuyên khen thưởng, tuyên dương những học sinh hoàn thành bài
chậm có tiến bộ trong các tiết chào cờ hằng tuần.
Thấy rõ tầm quan trọng của việc dạy học giải toán có lời văn, bản thân tôi
thấy rằng nhà trường nên thường xuyên tổ chức các chuyên đề nhằm nâng cao
năng lực giải toán cho giáo viên; đồng thời tổ chức các kì thi giải toán trong nhà
trường cho giáo viên và học sinh tham gia.
Sáng kiến của tôi đưa ra có thể còn nhiều hạn chế. Rất mong sự đóng góp

ý kiến của cấp trên và của đồng nghiệp để phương pháp giảng dạy của tôi được
nâng cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Xác nhận của Hiệu trưởng
Như Thanh, ngày 6 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan SKKN này là của tôi
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến

Hoàng Thị Hà Giang

19



×