Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy chia số thập phân cho học sinh lớp 5c trường tiểu học thiệu nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.82 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU:………………………………………...................…...........Trang 2
1.1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:........................................................................Trang 2
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:…………………...........……..........….Trang 2
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:………................................................Trang 3
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......................................................Trang 3
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.............................Trang 3
2.1.Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm..............................................Trang 3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến...................................Trang 4
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề................................... Trang 6
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm...................................................Trang 16
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ....................................................................Trang 17
- Kết luận.....................................................................................................Trang 17
- Kiến nghị...................................................................................................Trang 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................Trang 19

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
"Mục tiêu của giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẫm
mỹ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.”[1]
Để đạt được mục tiêu này nội dung chương trình giáo dục ở bậc Tiểu học gồm
nhiều môn học, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, mỗi môn đều có một vị trí, một vai
trò nhất định. Trong đó, môn Toán góp phần tích cực vào việc hình thành và phát
triển tư duy của học sinh cũng như góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục
đề ra. Riêng đối với môn Toán không những cung cấp cho các em những kiến thức,
kĩ năng cần thiết cho người lao động mà thông qua việc học Toán còn rèn cho các em
năng lực tư duy, phát triển trí thông minh, kĩ năng tính toán, kích thích óc tò mò, tự


khám phá và rèn luyện cách làm việc khoa học.
Trong chương trình môn Toán lớp 5, mạch kiến thức về số thập phân là nội dung
cơ bản nhất của môn học. Nếu học sinh nắm vững được những kiến thức về số thập
phân thì xem như các em đã cơ bản hoàn thành được nội dung chương trình của
môn Toán lớp 5. Vì xuyên suốt chương trình toán lớp 5 hầu hết là việc vận dụng 4
phép tính với số thập phân để giải toán, chuyển đổi các đơn vị đo,.... Nhưng trong
quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy khi học về các phép tính với số thập phân các em
còn khá lúng túng và hay nhầm lẫn, sai sót mà đặc biệt là phép chia số thập phân.
Vì trong bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia của toán học thì phép tính chia là khó
nhất, dễ sai nhất đối với học sinh. Sở dĩ, phép chia khó vì khi thực hiện phép chia
phải kết hợp cả phép trừ và phép nhân. Trong một phép tính, học sinh phải kết hợp
cả ba tính chia, nhân và trừ nhẩm một cách thành thạo thì mới có thể làm đúng
được.
Thực tế, trong các bài kiểm tra khảo sát, kiểm tra định kì kết quả bài làm của các
em không đạt yêu cầu hoặc không đạt điểm tối đa phần lớn là do các em nắm chưa
vững các kiến thức về số thập phân nhất là việc thực hiện phép chia số thập phân.
Vậy làm thế nào để học sinh học tốt được phần này? Trong quá trình dạy học giáo
viên cần có phương pháp cũng như biện pháp gì giúp học sinh thực hiện tốt phép
chia số thập phân cũng như làm sao để các em học tốt môn Toán, đó là điều bản
thân tôi và các đồng nghiệp quan tâm, trăn trở. Chính vì những lí do trên mà năm
học 2016 - 2017 này, tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy
chia số thập phân cho học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Thiệu Nguyên” để nghiên
cứu và thực hiện.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tôi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích đưa ra một số biện pháp, giải pháp
hướng dẫn học sinh thực hiện tốt phép chia số thập phân. Từ đó góp phần nâng cao
2


chất lượng dạy học môn Toán ở lớp 5 nói riêng và chất lượng giáo dục nói chung

để đạt được mục tiêu giáo dục hiện nay.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy chia số thập phân cho học sinh lớp
5 Trường Tiểu học Thiệu Nguyên.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
+ Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin của lớp 5C và lớp 5B
Trường Tiểu học Thiệu Nguyên.
+ Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
+ Phương pháp quan sát.
+ Phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.
+ Phương pháp hợp tác nhóm nhỏ.
+ Phương pháp đàm thoại.
+ Phương pháp so sánh, phân tích tổng hợp.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Toán học là môn học có vị trí rất quan trọng trong chương trình giáo dục tiểu
học. Những kiến thức, kỹ năng Toán học là những công cụ cần thiết để học các môn
học khác và để ứng dụng trong thực tiễn. Toán học có khả năng to lớn trong giáo dục
học sinh về nhiều mặt như: phát triển tư duy lô- gic, phân tích – tổng hợp, năng lực
trừu tượng hóa – khái quát hóa, ... Ngoài ra, nó còn giúp học sinh phương pháp suy
nghĩ, làm việc khoa học và góp phần giáo dục những phẩm chất, đức tính tốt đẹp của
người lao động.
Mặt khác, môn Toán còn có nhiệm vụ góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ và
mục tiêu của bậc học. Nó trang bị cho học sinh một hệ thống kiến thức và kỹ năng cơ
bản, cần thiết cho việc học tiếp tục lên lớp trên hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Dạy học Toán ở Tiểu học nói chung và Toán 5 nói riêng là dạy học trên cơ sở tổ
chức và hướng dẫn các hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.

Giáo viên phải tổ chức, hướng dẫn cho học sinh hoạt động học tập với sự trợ giúp
đúng mức và đúng lúc trên cơ sở của SGK Toán 5 và các đồ dùng dạy học Toán, để
từng học sinh hoặc từng nhóm học sinh tự phát hiện và giải quyết vấn đề của bài học,
từ đó các em tự chiếm lĩnh nội dung bài học theo năng lực của mình. Tức là "giáo
viên không còn đóng vai trò đơn thuần là người truyền đạt kiến thức mà trở thành
người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để
3


học sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức,
kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Đồng thời là người gợi mở, xúc
tác, động viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tòi hào hứng, tranh luận
sôi nổi của học sinh. Muốn vậy, giáo viên phải có trình độ chuyên môn sâu rộng, có
trình độ sư phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học
sinh mà nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên”.[2]
Ở lớp 5, các em bước đầu được làm quen với số thập phân, khái niệm và cách
thực hiện các phép tính về số thập phân. Chương trình gồm 31 tiết cộng, trừ, nhân,
chia số thập phân. Chia số thập phân trong Chuẩn kiến thức kĩ năng được phân
chia thành 5 dạng với 9 tiết thực dạy và một số tiết luyện tập.[3]
Đây là phần chiếm thời gian lớn nhất trong những bài học về các phép tính với số
thập phân. Việc được làm quen với số thập phân, học sinh dễ dàng giải quyết được
các phép tính chia có dư. Từ đó giúp các em áp dụng vào các bài toán thực tiễn
trong cuộc sống. Nếu không thực hiện được hoặc thực hiện sai phép tính chia số
thập phân sẽ dẫn đến giải các bài toán có lời văn không chính xác. Từ thực tế của
việc thực hiện phép tính chia số thập phân của học sinh trường Tiểu học Thiệu
Nguyên nói chung và lớp tôi trực tiếp giảng dạy nói riêng, tôi mạnh dạn đưa ra
“Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng dạy chia số thập phân cho học sinh lớp
5 Trường Tiểu học Thiệu Nguyên”.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
* Về học sinh:

Trường Tiểu học Thiệu Nguyên là trường học thuộc khu vực nông thôn nên đa
số học sinh là con nhà nông. Nhìn chung, các em ngoan ngoãn, thật thà và chăm
chỉ, có ý thức học tập. Nhiều học sinh yêu thích học toán, có hứng thú, năng khiếu
về Toán học. Bên cạnh đó cũng còn không ít học sinh ý thức học tập chưa tốt, các
em còn ham chơi, có những em tiếp thu bài quá chậm, nhất là môn Toán. Do điều
kiện gia đình nên nhiều phụ huynh còn chưa quan tâm đến con em mình đúng mực.
Cụ thể lớp 5C do tôi chủ nhiệm 100% học sinh là con em nông thôn. Bố mẹ các em
hàng ngày chủ yếu phải đi làm thuê sinh sống. Thậm chí một số em còn có bố mẹ đi
làm ăn xa, việc chăm sóc và nuôi dạy các em chủ yếu là ông bà hoặc chị em trong gia
đình chăm sóc lẫn nhau. Vì vậy, các em thiếu sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ của gia
đình , việc học tập của các em chủ yếu phó mặc cho các thầy cô và nhà trường.
- Năm học 2016-2017 này, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 5C.
Thời gian đầu năm học, tôi nhận thấy nhiều học sinh thực hiện chưa thành thạo bốn
phép tính với số tự nhiên. Thậm chí, một số em chưa thuộc bảng cửu chương. Đây là
một trong những khó khăn lớn trong việc nâng cao chất lượng môn toán nói chung và
về các phép tính với số thập phân nói riêng. Khi dạy học sinh thực hiện phép chia các
số tự nhiên, tôi đã gặp không ít khó khăn vì nhiều em thực hiện phép chia còn chậm
4


và yếu. Phần lớn các em chưa có kỹ năng ước lượng thương trong phép chia. Khi chia,
một số em còn để số dư lớn hơn hoặc bằng số chia hoặc khi hạ một chữ số tiếp theo ở
số bị chia vào thực hiện phép chia được số bé hơn số chia các em cũng không viết 0
vào thương rồi mới chia tiếp.
* Về giáo viên:
- Trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy một số giáo viên còn hạn chế với việc
đổi mới phương pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách đánh giá học sinh
theo các quy định hiện hành. Giáo viên dạy học vẫn còn mang tính áp đặt, chưa chú
trọng đến tính tích cực, chủ động học tập, khả năng khám phá của học sinh. Đôi khi
giáo viên chưa làm rõ bản chất của số thập phân nên bài dạy chưa làm nổi bật kiến

thức trọng tâm cho học sinh hiểu.
- Một số giáo viên khi dạy học chưa gắn bài học với thực tế nên học sinh khó
hiểu bài; chưa làm rõ mối quan hệ giữa số thập phân với số tự nhiên nên dẫn đến
học sinh hiểu bài một cách máy móc, làm bài hay nhầm lẫn.
Từ những thực trạng trên, đầu năm học 2016 - 2017 tôi đã cho học sinh lớp 5C
( lớp dạy thực nghiệm) và lớp 5B ( lớp đối chứng) Trường Tiểu học Thiệu Nguyên
thực hành làm bài kiểm tra khảo sát đầu năm có nội dung sau:
Đề kiểm tra - Thời gian 40 phút
Câu 1: (1 điểm) Chữ số 9 trong số 7986 có giá trị là:
A. 90
B . 900
C. 9000
D. 986
Câu 2: (1 điểm) Điền số thích hợp vào chỗ chấm:
a) 270000kg = ..............tấn
b) 53m = .......... cm
Câu 3: (1 điểm) Viết phân số thích hợp vào chỗ chấm để được kết quả đúng:
Rút gọn phân số

18
ta được phân số tối giản là: ..................
24

Câu 4: (1 điểm) Viết tiếp vào chỗ chấm để được câu trả lời đúng:
Một tấm kính hình thoi có độ dài đường chéo thứ nhất 12dm, độ dài đường
chéo thứ hai bằng

5
đường chéo thứ nhất. Diện tích tấm kính là: .........................
6


Câu 5: (1 điểm)Viết tiếp vào chỗ chấm để được câu trả lời đúng:
Nếu cạnh của hình vuông giảm đi 2 lần thì diện tích hình vuông đó giảm số lần
là: .............................
Câu 6: (1 điểm) Viết tiếp vào chỗ chấm để được câu trả lời đúng:
Tìm x, biết 32 x x = 768. Vậy x là: ...................
Câu 7: (1 điểm) Nối biểu thức với kết quả đúng:
360 x 286 - 185 x 360 - 360

5


360

3600

36000

28600

Câu 8: (1 điểm) Đặt tính rồi tính:
a) 89 + 763
b) 2346 - 987
c) 164 x 704
d) 1926 : 52
Câu 9: (1 điểm) Một thửa ruộng hình chữ nhật có chu vi là 260m, chiều rộng là 50m.
Người ta thu hoạch lúa trên thửa ruộng đó. Trung bình cứ 100 m2 thu hoạch được 70kg
thóc. Hỏi trên cả thửa ruộng đó, người ta thu được bao nhiêu tạ thóc?
Câu 10: (1 điểm) Tính: 7968 - 1204 : 28 x 56
Sau đây là kết quả khảo sát môn Toán đầu năm học 2016- 2017 ;

* Lớp thực nghiệm ( lớp 5C):
Tổng số học sinh
32

Điểm 9 - 10
3

Điểm 7 - 8
10

Điểm 5 - 6
12

Điểm dưới 5
7

* Lớp đối chứng ( lớp 5B):
Tổng số học sinh
Điểm 9 - 10
32
5

Điểm 7 - 8
12

Điểm 5 - 6
10

Điểm dưới 5
5


Từ kết quả khảo sát, tôi thấy đa số các em thực hiện các phép tính cộng, trừ,
nhân tương đối tốt nhưng đối với phép chia học sinh thực hiện sai và nhầm lẫn khá
nhiều dẫn đến kết quả làm bài kiểm tra còn thấp.
Vì vậy, nếu không có biện pháp, giải pháp thích hợp giúp các em thực hiện phép
chia nói chung và phép chia số thập phân nói riêng thì các em khó có thể đạt được
mục tiêu chương trình.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Tạo hứng thú yêu thích học Toán cho học sinh.
Việc tạo hứng thú cho học sinh là rất quan trọng và cần thiết trong học tập. Không
có việc gì người ta không làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú. M.Gorki từng
nói: "Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc.” Hứng thú không tự nhiên nảy
sinh và khi đã nảy sinh nếu không duy trì, nuôi dưỡng cũng có thể mất đi. [4]
Vì vậy, trong quá trình dạy học nói chung và dạy học môn Toán nói riêng tôi luôn
tìm cách để tạo hứng thú cho học sinh bằng các việc làm như sau:
- Tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng cách giúp học sinh hiểu rõ vai trò, tầm
quan trọng của môn Toán trong cuộc sống.
- Tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng cách giúp học sinh có động lực học tập:
Tôi giúp các em muốn có được sự tin yêu, tôn trọng của mọi người thì các em cần
6


phải chăm ngoan, học giỏi, hay khơi gợi cho các em có những ước mơ cao đẹp là
muốn làm cô giáo, thầy giáo hay kỹ sư, bác sĩ... Các em sẽ trở thành những người
hữu ích để xây dựng đất nước và tương lai tốt đẹp đang chờ các em, nếu các em cố
gắng học tập ngay từ hôm nay.
- Tạo hứng thú học tập cho học sinh bằng cách đề cao tính sáng tạo. Muốn vậy,
giáo viên cần phải biết tỏ ra ngạc nhiên, vui sướng, tôn trọng những sáng tạo của
học sinh, dù là rất nhỏ, đừng tỏ ra rằng cô giáo luôn luôn đúng, chỉ có cô mới là
chân lí. Cô giáo cũng cần làm cho học sinh hiểu rằng cô cũng có thể có lúc mắc sai

lầm và cần được các em giúp đỡ. Lúc này lỗi của cô giáo sẽ kéo theo sự chuyển
động tư duy của học sinh, các em sẽ sung sướng khi thấy mình là người tìm ra chân
lí.
- Tạo hứng thú cho học sinh học Toán qua các trò chơi Toán học: Trong các tiết
học Toán, học sinh thường phải tư duy nhiều hơn các tiết học khác nên đầu óc các
em sẽ căng thẳng, mệt mỏi hơn nên việc tổ chức trò chơi trong học Toán sẽ giúp
các em bớt căng thẳng, tinh thần thoải mái . Như vậy các em sẽ có hứng thú học tập
và chủ động tiếp thu bài hơn.
* Ví dụ 1: Khi dạy bài : “Chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm
được là một số thập phân”[5], sau khi học sinh làm được bài tập 1 và bài tập 2 theo
yêu cầu của bài , tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi: “Ai nhanh, ai đúng” như sau:
Tôi đưa ra bài toán: Mẹ có 15 cái bánh, mẹ chia đều số bánh này cho hai chị em.
Hỏi mỗi người được bao nhiêu cái bánh?
Sau đó tôi cho học sinh thi tính nhanh rồi điền kết quả vào bảng con để giáo viên
kiểm tra – Nếu em nào tìm ra kết quả nhanh và đúng nhất thì thắng cuộc.
* Ví dụ 2: Trò chơi : Hái hoa dân chủ
- Trò chơi này giúp học sinh củng cố lại quy tắc thực hiện các trường hợp chia số
thập phân.
- Tôi chuẩn bị một số câu hỏi, sau đó dán câu hỏi vào các bông hoa đã cắt sẵn (Các
câu hỏi có nội dung liên quan về chia số thập phân ):
+ Thực hiện phép chia 6,4 : 3,2 = ?
+ Tìm X : x x 2,7 = 10,8
+ 45,8 x 100 = ?
+ 45,8 : 100 = ?
+ 3,27 : 0,01 = ?
+ 3,27 x 0,01 = ?
+…..
- Sau đó tôi cho hai đội chơi rồi cho lần lượt từng em lên hái hoa và thực hiện yêu
cầu ghi trên hoa. Nếu em nào có kết quả đúng sẽ được tặng bông hoa hái được.
- Cuối cùng, giáo viên tổng kết cuộc chơi, tuyên dương đội đã hái được nhiều hoa,

7


đồng thời nhắc nhở những em chưa thực hiên được về nhà tích cực ôn tập thêm để
hôm sau tham gia chơi tiếp.
Sau khi chơi trò chơi, tinh thần các em phấn chấn hẳn lên, tiết học không còn
nặng nề và căng thẳng nữa. Việc củng cố kiến thức bằng hình thức tổ chức trò chơi
sẽ giúp các em ghi nhớ kiến thức tốt hơn và giúp các em yêu thích học Toán hơn.
2.3.2. Giải pháp thứ hai: Hướng dẫn học sinh nắm chắc khái niệm số thập
phân.
Trong chương trình Toán lớp 5, số thập phân là một trong những kiến thức
trọng tâm. Việc nắm chắc khái niệm về số thập phân sẽ giúp học sinh học tốt các
phần kiến thức liên quan đến số thập phân: đọc số, viết số, cộng, trừ, nhân, chia,
chuyển đổi các đơn vị đo, giải toán, .... Mà khái niệm về số thập phân được học
trong hai tiết đầu của phần số thập phân. Vì vậy khi dạy bài này, tôi đã chú ý để
giúp học sinh nắm chắc bản chất và cấu tạo của số thập phân:
- Về bản chất của số thập phân là cách viết khác của phân số thập phân.
- Về cấu tạo của số thập phân:Mỗi số thập phân gồm hai bộ phận: phần nguyên và
phần thập phân, chúng được phân cách bởi dấu phẩy. Những chữ số ở bên trái dấu
phẩy thuộc về phần nguyên, những chữ số ở bên phải dấu phẩy thuộc về phần thập
phân.
* Ví dụ:
90,638
Phần nguyên Phần thập phân [5]
Đối với giá trị của từng chữ số trong mỗi số thập phân: các chữ số thuộc phần
nguyên có giá trị giống như đối với số tự nhiên, các chữ số ở phần thập phân thì
chữ số đầu tiên sau dấu phẩy là hàng phần mười, chữ số thứ hai là hàng phần trăm,
chữ số thứ ba là hàng phần nghìn, ....
Sau khi học xong phần này, tôi củng cố, khắc sâu kiến thức cho học sinh bằng
cách cho các em chơi trò chơi Toán học. Cụ thể: Tôi ghi số thập phân bất kì lên

bảng, nêu chữ số bất kì và yêu cầu học sinh thi điền nhanh ra bảng con giá trị của
chữ số đó. Sau đó tôi kiểm tra, nhận xét hoặc cho học sinh khác nhận xét và chỉ ra
chỗ sai của bạn.
2.3.3. Giải pháp thứ ba: Rèn tính cẩn thận khi tính toán cho học sinh.
Lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi các em còn ham chơi hơn ham học, các em
rất hiếu động, hay bất cẩn, thiếu sự chắc chắn, cẩn thận. Chính vì vậy mà học sinh
tiểu học là đối tượng cần được quan tâm và chú ý nhất. Vì ở lứa tuổi này nếu chúng
ta không kịp thời uốn nắn, quan tâm, nhắc nhở, các em sẽ dễ dàng tạo cho mình
thói quen làm bài qua loa, không chú ý đến cách trình bày bài và dần dần hình
thành tính cẩu thả. Cho nên, việc rèn cho học sinh tính cẩn thận nói chung và trong

8


tính toán nói riêng là một trong những vấn đề giáo viên cần đặc biệt quan tâm, chú
ý trong tất cả các tiết học.
Riêng đối với dạy chia số thập phân ở phần bài mới, tôi hướng dẫn học sinh lần
lượt từng bước cụ thể: từ cách đặt tính, cách hạ các chữ số ở mỗi lần chia, cách viết
dấu phẩy ở thương, ... Sau đó, tôi lấy ví dụ tương tự rồi gọi những em có khả năng
học tốt, chữ viết đẹp và trình bày bài cẩn thận lên bảng làm để những em khác học
tập. Khi học sinh bắt đầu làm phần luyện tập - thực hành, tôi luôn quan sát để uốn
nắn, sửa chữa kịp thời cho các em nhất là những em khả năng làm bài chậm, tính
chưa cẩn thận khi làm bài. Trước khi làm bài, tôi còn nhắc các em nháp bài ra giấy
nháp, kiểm tra lại rồi mới ghi vào vở. Cuối tiết học tôi chuẩn bị sẵn ra bảng phụ
một số phép tính đã thực hiện nhưng trong đó có phép tính đúng, phép tính sai rồi
yêu cầu học sinh điền đúng, sai vào ô trống sau mỗi phép tính. Đồng thời học sinh
phải chỉ ra được nguyên nhân sai và tìm cách sửa lại cho đúng.
Sau mỗi lần chấm bài, tôi thường lấy bài của những em làm bài chính xác, trình
bày sạch đẹp cho học sinh khác xem (nhất là đối với những em làm bài sai, trình
bày bài cẩu thả) để các em học tập. Tôi luôn động viên, khích lệ khi thấy các em

làm bài tiến bộ, trình bày bài đã sạch đẹp hơn.
2.3.4. Giải pháp thứ tư: Ôn tập, củng cố các phép tính cộng, trừ, nhân, chia số tự
nhiên.
Phần đầu chương trình toán lớp 5 không có nội dung ôn tập, củng cố các phép tính
về số tự nhiên. Mà như chúng ta đã biết, đặc điểm của học sinh tiểu học là trí nhớ của
các em không bền vững nếu các em không được ôn tập, củng cố thường xuyên thì
những kiến thức mà các em học được ở lớp dưới sẽ bị quên đi. Vì vậy, tôi nhận thấy
rằng đây là một khó khăn cho học sinh khi học về các phép tính với số thập phân nói
chung và phép chia số thập phân nói riêng. Vì nếu các phép tính về số tự nhiên các em
thực hiện không thành thạo thì không thể học được các phép tính về số thập phân, nhất
là phép chia. Chính vì vậy, ngay từ đầu năm học, tôi nhắc nhở các em về nhà phải tự ôn
tập lại các phép tính cộng, trừ, nhân, chia đã học. Ngoài ra, tôi còn lồng ghép việc rèn kĩ
năng thực hành các phép tính về số tự nhiên vào các buổi sinh hoạt đầu giờ. Nếu thấy
em nào thực hiện chưa thành thạo thì tôi tranh thủ kèm thêm trong các tiết học toán trên
lớp. Đồng thời phân công học sinh học tốt trong lớp thường xuyên kèm cặp, giúp đỡ
bạn.
2.3.5. Giải pháp thứ năm: Rèn kĩ năng ước lượng thương khi thực hiện phép chia
số tự nhiên cho học sinh.
Khi thực hiện phép chia, việc ước lượng thương tốt sẽ giúp các em dễ dàng thực
hiện nhanh và chính xác phép chia.Còn trong quá trình thực hiện phép chia, kể cả chia
số tự nhiên hay số thập phân mà các em không có kĩ năng ước lượng thương thì tốc độ

9


làm bài của các em sẽ chậm, dễ sai sót và như vậy các em sẽ không hoàn thành bài
theo đúng yêu cầu của tiết học. Vì thế, ngay từ đầu năm học, khi củng cố cho học sinh
về phép chia với số tự nhiên tôi đã hướng dẫn các em cách ước lượng thương như sau:
* Ước lượng bằng cách làm tròn giảm:
Cách này áp dụng cho trường hợp số bị chia và số chia có chữ số tận cùng là 1; 2; 3 ;

hoặc 4 bằng cách bớt 1; 2; 3 hoặc 4 đơn vị của số bị chia đồng thời ở số chia để số bị
chia và số chia trở thành số tròn chục. Hoặc ta che bớt chữ số tận cùng của số bị chia
đó đi đồng thời cũng che bớt chữ số tận cùng của số chia ở lượt chia đó để ước lượng
thương.
* Ví dụ: Muốn ước lượng thương của 94 : 23 ta làm tròn 94 thành 90 và 23 thành 20
rồi nhẩm 90 : 20 hoặc 9 : 2 được 4 sau đó thử lại , lấy 23 x 4 = 92. Vậy 94 : 23 = 4
Hoặc có thể ước lượng thương của 675 : 83 như sau : Số bị chia ta che chữ số 5 ; số
chia che chữ số 3 rồi nhẩm 67 : 8 = 8 ; sau đó thử lại : 83 x 8 = 664, ta thấy 664 gần
bằng 675. Vậy 675 : 83 được thương là 8.
Với cách ước lượng này, nếu thử lại mà thấy thương ở lần chia đó khi nhân với số
chia vượt quá phần số lấy bên số bị chia thì giảm thương của lần chia đó đi 1 đơn vị,
hoặc thương ở lần chia đó khi nhân với số chia còn bé hơn nhiều so với phần số lấy
bên số bị chia thì tăng thương của lần chia đó lên 1 đơn vị.
* Ước lượng bằng cách làm tròn tăng:
Nếu số bị chia và số chia có tận cùng là 6; 7; 8; 9 thì làm tròn tăng ( tức là thêm 4;
3; 2; hoặc 1 đơn vị vào số bị chia và số chia để số bị chia và số chia là những số tròn
chục ).
* Ví dụ: Muốn ước lượng thương của 758 : 76 ta ước lượng như sau: 758 làm tròn
thành 760; 76 ta làm tròn thành 80. Ta thấy 760 và 80 đều là số tròn chục nên ta lấy
76 : 8 được 9 rồi thử lại bằng cách lấy 9 x 76 = 684, rồi lấy 758 - 684 = 74, ta thấy
số dư bé hơn số chia , tức là 74 < 76 nên 758 : 76 được thương ở lần chia này là 9 và
dư 74.
* Ước lượng bằng cách làm tròn cả tăng lẫn giảm:
Nếu ở số bị chia khi lấy để chia có chữ số tận cùng là 1; 2; 3; 4 thì ta làm tròn giảm
còn số chia có chữ số tận cùng là 5; 6; 7; 8 hoặc 9 thì ta làm tròn tăng và ngược lại rồi
thử lại.
* Ví dụ 1: Muốn ước lượng thương của 543 : 56 ta làm như sau :
Làm tròn giảm 543 thành 540 và làm tròn tăng 56 thành 60. Các số sau khi làm
tròn tăng hoặc giảm đều là những số tròn chục nên ta nhẩm 54: 6 được 9 và thử
thương bằng cách lấy 9 x 56 = 504 , lấy 543 – 504 = 39; ta thấy 39 < 56.

Vậy : 543 : 56 = 9 (dư 39).
10


* Ví dụ 2: Muốn ước lượng thương của 738 : 84 ta làm như sau:
Làm tròn tăng 738 thành 740 và làm tròn giảm 84 thành 80. Các số sau khi làm tròn
tăng hoặc giảm đều là những số tròn chục nên ta nhẩm 74 : 8 được 9 và thử lại bằng
cách lấy 9 x 84 = 756 , ta thấy 756 > 738 nên cần phải giảm thương đi 1 đơn vị thì
thương tìm được là 8. Thử lại: 8 x 84 = 672 , lấy 738 - 672 = 66 ( 66 < 84)
Vậy : 738 : 84 = 8 (dư 66).
Với cách làm này, khi học sinh thực hiện các phép chia tôi luôn nhắc nhở các em
vận dụng. Nếu thấy em nào còn lúng túng thì tôi sẽ hướng dẫn thêm. Làm thường
xuyên như vậy sẽ hình thành cho các em kĩ năng chia không những với số tự nhiên mà
cả với khi chia số thập phân.
2.3.6. Giải pháp thứ sáu: Dạy cho học sinh nắm vững các dạng chia số thập phân.
Trong chương trình Toán lớp 5, đối với phép chia số thập phân có các dạng chia như
sau:
- Chia một số thập phân cho một số tự nhiên.
- Chia một số thập phân cho 10, 100, 1000, ....
- Chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm được là một số thập phân.
- Chia một số tự nhiên cho một số thập phân.
- Chia một số thập phân cho một số thập phân.
Khi dạy mỗi dạng chia này, tôi thường tiến hành theo các bước:
Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu một bài toán đơn dưới dạng tóm tắt để học sinh
tự rút ra được phép tính phù hợp với bài toán ( Phép chia với số tự nhiên)
Bước 2: Bằng những câu hỏi gợi mở và dẫn dắt để học sinh thấy được sự cần thiết
phải chuyển phép chia với số thập phân thành phép chia với số tự nhiên.
Bước 3: Xây dựng kĩ thuật chia về cách đặt tính và tính.
Bước 4:Từ cách đặt tính rồi tính, học sinh rút ra quy tắc chia đối với dạng chia vừa
học.

Bước 5: Tổ chức cho học sinh Thực hành - Luyện tập để vận dụng, củng cố quy tắc
vừa hình thành.
* Ví dụ 1: Dạy bài: “Chia một số tự nhiên cho một số thập phân” [5]
- Học sinh đọc ví dụ 1 ( SGK Toán 5 trang 69).
- Hướng dẫn HS tìm hiểu đề đồng thời giáo viên tóm tắt đề bài lên bảng:
Tóm tắt: Diện tích : 57m2
Chiều dài : 9,5m
Chiều rộng: ....m?
- GV hỏi : Muốn biết chiều rộng mảnh vườn ta làm như thế nào?
( Học sinh nói : Ta lấy 57 : 9,5 )
- Giáo viên ghi bảng : 57 : 9,5 = ? (m)
- Giáo viên nêu vấn đề bằng cách :

11


Hỏi : Làm thế nào để đưa phép chia này về dạng chia các em đã được học là chia
một số tự nhiên cho một số tự nhiên?
Học sinh nêu: Nhân cả số bị chia và số chia với 10.
Học sinh thực hiện: 57 : 9,5 = (57 x 10) : ( 9,5 x 10)
57 : 9,5 = 570 : 95
- GV hỏi : Các em hãy quan sát và nhận xét phép tính 57 : 9,5 và phép tính 570 :
95
- Học sinh nêu: Viết thêm 1 chữ số 0 vào bên phải của số bị chia (57) và xoá dấu
phẩy ở số chia (9,5)
- Giáo viên đặt phép chia và gọi học sinh thực hiện phép chia:
570
9,5
0


6 (m)

- Từ việc thực hiện phép tính, học sinh nêu: 57 : 9,5 = 6 (m)
*Ví dụ 2 : Giáo viên ghi bảng: 99 : 8,25 = ? [5]
Học sinh quan sát và nêu nhận xét : phần thập phân của số chia (8,25) có hai
chữ số ở phần thập phân nên ta viết thêm vào bên phải số bị chia (99) hai chữ số 0
đồng thời bỏ dấu phẩy ở số chia (8,25)
Hỏi : Như vậy ta được phép chia nào ? ( phép chia 9900 : 825 )
Học sinh thực hiện phép chia vào bảng con - Giáo viên kiểm tra, nhận xét:
9900

8 , 25

1650
12
0
- GV hỏi: Vậy muốn chia một số tự nhiên cho một số thập phân ta làm như thế nào?
- Học sinh tự nêu theo cách hiểu của mình, giáo viên nhận xét, bổ sung và cho nhiều
học sinh nhắc lại như ghi nhớ trong sách giáo khoa (trang 69):
* Tóm lại: Tuy phép chia số thập phân có nhiều dạng nhưng khi dạy chúng ta cần
giúp học sinh đưa về hai dạng cơ bản là :
Dạng thứ nhất: Chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm được là số
thập phân.
Dạng thứ hai: Chia một số thập phân cho một số tự nhiên.
Vì vậy,trong quá trình dạy về chia số thập phân, giáo viên cần phải biết cách hướng
dẫn học sinh đưa về dạng nào, bằng cách nào để số chia cũng phải là một số tự nhiên.
Khi học sinh nắm vững hai dạng cơ bản này thì trong quá trình thực hiện phép chia
các em sẽ không bị lẫn lộn hay sai sót. Nếu thấy học sinh thực hiện phép chia chưa
đúng, trước tiên tôi yêu cầu học sinh xác định phép tính chia đó thuộc dạng nào và
nhắc lại quy tắc .


12


2.3.7. Giải pháp thứ bảy: Dự đoán được những sai lầm học sinh có thể mắc phải
khi thực hiện các dạng chia để tìm cách khắc phục.
Tôi đã nhiều năm được phân công dạy lớp 5, trong quá trình dạy học tôi thấy khi
thực hiện các dạng chia số thập phân, học sinh thường mắc phải một số sai lầm sau:
- Đối với dạng "Chia một số thập phân cho một số tự nhiên": Ở dạng chia này khi
thực hiện chia học sinh thường mắc sai lầm là: Khi lấy đến chữ số đầu tiên ở phần
thập phân của số bị chia các em quên không viết dấu phẩy vào thương nên để thương
tìm được là số tự nhiên. Hoặc khi hạ một chữ số tiếp theo của số bị chia nhưng được
số bé hơn số chia các em lại không thêm 0 vào thương rồi mới hạ đến chữ số tiếp theo
để chia tiếp.
- Đối với dạng "Chia một số tự nhiên cho một số tự nhiên mà thương tìm được là
một số thập phân":
Khi thực hiện chia ở dạng chia này, các em thường mắc sai lầm là: Khi chia còn dư
như chia số tự nhiên mà các em đã được học trước đây, để chia tiếp lẽ ra các em phải
thêm tiếp 0 vào số dư đồng thời viết dấu phẩy vào thương rồi chia tiếp nhưng các em
lại quên không viết dấu phẩy vào thương hoặc dừng lại để số dư chứ không thực hiện
tiếp phép chia.
- Đối với dạng "Chia một số tự nhiên cho một số thập phân": Khi thực hiện chia,
học sinh có thể mắc sai lầm là: các em quên không đếm xem ở phần thập phân của số
chia có bao nhiêu chữ số để viết thêm vào bên phải số bị chia bấy nhiêu chữ số 0, bỏ
dấu phẩy của số chia rồi chia như chia cho số tự nhiên mà các em để cả dấu phẩy ở số
chia để chia hoặc bỏ dấu phẩy ở số chia nhưng không viết thêm 0 vào bên phải số bị
chia hoặc viết thêm 0 nhưng chưa đúng.
- Đối với dạng "Chia một số thập phân cho một số thập phân": Khi thực hành chia
ngoài mắc những sai lầm như các trường hợp trên, học sinh còn có thể mắc sai lầm là:
các em bỏ dấu phẩy ở số chia nhưng chuyển dấu phẩy ở số bị chia chưa đúng. Đặc biệt

là với trường hợp mà số chữ số ở phân thập phân của số bị chia ít hơn số chữ số ở
phần thập phân của số chia, các em quên không viết thêm 0 vào bên phải của số bị
chia hoặc viết không đúng.
* Ví dụ 1 : 17,4 : 1,45 [5]
Các em hay chuyển thành phép chia sai là : 17,4 : 1,45 hoặc 17,40 : 1,45
- Đối với dạng "Chia nhẩm một số thập phân cho 10, 100, 1000, . . . hoặc cho 0,1;
0,01; 0,001; . . ."
Ở các trường hợp chia nhẩm này các em hay nhầm lẫn với nhau nên dẫn đến nhẩm
sai quy tắc. Vì vậy tôi luôn kiểm tra các quy tắc về chia nhẩm hoặc phép chia các dạng
số thập phân để khi thực hiện chia các em đỡ nhầm lẫn.
* Ví dụ 2:
13,96 : 1000 [5]
- Tính đúng: 13,96 : 1000 = 0,01396
13


- Tính sai: 13,96 : 1000 = 13960
Hoặc: 13,96 : 1000 = 0,1396
* Ví dụ 3 :
934 : 0,01 [5]
- Tính đúng: 934 : 0,01 = 93400
- Tính sai:
934 : 0,01= 9,34
Hoặc: 934 : 0,01= 93,4
934 : 0,01= 0,934
Do nắm được những sai lầm học sinh có thể mắc phải trong quá trình thực hiện tính
nên khi dạy đến dạng chia nào tôi thường khắc sâu về dạng đó. Đồng thời đưa ra
những sai lầm để học sinh rút được kinh nghiệm cho mình. Bằng cách: Tôi hay đưa ra
các bài tập ở dạng trắc nghiệm để học sinh tìm ra phép tính đúng hoặc sai và giải thích
lí do sai ở từng trường hợp. Làm như vậy các em sẽ nhớ lâu hơn và ít nhầm lẫn giữa

các dạng chia với nhau.
- Đối với tìm số dư trong phép chia số thập phân:
Vì học sinh lớp 5 mới bắt đầu được học về số thập phân nên với phép chia số thập
phân thường mới chỉ yêu cầu các em lấy thương đến 2 chữ số ở phần thập phân còn lại
để ở số dư. Riêng khi giải toán về tỉ số phần trăm, đối với trường hợp chia không hết
thì mới yêu cầu các em lấy thương gần đúng thì phần thập phân không quá 4 chữ số.
Vậy, làm thế nào để giúp các em tìm được số dư chính xác? Đây là câu hỏi đặt ra làm
tôi phải suy nghĩ rất nhiều. Vì thực tế tôi thấy khi tìm số dư của phép chia rất nhiều em
lúng túng, kể cả những em có khả năng tiếp thu bài tốt. Qua nghiên cứu và thực hiện,
ngoài việc hướng dẫn các em khi hạ các chữ số của số bị chia xuống để chia phải
thẳng cột để xác định số dư cho dễ và chữ số của số dư thuộc hàng nào thì giá trị của
số dư sẽ tương ứng với hàng đó. Ngoài ra, tôi còn có một số cách giúp học sinh tìm số
dư trong phép chia số thập phân như sau :
Cách 1: Lấy dấu phẩy của số bị chia ban đầu làm “mốc” rồi dùng thước gióng
thẳng xuống để xác định số dư :
* V í d ụ : Tìm số dư của phép chia, nếu chỉ lấy thương đến 2 chữ số ở phần thập
phân
a) 23,45 : 36
23, 45 36
1 85 0,65
05
Vậy : 23,45 : 36 = 0,65 (dư 0,05)

b) 0,408 : 0,52
0 , 40,8

0 , 52

4 4 0 0,78
24

Vậy: 0,408 : 0,52 = 0,78 (dư 0,0024)

Để học sinh xác định đúng số dư bằng cách này, tôi yêu cầu học sinh, khi chia, hạ
đến chữ số nào của số bị chia xuống để chia thì phải hạ thẳng cột, không được hạ lệch
14


sang hàng khác và trường hợp chuyển dấu phẩy của số bị chia sang phải trong trường
hợp chia cho số thập phân thì muốn xác định số dư phải căn cứ vào dấu phẩy lúc ban
đầu chứ không căn cứ vào dấu phẩy sau khi chuyển.
Cách 2: Sau khi các em thực hiện phép chia xong theo yêu cầu của bài, tôi còn
hướng dẫn các em tìm số dư bằng cách: Đếm xem phần thập phân của thương và số
chia có bao nhiêu chữ số thì dùng dấu phẩy tách ở số dư ra bấy nhiêu chữ số thập phân
kể từ phải sang trái.
* Ví dụ: Tìm số dư của các phép chia sau, nếu chỉ lấy thương đến 2 chữ số ở phần
thập phân :
a) 218 : 3,7
2180 3 , 7
- Ta thấy phần thập phân của số chia và thương
330 58,91
340
070
33
Vậy: 218 : 3,7 = 58,91 dư 0,033

có tất cả 3 chữ số nên số dư là 0,033.

Thử lại : 58,91 x 3,7 + 0,033 = 218

b) 0,863 : 0,42

0 , 86,3 0, 42
2 30 2,05
20
Vậy: 0,863 : 0,42 = 2,05 dư 0,002

- Ta thấy phần thập phân của số chia và thương
có tất cả 4 chữ số nên số dư là 0,0020 ta có
thể viết
gọn 0,002
Thử lại : 2,05 x 0,42 + 0,002 = 0,863

Ở phần này, tôi lưu ý học sinh: Khi chia phải lấy lần lượt tất cả các chữ số của số bị
chia để đem chia và nếu thêm 0 để chia tiếp thì phần thập phân của thương chỉ lấy số
chữ số nhất định.
2.3.8.Giải pháp thứ tám: Rèn cho học sinh thói quen kiểm tra kết quả phép chia
bằng cách thử lại.
Khi thực hiện phép chia, việc thử lại là cách tốt nhất để giúp các em kiểm tra kết
quả tính của mình xem đã chính xác chưa. Vì vậy trong quá trình giảng dạy, tôi luôn
nhắc nhở các em sau khi thực hiện phép chia xong thì phải thử lại kết quả bằng cách:
Lấy thương nhân với số chia rồi cộng với số dư (nếu có), nếu kết quả bằng số bị chia
thì kết quả phép chia của mình là đúng, nêu thấy kết quả khác với số bị chia thì phải
kiểm tra lại bài xem mình thực hiện phép chia sai ở đâu để chữa lại cho đúng.
Chẳng hạn : 33,14 : 58 = ?
- Học sinh làm trên bảng như sau:
33,14 58

15


4 14

08

0,57

Vậy: 33,14 : 58 = 0,57 (dư 0,08)
Giáo viên hỏi: Muốn biết bài làm của bạn đúng hay chưa đúng ta kiểm tra bằng
cách nào? (Ta lấy thương nhân với số chia cộng với số dư được kết quả bằng số bị
chia thì phép chia đúng)
Thử lại: 0,57 x 58 + 0,08 = 33,14
Bên cạnh đó, tôi luôn“tập cho học sinh có thói quen tự kiểm tra, đánh giá kết
quả luyện tập, thực hành. Rèn cho các em có thói quen tìm nhiều phương án và lựa
chọn phương án hợp lí nhất để giải quyết vấn đề của bài tập, không nên thỏa mãn
với kết quả đã đạt được. Động viên học sinh tự nêu những hạn chế (nếu có) trong
bài làm của mình hoặc của bạn và tự đề xuất phương án điều chỉnh.” [6]
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Năm học 2016 - 2017, tôi đã áp dụng những giải pháp trên vào dạy học nhằm
nâng cao chất lương dạy học môn Toán nói chung và dạy chia số thập phân nói
riêng cho học sinh ở lớp 5C mà tôi trực tiếp giảng dạy. Đến giữa học kì II, tôi tiến
hành khảo sát chất lượng môn Toán đối với học sinh 5C (lớp dạy thực nghiệm) và
lớp 5B (lớp đối chứng) Trường Tiểu học Thiệu Nguyên như sau:
Đề khảo sát có nội dung như sau:
Đề kiểm tra - Thời gian 40 phút (không kể thời gian giao đề)
Câu1: (1 điểm) Viết tiếp vào chỗ chấm để được câu trả lời đúng:
Số thập phân gồm 38 đơn vị, 7 phần mười, 9 phần nghìn là:.............................
Câu 2: (1 điểm) Điền số thích hợp vào chỗ chấm:
34ha 18 m2 = .........ha
Câu 3: (1 điểm) Viết tiếp vào chỗ chấm để được câu trả lời đúng:
Một hình hộp chữ nhật có diện tích xung quanh là 240dm2, chiều rộng 7dm,
chiều cao 8dm. Chiều dài hình hộp chữ nhật là:.............................

Câu4: (1 điểm) Viết tiếp vào chỗ chấm để được câu trả lời đúng:
Một hình tròn có diện tích là 78,5cm2. Chu vi của hình tròn đó là:...........................
Câu 5: (1 điểm) Viết tiếp vào chỗ chấm để được câu trả lời đúng:
Tìm x, biết 0,16 : x = 2 - 1,6 Vậy x =............
Câu 6: (1 điểm) Khoanh vào chữ cái đặt trước câu trả lời đúng:
Một lớp học có 32 học sinh, trong đó số học sinh nam là 12em. Hỏi số học sinh
nam chiếm bao nhiêu phần trăm số học sinh cả lớp?
A. 0,375
B. 37%
C. 37,5%
D. 37,05%
Câu 7: (1 điểm) Nối biểu thức với kết quả đúng:
201 : 1,5 + 4,7 x 8,6
16


174,2
Câu 8: (1
điểm) Đặt tính 174,42
rồi tính:
a) 73,8 x 9,6

174,24

174

b) 52,32 : 1,8

Câu 9:(1 điểm) Một thửa ruộng hình thang có đáy bé là 40m, đáy lớn bằng


5
đáy
2

bé, chiều cao bằng trung bình cộng hai đáy. Tính diện tích của thửa ruộng đó.
Câu 10: (1 điểm) Quãng đường AB dài 195km. Hai ô tô khởi hành cùng một lúc.
Một ô tô đi từ A đến B với vận tốc 42km/giờ, một ô tô đi từ B đến A với vận tốc
36km/giờ. Hỏi từ lúc bắt đầu đi sau mấy giờ hai ô tô gặp nhau?
Kết quả thu được như sau:
* Lớp thực nghiệm ( lớp 5C):
Tổng số học sinh
Điểm 9 - 10
32
22

Điểm 7 - 8
8

Điểm 5 - 6
2

Điểm dưới 5
0

* Lớp đối chứng ( lớp 5B):
Tổng số học sinh
Điểm 9 - 10
32
14


Điểm 7 - 8
7

Điểm 5 - 6
9

Điểm dưới 5
2

Kết quả trên cho thấy lớp 5C học sinh được dạy thực nghiệm đã có kết quả kiểm
tra cao hơn rất nhiều so với kết quả kiểm tra của lớp 5B chưa dạy thực nghiệm.
Mặc dù chất lượng đầu năm học của hai lớp này là gần tương đương nhau. Việc vận
dụng các giải pháp trên đã cho thấy các em không còn lúng túng khi thực hiện phép
chia với số thập phân. Ngược lại các em đã có kỹ năng thực hiện phép chia thành
thạo, tốc độ tính cũng nhanh hơn dẫn đến kết quả làm bài cao hơn. Đó cũng chính
là động lực để tôi tiếp tục hoàn thiện sáng kiến này và đưa ra cho đồng nghiệp tham
khảo, đóng góp ý kiến để có những giải pháp hay hơn, hiệu quả cao hơn trong quá
trình dạy học.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Kết luận
Để hiệu quả dạy - học ngày một cao hơn nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đề ra,
tôi rút ra được một số kinh nghiệm như sau :
+ Đầu năm học, giáo viên phải có kế hoạch điều tra, theo dõi để nắm chắc từng đối
tượng học sinh về tình hình học tập cũng như hoàn cảnh gia đình của từng học sinh.
+ Trước khi lên lớp phải luôn nghiên cứu kĩ bài dạy để xác định mục tiêu, chuẩn kiến
thức kĩ năng, nội dung cơ bản trọng tâm của bài dạy. Mặt khác, phải dự đoán được
những sai lầm mà học sinh có thể mắc phải trong tiết học để có biện pháp khắc phục.

17



+ Trong tiết dạy giáo viên cần: “Đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh; coi trọng việc
động viên, khuyến khích sự cố gắng trong học tập, rèn luyện của học sinh; giúp học
sinh phát huy nhiều nhất khả năng; đảm bảo kịp thời, công bằng, khách quan.” [7]
+ Rèn cho học sinh thói quen học tập nghiêm túc, cẩn thận, khoa học ngay từ đầu
năm học, tránh để học sinh học vẹt, học đối phó, ….
+ Trong tiết dạy, giáo viên phải luôn tạo được không khí học tập sôi nổi, thoải mái,
không gò bó, áp đặt để các em có hứng thú học tập và tiếp thu bài tốt hơn; phải phát
huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh.
+ Giáo viên cần lựa chọn phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, hình thức tổ
chức dạy học thích hợp nhằm giúp học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. [8]
+ Thường xuyên liên lạc với phụ huynh của những học sinh chậm tiến bộ hoặc nghỉ
học nhiều; động viên phụ huynh tạo điều kiện cho các em có thời gian tự học; đồng
thời tranh thủ thời gian để đôn đốc, kèm cặp thêm khi các em học ở nhà.
+ Bản thân giáo viên phải luôn tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao kiến thức, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng sư phạm nhằm đáp ứng với sự đổi mới nội
dung, phương pháp giáo dục hiện hành.
+ Giáo viên cần phải có lòng yêu nghề, tâm huyết với nghề, luôn tạo sự gần gũi,
thân thiện với học sinh và luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
- Kiến nghị:
Để tiếp tục góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở bậc Tiểu học nói chung và chất
lượng môn Toán lớp 5 nói riêng, tôi mong các cấp lãnh đạo, chính quyền địa phương,
các tổ chức đoàn thể làm tốt công tác tham mưu, tuyên truyền tới các bậc phụ huynh
nói riêng và người dân nói chung nhận thức đúng đắn về tinh thần đổi mới của giáo
dục hiện nay nhằm chung tay, góp sức trong việc nâng cao chất lượng giáo dục để đáp
ứng với mục tiêu giáo dục đề ra.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân rút ra từ quá trình dạy học của
mình. Bước đầu đã thu được những hiệu quả tương đối khả quan nhưng dù sao đây
cũng chỉ là kinh nghiệm của bản thân nên không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót
rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp để kinh nghiệm của tôi ngày

một tốt hơn, nhằm góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển và đạt
được mục tiêu đề ra. Tôi xin chân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Thanh Hóa, ngày 9 tháng 4 năm 2017

…………........………………………..
………………………………………..
………………………………………..
………………………………………..
………………………………………..
………………………………………..

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người thực hiện

18


………………………………………..
………………………………………..
………………………………………..

Nguyễn Thị Nga

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật giáo dục.
2.Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên cấp Tiểu học (TH 15 - Một số phương pháp dạy
học tích cực ở tiểu học)
3.Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở tiểu học - Lớp 5.

4. Tạp chí khoa học.
5.Sách giáo khoa Toán 5- Nhà xuất bản Giáo dục.
6.Sách giáo viên Toán 5- Nhà xuất bản Giáo dục.
7.Hướng dẫn thực hiện đánh giá học sinh tiểu học theo thông tư 30/2014/TTBGDĐT đánh giá học sinh tiểu học; Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT sửa đổi Quy
định đánh giá học sinh tiểu học kèm theo thông tư 30/2014/TT-BGDĐT
tiểu học
8.Phương pháp dạy học các môn học ở tiểu học.

19



×