[DOCUMENT TITLE]
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
A: PHẦN MỞ ĐẦU
Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu:
Tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc Phật giáo và sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học
Phật giáo đến người con người Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng tư tưởng triết học phận giáo
Phạm vi con người Việt Nam và giới trẻ.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
+Dựa trên các tài liệu có về Phật giáo và thực tiễn tìm tòi học hỏi
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
+Có cái nhìn đúng đắng hơn về tư tưởng triết học Phật giáo.
+Nhìn sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật Giáo trên phép biện chứng.
Kết cấu của đề tài:
Gồm 4 chương: Chương mở đầu: giới thiệu đề tài.
Chương 1: Tư tưởng triết học Phật giáo
Chương 2: Sự ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo ảnh
hưởng đến đời sống và con người Việt Nam
Chương 3: Kết luận
1
[DOCUMENT TITLE]
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
B: PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
1.1. NGUỒN GỐC RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO
1.1.1. Bối cảnh lịch sử Ấn Độ trước Phật giáo
Về địa lý, phía Bắc của Ấn Độ là dãy Himalaya cao lớn và dài tạo nên một hàng
rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại.
Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan.
Nền văn hóa chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ Đà (Veda). Các bộ lạc du
mục người Aryan đã mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Tây Bắc Ấn và
lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm trước công nguyên
Văn hoá Vệ Đà nghiêng về thờ phụng nhiều thần thánh cũng như có các quan
điểm thần bí về vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến Vệ Đà thành một tôn
giáo (đạo Bà La Môn) và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính trong đó đẳng
cấp Bà La Môn (tầng lớp tăng lữ) là giai cấp thống trị
Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử thoát thai từ đạo Bà La
Môn (hay sớm hơn từ tư tưởng Vệ Đà). Đạo Bà La Môn còn cho rằng tồn tại một
bản chất của vạn vật, đó là Brahman (hay Phạm Thiên). Việc giai cấp tăng lữ được
đề cao và được hưởng mọi ưu đãi bổng lộc trong xã hội đã tạo điều kiện cho việc
phân hoá thành phần này ra rất nhiều hướng triết lý hay hành đạo khác nhau và đôi
khi chống chọi phản bác nhau. Trong thời gian trước khi Thích Ca thành đạo, đã
có rất nhiều trường phái tu luyện. Các xu hướng triết lý cũng phân hoá mạnh như
là các xu hướng khoái lạc, ngẫu nhiên, duy vật, hoài nghi mọi thứ, huyền bí ma
thuật, tu khổ hạnh, tu đức hạnh, tụng kinh...
1.1.2. Đạo Phật ra đời
Đức Phật sinh tại Lumbinī, một thành phố ở gần Kapilavastu, thủ phủ của một vùng mà
ngày nay nằm giữa biên giới Ấn Độ và Nêpal, bản địa của bộ tộc Thích Ca (Sakya).
Trước kia, dựa vào các tài liệu sử học Sri Lanka cổ xưa, các học giả phương Tây vẫn
chấp nhận năm sinh của Đức Phật là 563 trước CN., một truyền thống thứ hai xuất phát
2
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
từ Ấn Độ đã nhận năm sinh của Đức Phật là 450 trước CN. Các nghiên cứu mới nhất dựa
vào Dīpavamsa gợi ý rất có thể Ngài sinh năm 485 trước CN .
Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa ( Siddharta), con trai của Trịnh Phạn
Vương ( Suđhodana) vua nước Trịnh Phạn (Tuy nhiên tham khảo một số tài liệu trích dẫn
người ta không gọi ngày là thái tử Thời Đức Phật sinh ra, ở vùng chân núi Hi Mã Lạp Sơn
vẫn còn có một số nước cộng hòa sống theo tổ chức bộ tộc chống lại sự bành trướng ngày
càng gia tăng của các chế độ quân chủ mới ở vùng lưu vực trung phần sông Hằng. Trong
số những nước này có nước của bộ tộc Thích ca (Sakya), và cha của Thích Ca Cồ Đàm là
một người cai trị bộ tộc này. Cha của Ngài là một thành viên thuộc thiểu số cầm quyền
của bộ tộc và đồng thời Ngài cũng là một chiến binh, và mặc dầu vào thời đó, có thể xã
hội Bà La Môn truyền thống như đã mô tả ở chương trước chưa tạo được ảnh hưởng quan
trọng nào trong vùng ven lưu vực sông Hằng, nhưng khi Đức Phật đã qua lại giữa xã hội
Bà La Môn, Ngài cảm thấy có thể mô tả thích hợp nhất nguồn gốc xã hội của mình là thuộc
giai cấp chiến binh ksatriya . Các truyền thống sau này, vì chỉ biết đến những chế độ quân
chủ đã từng xâm chiếm các nước cộng hòa trước kia, nên đã ngộ nhận khi gọi Thích Ca
Siddhartha là một "hoàng tử" và cha Ngài là một "ông vua")
Vào một đêm Mahamaia, người vợ chính của Suđhodana, Vua của người Saia mơ
thấy mình được đưa tới hồ thiêng Anavatápta ở Himalaya. Sau khi các thiên thần tắm rửa
cho bà ở trong hồ thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có đoá hoa sen ở vòi bước tới
và chui vào sườn bà. Ngày hôm sau các nhà thông thái được vời tới để giải mơ của Hoàng
hậu. Các nhà thông thái cho rằng giấc mơ là điềm Hoàng hậu đang có mang và sẽ sinh hạ
được một Hoàng tử tuyệt vời, người sau này sẽ trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc người
thầy của thế giới. Đến ngày, đến tháng, Hoàng hậu Mahamaia trở về nhà cha mình để sinh
con. Thế nhưng vừa đến khu vườn Lumbini, cách thủ đô Capilavastu của người Sakia
không xa, Hoàng hậu trở dạ và vị Hoàng tử đã ra đời. Vừa ra đời, vị Hoàng tử tí hon đã
đứng ngay dậy, đi bảy bước và nói: “ Đây là kiếp cuối cùng của ta, từ nay ta không phải
luôn hồi một kiếp nào nữa!”.
Đến ngày thứ năm một nghi thức trọng thể được tổ chức và Hoàng tử được đặt tên
là Siđhartha. Để ngăn cản Hoàng tử không nghĩ tới việc tu hành, đức vua cha đã tìm mọi
cách tạo ra quanh người con trai mình một cuộc sống vương giả. Hoàng tử được học mọi
3
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
kiến thức để sau này trở thành một vị vua tài ba anh minh trị vì một đất nước ấn Độ bao la.
Thế rồi, nhà vua và quần thần đã kén cho Hoàng tử một người vợ kiều diễm. Nhưng cuộc
đời vương giả không cán dỗ được Hoàng tử trẻ tuổi. Bốn sự việc do các thần tạo ra đã làm
thay đổi hẳn cuộc đời Hoàng tử Siddhartha. Đó là một lần khi đang dạo chơi trong vườn,
Hoàng tử thấy một ông già gày còm, ốm yếu rồi nhận ra một điều rằng mọi người rồi ai
cũng phải già yếu như thế. ít lâu sau Hoàng tử lại được chứng kiến người ốm và người
chết. Ba hoàn cảnh trên làm cho Hoàng tử băn khoăn, lo nghĩ về kiếp người và muốn cứu
con người khỏi những trầm luôn đau khổ của kiếp luôn hồi: Sinh, lão, bệnh, tử chính sự
việc thứ tư đã đem đến cho Hoàng tử niềm hi vọng và an ủi. Lần đó, Hoàng tử nhìn thấy
một vị hành khất dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự tại. Vừa nhìn thấy vị hành khất
Hoàng tử như bừng tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở thành nhà hành khất như thế.
Được tin, đức vua Suddhôđana tìm mọi cách ngăn cản Hoàng tử. Thế nhưng Hoàng
tử không thể nào xua đi được bốn sự kiện mà mình đã chứng kiến khiến lòng dạ của Hoàng
tử không lúc nào được thanh thản. Ngay cả tin mừng công chúa Yashôdhara sinh cho chàng
một Hoàng nam cũng không làm cho Hoàng tử Sidhartha vui. Ngày đêm khi đứa con ra
đời, khi mọi người ngủ say, Hoàng tử lặng lẽ đến nhìn vợ và con lần cuối rối đánh thức
người đánh xe dậy cùng minh cưỡi con ngựa Canthaca yêu quý rời khỏi cung. Khi đã rời
khỏi đô thành Hoàng tử trút bộ áo Hoàng tộc và mặc lên người bộ quần áo thường dân.
Hoàng tử dùng kiếm cắt bộ tóc dài của mình và nhờ người đánh xe mang mớ tóc và quần
áo về trao lại cho đức vua. Còn con ngựa Canthana vì đau khổ phải chia tay với ông chủ
của nó nên đã lăn ra chết ngay tại chỗ. Rời hoàng cung, dứt áo ra đi, Hoàng tử Sidhartha
đã trở thành nhà tu hành.
Thoạt đầu, Hoàng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu khổ hạnh. Sau đó, ngài
vào rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các phép thiền định và những triết
lý của upanishad. Học thuyết và thực hành giải thoát cá nhân của Upanishad không hấp
dẫn Hoàng tử. Chàng đi tiếp và nhập vào nhóm năm người tu khổ hạnh. Suốt sáu năm
trường ép xác Hoàng tử gần như chỉ còn bộ xương khô mà vẫn chưa tìm ra chân lý của sự
giải thoát. Ngài bèn bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh và trở lại ăn uống bình thường.
Khi Hoàng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dưới gốc cây bồ đề ở ngoại
vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nước Magadha. Cho đến một
4
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
hôm có nàng Sudjata, con gái của một nông dân trong vùng đem cho ngài một bát cơm to
nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền
định và nguyện sẽ không đứng dậy nếu không tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự đau
khổ. Và Hoàng tử đã ngồi dưới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm. Bảy tuần lễ đó là cả một
chuỗi ngày đầy thử thách. Để phá sự thiền định của Hoàng tử, con quỹ dữ Mara tìm mọi
cách làm chàng nản chí. Thoạt đầu, quỷ Mara biến thành một sứ giả đến báo cho Hoàng tử
một tin bịa đặt là em trai Hoàng tử là Đevađatta nổi loạn, bắt nhốt đức vua cha vào ngục
và chiếm nàng Yashodrara làm vợ. Thế nhưng tin dữ đó không làm cho Hoàng tử bận tâm.
Mara bèn cho gọi các quỷ dữ tới làm ra mưa to, gió lớn gây ra động đất, lụt lội nhưng
Hoàng tử vẫn ngồi bình thản dưới gốc cây bồ đề, cảm phục trước ý chí kiên định của Hoàng
tử, rắn thần Naga dùng thân làm tán cho mưa gió cho Hoàng tử ngồi. Thấy thế quỷ dữ Mara
bèn dùng biện pháp quyết liệt và tinh tế hơn để công phá vào thành trì kiên định của Hoàng
tử Sidhartha. Nó cho gọi ba cô con gái xinh đẹp của mình là các nàng Khát vọng, khoái lạc
và Dục vọng tới múa nhảy mê hoặc nhà tu hành trẻ tuổi. Thế nhưng biện pháp cuối cùng
của quỷ Mara cũng thất bại và lũ quỷ phải dời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng ngày 49,
Siddhartha đã tìm ra bí mật của sự đau khổ, đã tìm ra được vì sao thế giới lại tràn đầy khổ
đau và đã tìm ra được cách để chiến thắng sự đau khổ. Siddhartha đã hoàn toàn giác ngộ
và trở thành Buddha (Đấng giác ngộ). Sau khi giác ngộ Đức phật còn ngồi tiếp bảy ngày
nữa dưới cây bồ đề suy ngẫm về những chân lý diệu kỳ mà mình đã khám phá. Ngài phân
vân không biết có nên phổ biến đạo pháp của mình cho thế giới không vì có huyền diệu
quá khó hiểu quá đối với mọi người. Chính thượng đế Brahma phải giáng trần để khích lệ
Đức phật truyền bá đạo pháp của mình cho thế gian. Chỉ khi đó Phật mới dời khỏi gốc cây
bồ đề đi đến khu vườn Lộc Uyển gần Varanasi để giảng bài thuyết pháp đầu tiên cho năm
người bạn tu khổ hạnh của mình. Sự kiện này được ghi chép lại như một sự kiện quan trọng
nhất của Đạo phật và được gọi là Phật quay bánh xe Đạo pháp ( chuyển Pháp Luân ). Giáo
pháp mới của Đạ phật đã gây ấn tượng mạnh đối với năm nhà tu, họ nhanh chóng trở thành
những môn đồ đầu tiên của Đức Phật. Vài ngày sau số môn đồ của Phật đã tăng lên 60
người, theo thời gian số môn đồ Đạo Phật ngày càng tăng và các tổ chức tăng gia đã ra đời.
5
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
Khi Ðức Phật 80 tuổi, Ngài tự nghĩ: “Ta đã làm tất cả những gì ta có thể làm để giúp
cho mọi người. Ta đã hướng dẫn họ làm thế nào để sống với tình thương và tránh làm hại
sự sống của kẻ khác. Bây giờ, đã đến lúc ta sẽ từ bỏ thân xác này một cách an lạc”.
Lúc đó, Ðức Phật gọi A Nan: “Ðã đến lúc chúng ta trở về Ca Tỳ La Vệ một lần cuối.
Ta muốn viên tịch tại thành phố nơi ta đã trưởng thành”.
A Nan nghe xong hết sức đau buồn, ông thưa: “Bạch Ðức Thế Tôn, xin Ngài đừng
lìa bỏ chúng con. Ðã nhiều năm qua, Ngài là thầy dẫn đường của chúng con. Chúng con
biết sẽ làm gì đây khi thầy vắng bóng?”. Nói xong, ông sụt sùi khóc.
Phật an ủi: “Ðừng khóc nữa, A Nan thân yêu của ta. Ta luôn luôn dạy rằng, chết là
điều tất nhiên của sự sống, không có gì phải lo sợ cả, con phải hiểu rõ điều đó. Khi ta
viên tịch rồi, hãy lấy những lời dạy của ta làm thầy dẫn đường. Nếu con khắc ghi những
lời dạy này trong trái tim của con, con sẽ không cần đến ta nữa. Bây giờ chúng ta hãy lên
đường trở về Ca Tỳ La Vệ”.
Ðức Phật và các đệ tử lên đường đi về hướng Bắc. Họ đi ngang qua những ngôi làng
ở Câu Thi Na (Kushinagar) cách Ca Tỳ La Vệ không xa. Ðức Phật nói với các đệ tử dừng
lại nơi đây và nghỉ ngơi. Người nói với A Nan rằng: “Ðây là nơi ta sẽ viên tịch”.
Mặc dù đây là những ngày cuối cùng của đời sống, Ðức Phật vẫn không ngừng cứu
độ chúng sinh. Một ông Phạm chí tên Tu Bạt Ðà La (Subhaddha) đã 120 tuổi xin được
gặp Phật và Ngài đã đồng ý. Phật đã lắng nghe những thắc mắc của ông về việc tu hành
và Ngài đã ban cho ông những lời chỉ dẫn rất chân tình. Sau khi nghe xong, mọi nghi ngờ
của ông đều tan biến, và ông đã tìm được nguồn an lạc hạnh phúc ngay khi Ðức Phật nói
pháp xong.
Sau đó, Ðức Phật đi vào khu vườn và nằm giữa hai thân cây Sa la đang nở hoa trắng
xóa. Những đệ tử tụ tập vây quanh Ngài. Một số người đang sụt sùi khóc, nhưng những
người đã hoàn toàn an lạc giải thoát thì im lặng.
Ðức Phật ban bố những lời dạy cuối cùng: “Hãy ghi nhớ những gì ta đã dạy các
con. Tham ái là nguyên nhân của tất cả bất hạnh. Mọi vật sớm hay muộn cũng sẽ biến
đổi, đừng nên bám víu vào bất cứ cái gì. Tốt hơn hết nên dốc lòng thanh lọc tâm trí. Hãy
tinh tấn lên để đạt tới giải thoát”.
Lúc này, Ðức Phật xoay mình về bên phải, đầu đặt lên bàn tay phải. Ngài nhắm mắt
lại và an nhiên viên tịch. Hình ảnh Hoa Sa la được mô tả rụng xuống như mưa.
6
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
1.2. TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Những lời của Đức Phật nói ra, ban đầu được gọi là Giáo Pháp (Dhamma), bao
gồm ba phương diện, đó là: Giáo Lý (Pariyatti), Thực Hành (Patipatti) và Chứng
Ngộ (Pativedha)
Phần Giáo Lý còn được gọi là “Pháp Học”.
Phần pháp Thực Hành còn gọi là “Pháp Hành”, và
Phần pháp Chứng Ngộ còn được gọi là “Pháp Giác Ngộ” hay “Pháp Thành”.
Toàn bộ Giáo Pháp được lưu giữ lại trong Kinh Điển được gọi là Tam Tạng
Kinh (Tipitaka). Những dịch giả dịchTam Tạng Kinh qua Anh ngữ đã ước lượng Tam
Tạng Kinh lớn hơn khoảng 11 lần so với toàn bộ Kinh Thánh củaThiên Chúa Giáo. Tam
Tạng Kinh chứa đựng Những Lời Dạy của Đức Phật do chính Đức Phật nói ra
hơn 45năm, từ sau khi Người Giác Ngộ thành đạo cho đến khi Bát-Niết-bàn.
Tipitaka trong tiếng Pali có nghĩa là “Ba Cái Rỗ” (Ti = ba, Pitaka = cái rỗ). Nó không chỉ
mang ý nghĩa là vật chứa đựng mà mang ý nghĩa ‘truyền thừa’ hay chuyền tay cho nhau,
giống những người thợ chuyền những rỗ đất hay cát từ người này đến người kia theo một
hàng dài cho đến cuối cùng để sử dụng, cũng giống như Những Cái Rỗ chứa Giáo
pháp được chuyền tay, truyền thụ qua nhiều thế kỷ từ người Thầy cho đến những học trò.
(Ở Việt Nam, chúng ta dùng theo cách gọi của người Trung Hoa, gọi là Tam Tạng Kinh,
tức là ba cái ‘kho’ chứa kinh điển).
“Ba Rỗ Kinh” hay ba Tạng Kinh đó là: Luật Tạng (Vinaya Pitaka), bao gồm những luật
lệ và quy định của Tăng Đoàn Tu Sĩ (Tăng và Ni); Kinh Tạng (Sutta Pitaka), chứa đựng
những bài thuyết giảng giáo pháp của Đức Phậttruyền dạy cho những cá nhân một người
hay cho những nhóm người thuộc đủ mọi tầng lớp trong suốt thời giantại thế sau khi đắc
đạo của Người; và Vi Diệu Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka), giảng dạy bốn vấn đề tột
cùng,rốt ráo: Tâm (Citta), Những Yếu Tố thuộc Tâm hay Danh (Cetasikas), Sắc (Rupa,
tức Vật Chất) và Niết-bàn (Nibbana).
Theo Hòa Thượng Sayadaw U Thittilan ở Miến Điện, những văn bản Kinh Điển bằng
tiếng Pali ở các nước theoPhật Giáo Nguyên Thủy, như Miến Điện, Lào, Cam-bu-chia,
Sri Lanka, Thái Lan, về thực chất nội dung, ngữ nghĩa và ngay cả những cụm từ đã được
dùng đều hoàn toàn là giống nhau. Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pali Tipitaka chứa đựng
tất cả mọi điều cần thiết để dẫn đến Con Đường dẫn đến mục đích cứu cánh tột cùng là
Niết-bàn, sựchấm dứt khổ.
Mỗi Truyền Thống Có Một Phiên Bản Riêng Của Tam Tạng Kinh Điển Tipitaka
Có tất cả ba phiên bản Tam Tạng Kinh Điển Tipitaka được chấp nhận bởi ba trường
phái Phật Giáo vẫn còn hiện hành cho đến ngày hôm nay, đó là:
7
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
(1) Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pali (Pali Tipitaka) của Phật Giáo Nguyên
Thủy (Theravada, hay còn gọi là truyền thống Trưởng Lão Bộ).
(2) Đại Tam Tạng Kinh của trường phái Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana Tripitaka) bằng
tiếng Trung Hoa, vốn là những bản dịch từ kinh điển bằng tiếng Phạn (Sanskrit).
(3) Tam Tạng Kinh Tây Tạng (Tibetan Tripitaka) bằng ngôn ngữ Tây Tạng, còn được gọi
là Kagyur (bao gồmnhững bản dịch từ kinh điển bằng tiếng Phạn và Bốn Đại Kinh Mật
Thừa Tây Tạng (Tantras) và Tangyur (bao gồmnhững tác phẩm của những học giả, luận
sư người Ấn Độ và Tây Tạng).
Hình 1.2.1. Nơi lưu giữ các bộ kinh điển (tại Hàn Quốc)
-Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và nhân sinh quan,
chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tượng trong vũ trụ ( chử pháp ) là vô thuỷ, vô chung
(vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên tục (vô thường ) không có
một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các Pháp đều thuộc về một giới ( vạn vật đều
nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới. Mỗi một pháp ( mỗi một sự v iệc hiện tượng, hay một
lớp sự việc hiện tượng) đều ảnh hưởng đến toàn Pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay
các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và qui định
lẫn nhau.
Tác phẩm “ thanh dung thực luận” của kinh phật viết rằng: “ Có người cố chấp là có Đại
tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng thường định ra chu pháp(1) đạo
Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều chi chi phối bởi luật nhân quả, biến hoá vô thường,
không có cái bản ngã cố định, không có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh
8
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
viễn cả. Tất cả đều theo luật nhân quả biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là
thường còn ( vĩnh viễn ). Cái nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Quả
lại nhờ có duyên mà thành nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà
thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới ... Cứ thế nối nhau vô cùng
vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.
Như vậy ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học
một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo thế giới của các “đấng
tối cao” của “Thượng đế” và cho rằng bản thể của thế giới tồn tại khách quan và không do
vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy chính là sự thường hằng trong vận động của vũ
trụ, là muôn ngàn hình thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó
không dừng lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó muôn hình vạn trạng nhưng lại tuân hành nghiêm
ngặt theo luật nhân quả.
Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không ngừng, thành, trụ, hoại,
diệt ( sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong). Quá trình đó phổ biến khắp vạn
vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất lượng của sự vật và hiện tượng.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thường của vạn vật, đã xây dựng nền
thuyết “ nhân duyên”. trong thuyết “nhân duyên” có ba khái niệm chủ yếu là Nhân, Quả
và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, được gọi là Nhân.
- Cái gì tập lại từ Nhân được gọi là Quả.
- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không phải là một cái
gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự biến chuyển của
vạn Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa sắp thành.
Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những mối liên hệ thích
hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những yếu tố đó chính là Duyên.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô thường của nó, từ
quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại. Phật giáo đã trình bày thuyết “ Thập Nhị
Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân duyên) được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong
thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên kết nghiệp quả.
9
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
+ Vô minh: ( là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên sáng tỏ).
+ Hành: ( là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả, tạo ra cái nghiệp,
cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô minh và là nhân cho Thức).
+ Thức: ( Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả cho hành và làm
nhân cho Danh sắc).
+ Danh sắc: ( Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên của ta. Do danh
sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân cho Lục xứ).
+ Lục xứ hay lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lưỡi, tai, thân và tri thức. Đã
có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật. Do Lục nhập mà có xúc - tiếp
xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm nhân cho Xúc.)
+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên cmở rộng xúc, cảm
giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và làm nhân cho Thụ.)
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào mình. Do thụ mà có
ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.)
+ ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái làm quả cho Thụ
và làm nhân cho Thủ.)
+ Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà Thủ làm quả cho ái
và làm nhân cho Hữu.)
+ Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái nghiệp. Do Hữu mà có
sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).
+ Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm người, làm súc sinh. Do sinh
mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).
+ Lão tử: ( Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải chết. Nhưng chết sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan đi là hết nhưng linh hồn vẫn
ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái nghiệp rơi vào vòng luân hồi ( khổ não).
Thập nhị nhân duyên như nước chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn, không bao giờ ngừng,
nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau lại mà sinh mãi mãi gọ là Duyên
hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả cho đoạn trước, rồi lại do các duyên mà làm
nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân Duyên mà vạn vật cứ sinh hoá vô thường.
10
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
- Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không gian và thời gian giữa
vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới không tính đến cái lớn nhỏ, không
tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ nhân
quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo nên nó. Cũng như nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ
bao la. Trong một có tất cả trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt.
Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì diệt.
Vạn vât sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau mà ra. Nên vạn vật
chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng biến hoá vô tận vô thường vô thực thể, vô bản ngã,
chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thường của vạn vật, vạn sự theo nhân duyên là thường
còn không thay đổi.
Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng chỉ là dòng biến
hoá hư ảo vô cùng, không có gì là thường định, là thực, là không thực có sinh, có diệt, có
người, có mình, có cảnh, có vật, có không gian, có thời gian. Đó chính là cái chân lý cho
ta thấy được cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ. Thấy được điều đó gọi là “ chân như” là đạt
tới cõi hạnh phúc, cực lạc, không sinh, không diệt, niết bàn.
Thế giới của chúng sinh (loài người) cũng do nhân duyên kết hợp mà thành. Đó là sự kết
hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.
- Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố “ sắc” ( địa, thuỷ, hoá, phong ) tức là
cái cảm giác được.
- Cái tôi tâm lý ( tinh thần ) linh hồn tức là “tâm” với 4 yếu tố chỉ có tên gọi mà không có
hình chất gọi là “ Danh”.
Trong “Sắc’ gồm những cái nhìn thấy được cũng như những thứ không nhìn thấy được nếu
nó nằm trong quá trình biến đổi của “sắc” gọi là “vô biến sắc” như vật chất chuyển hoá
thành năng lượng chẳng hạn.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý ( tinh thần ) của con người là:
+ Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sướng, đưa đến sự xúc chạm lĩnh hội thân hay
tâm.
+ Tưởng: Suy nghĩ, tư tưởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thức: Nhận thức, phân biệt đối tượng tâm lý ta là ta.
11
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh vật cụ thể có danh
và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn thì là diệt. Quá trình hợp tan
ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận.
- Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân hoá không ngừng
không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn. Không có sự vật riêng biệt, cố
định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không còn là cái tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn
viết “ Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ,
Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.
Như vậy thế giới là biến ảo vô thường, vô định. Chỉ có những cái đó mới là chân thực, vĩnh
viễn, thường hằng. Nếu không nhận thức được nó thì con người sẽ lầm tưởng ta tồn tại
mãi mãi, cái gì cũng thường định, cái gì cũng của ta. Do đó, mà con người cứ khát ái, tham
dục cứ mong muốn và hành động chiếm đoạt tạo ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể
xấu gây nên nghiệp báo, rơi vào bể khổ triền miên không bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không thấy được cái luật
nhân bản của mình ( bản thể chân thực ). Khi đã mắc vào sự chi phối của Luật Nhân Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi, luân chuyển tuần hoàn không ngừng,
không dứt.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học Phật giáo mà có từ
trong Upanishad.
Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu quả việc làm của ta,
do hành động của thân thể ta. Được gọi là “ thân nghiệp”, còn hậu quả của những lời nói
của ta, phát ngôn của ta thì được gọi làg “ khẩu nghiệp”. Hay những cái do ý nghĩ của ta,
do tâm tue của ta gây nên được gọi là ‘ý nghiệp”. Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp,
ý nghiệp là do ta tham dục mà thành, do ta muốn thoả mãn tham vọng của mình gây nên.
Sở dĩ ta tham dục vì ta chưa hiểu đươc chân bản vốn có của ta cũng như vạn vật là luôn
luôn biến đổi không có gì là thường định và vĩnh viễn cả.
Cuộc đời con người là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và các kiếp sống trước
rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện tại cộng với các
nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện hay ác.
12
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo phật cho rằng, sau khi
một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và đầu thai vào một
sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người, loài vật thậm chí cỏ cây).
Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của những kiếp trước gây ra. Đó cũng là cách
lý giải căn nguyên nỗi khổ ở đời con người.
Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “ thập nhị nhân duyên” làm cho
con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chương tìm con đường diệt khổ. Con
đường giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận thức được nó mà cao hơn ta phải hành
động, phải thấm nhuần tứ diệu đế.
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng sinh phải thấu hiểu
và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
1. Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là khổ, chết là khổ,
ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà phải chia lìa nhau là khổ, mất là khổ
mà được cũng là khổ. .... Những nỗi khổ ấy từ đâu? chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế.
2. Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do những gì tụ tập lại mà tạo ra nỗi khổ
cho chúng sinh?
Đó là do con người có lòng tham, dâm (giận dữ ), si ( si mê, cuồng mê, mê muội) và dục
vọng. Lòng tham và dục vọng của con người xâu xé là do con người không nắm được nhân
duyên. Vốn như là một định luật chi phối toàn vũ trụ. Chúng sinh khômg biết rằng mọi cái
là ảo ảnh, sắc sắc, không không. Cái tôi tưởng là có nhưng thực là không. Vì không hiểu
được ra nỗi khổ triền miên, từ đời này qua đời khác.
3. Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “ Thập nhị nhân duyên” để tìm ra được căn nguyên của
sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ. Thực chất là thoát khỏi nghiệp
chướng, luân hồi, sinh tử.
4. Đạo đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ trong thế giới nội
tâm ( thực nghiệm tâm linh ). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là thực hành YOGA để đạt tới cõi
siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi phận là đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới chừng
đó sẽ thấy được chân như và thanh thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm
thường, tức là đạt tới cói “niết bàn” không sinh, không diệt.
13
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật tập trung thiên
định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8 nguyên tắc ( Bát chính Đạo - buộc
ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm:
- Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái, không để cho những cái sai
che lấp sự sáng suốt.
- Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho người khác.
- Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà, không được bỏ điều nhân
nghĩa.
- Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên để đạt tới chân lý.
- Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chân chính, không nghĩ đến những điều bạo
ngược gian ác.
- Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính, không bị thoái chí, lay
chuyển trước mọi cán dỗ.
Muốn thực hiện được “ Bát chính đạo” thì phải có phương pháp để thực hiện nhằm
ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những người làm điều thiện có
lợi ích cho mình và cho người. Nội dung của các phương pháp đó là thực hiện “ Ngũ
giới” ( năm điều răn ) và “Lục độ” (Sáu phép tu ).
- “Ngũ giới” gồm:
+ Bất sát: Không sát sinh
+ Bất đạo:
Không làm điều phi nghĩa.
+ Bất dâm:
Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ khác, không nói dối.
- “Lục độ” gồm:
+ Bố thí: Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành thực chứ không
để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ được mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
14
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
+ Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính không để cho cái xấu cho
lấp.
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát hành đạo”, “Ngũ
giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra khỏi nỗi khổ. Phật giáo không
chủ trương giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ
người bóc lột người, chống lại chủ nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những
nhược điểm đồng thời cũng là ưu điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trước bể khổ của chúng
sinh Phật giáo chủ trương cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Như
vậy Phật giáo nguyên thuỷ có tư tưởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo ( vô ngã, vô tạo
giả) và có tư tưởng biện chứng ( vô thường, lý thuyết Duyên khởi ). Tuy nhiên, Triết học
Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái
tâm vô minh của con người tạo ra.
Hình 1.2.2. Hình ảnh về hai bộ kinh điển (tại Việt Nam)
15
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
Chương 2: SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC
PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI VIỆT NAM
HIỆN NAY.
2.1. SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO
2.1.1. Lịch sử truyền bá Phật giáo trên thế giới
Ánh sáng Phật giáo bắt đầu soi đến nhân gian từ khi đức Thích-ca Thành Đạo dưới gốc
cây Bồ-đề.
Sau khi Thành Đạo Ngài liền tìm đến hóa độ 5 vị Tỷ-kheo lại Lộc uyển, rồi đến
1250 vị tỷ-kheo thường tùy tùng Ngài và vô số Tăng Ni cùng tín đồ khác. Với một tinh
thần bình đẳng từ bi khác Bà-la-môn giáo, đức Phật đã nhiếp hóa người rất dễ dàng. Từ
vua chí dân, từ nghèo đến giàu, từ hạng tiện dân đến quý tộc, không một hạng nào Ngài
bỏ rơi mà không nhiếp hóa. Bởi vậy, trong giáo đoàn của Ngài đủ các tầng lớp xuất gia tu
học. Uy danh Ngài và đệ tử mỗi ngày lan rộng nên bên trong đã làm cho những kẻ hiếu
danh như ông Đề-bà-đạt-đa mưu phản nghịch, bên ngoài đã làm cho bọn Bà-la-môn tìm
kế chống phá. Song rốt cuộc họ đều phải nhượng bộ vì giáo lý viên dung và nhân cách vô
thượng của Ngài. Ngài vẫn thản nhiên, phân lãnh đồ chúng đi giáo hóa các phương. Trải
qua 45 năm không biết nhàm mỏi. Cho đến ngày cuối cùng, trong rừng Ta-la, Ngài còn
ân cần răn dạy và độ cho ông già Tu-bạt-đa-la xuất gia.
16
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
Trong thời gian truyền bá này có nhiều đệ tử đã quên mình để truyền bá chánh pháp.
Trong số này có Ngài Tỷ-kheo Phú-lâu-na (Purna) dám xin Phật đi một mình đến xứ Dulê-na lạ lùng, có tiếng hung dữ, để truyền bá, hoặc như Ngài Mục-kiền-liên đã bị ngoại
đạo ám hại trên đường hóa đạo trở về v.v...
Nhờ giáo pháp cao thâm cũng như sự tận tâm cố gắng đó nên mặc dù bị ngoại đạo
cản trở, trong thời gian non nửa thế kỷ, đạo Phật đã xây dựng một cơ sở đồ sộ khắp lưu
vực sông Hằng, sông A-cách-la: phía bắc đến Tuyết sơn, nam đến xứ Ma-da-đà, đông
đến Thuận-bạch (Champa) và tây đến Câu-diệm-di (Kosambi).
Sau khi Phật nhập Niết-bàn, Ngài Ma-ha Ca-diếp (MahaKassapa) thay Phật thống
lãnh Tăng chúng. Đa số hàng vô học (đắc quả) theo Phật mà nhập Niết-bàn, còn hàng
hữu học thì buồn bã. Ngược lại có những vị Tỷ-kheo thì vui mừng, như ông Tu-bạt-đà-la
đã nói: "Đại Sa môn còn thì ta cứ bị ràng buộc theo những điều tịnh, bất tịnh, nên làm,
không nên làm, nay Đại Sa môn mất, ta được tự do, muốn làm thì làm, không muốn thì
nghĩ".
Nhân đó Ngài Ca-diếp liền tập họp 500 Thánh chúng tại núi Thất-diệp-khốt ở
thành Vương-xá do A-xà-thế làm ngoại hộ để kiết tập Pháp và Luật
của Phật dạy trong vòng 7 tháng, kể từ đầu hạ an cư tiếp theo năm Phật Niết-bàn. Đồng
thời ở chỗ khác, Ngài Bà-sư-ca (Cuspa) cũng chiêu tập hàng vạn Tăng chúng kiết tập
Pháp tạng. Nhân đó manh nha chia thành hai bộ phái: Thượng tọa và Đại chúng, để sau
này biệt lập hẳn nhau.
Sau Phật nhật diệt độ 100 năm, Ngài trưởng lão Da-xá, qua nước Tỳ-xá-ly, nhân
nghe phái Tỷ-kheo xứ Bạc-kỳ ra 10 điều luật mới (mà về sau phái Thượng tọa cho đó là
10 điều phi pháp) nên mở hội cùng thảo luận ráo riết, rốt cuộc 10 điều đó vẫn được phái
Bạt-kỳ khư khư bảo thủ, lại được vua nước Ma-kiệt-đà là Ca-la A-dục binh vực. Ngài
Da-xá trước sự tình ấy, liền họp 700 Tăng chúng tuyên bố 10 điều kia là phi pháp và kiết
tập Pháp tạng lần thứ hai. Do vậy hai bộ phái thành hình rõ rệt, rồi mỗi ngày vì càng cách
17
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
xa Phật, vì nhân tâm biến đổi, địa thế bất đồng, ở trong cơn loạn lạc đó, đoàn quân của Álịch-sơn đại vương từ Hy Lạp tràn vào Ấn Độ, nên hai bộ phái này lại lần nữa chia thêm
ra 18 bộ phái cùng với 2 bộ gốc thành 20 bộ. Đây là sự biến đổi lần thứ nhất trong lịch sử
Phật giáo Ấn Độ. Trong thời gian độ 100 năm này, bên trong thì có Ngài luật sư Mụckiền-liên tử và pháp sư Ưu-ba-cúc-đa tận lực truyền trì luật pháp, bên ngoài sau khi đoàn
quân của Á-lịch-
sơn đại vương tuy rút đi nhưng sự liên lạc giữa người Ấn Độ và người Ai Cập, Hy Lạp
vẫn còn, nên Phật giáo không những chịu ảnh hưởng từ nghệ thuật Hy Lạp để tạo thành
nghệ thuật riêng cho mình mà còn truyền bá giáo lý Phật giáo vào hai nước kia. Phật giáo
thời này như vậy kể ra có phần phát triển song vì còn chấp chặc hình thức truyền thống
địa phương, thậm chí bảo thủ tư tưởng bộ phái nên sự lưu truyền vẫn còn ở các địa hạt
như xưa.
Đến thời A-dục vương triều Khổng tước, nghĩa là sau Phật nhập diệt trên 200 trăm,
trong Phật giáo lại có biến đổi lần thứ hai. Khác với lần biến đổi trước thuộc phạm vi
tranh cãi về giáo luật, lần này cũng nghe họ tranh cãi về 5 sự (Du sở dụ, vô tri, do dự, tha
linh nhập, đạo nhân thanh cố khởi) của ông Tỷ-kheo Đại Thiên. Nghĩa là tranh cãi về
phạm vi giáo lý và A-la-hán, về ý nghĩa thành tựu của quả vị A-la-hán. Phái đa văn thì
tôn trọng ông là bậc Đại thừa Bồ-tát và công nhận 5 sự kia, trái lại phái Đại đức thì cho
ông là kẻ ngoại đạo lẫn lộn trong Phật giáo, là kẻ phạm tội nghịch và công kích 5 sự kia,
trong chúng lại có nhiều kẻ ngoại đạo xen vào lộn xộn khiến nhiều năm chúng Tăng
không Bồ-tát được. Vua A-dục đã phát tâm hộ pháp gạn lọc thánh phàm. Kết quả là lần
kiết tập thứ ba được triệu tập tại thành Hoa Thị xứ trung
Ấn (kinh đô của đế quốc Ấn Độ) dưới sự chủ trì của Trưởng lão Tỷ kheo Mục-kiền-liêntử-đế-tu, cộng với sự ủng hộ triệt để của vua A-dục.
A-dục là một ông vua Phật tử có công lớn trong lịch sử truyền bá Phật giáo, hơn
nữa là một vĩ nhân trong lịch sử nhân văn của thế giới. Trước khi đầu Phật ông là một
18
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
ông vua thông minh, đảm lược hợp với tánh tàn bạo độc đoán (vì ác, nên người sau gọi là
Chiên-đà-la A-dục) đã nối nghiệp ông nội và phụ hoàng, mở rộng đế quốc Ma-kiệt-đà
thống nhất lãnh thổ Ấn Độ dồn các tiểu quốc Ấn Độ về dưới sự cai trị của mình, làm cho
các lân bang thấy vậy khiếp sợ. Nhưng sau nhờ gặp Tỷ-kheo Bi-cu-đà giáo hóa cho, liền
hối hận về tội lỗi đã gây ra chiến tranh và giết hại hàng triệu sanh linh, nên qui đầu theo
Phật, trở thành một ông vua nhân từ, không còn dùng uy quyền để sát hại mà lại dùng uy
thế ấy để truyền bá Phật pháp trong nhân dân (vì vậy người sau gọi là Đạt-ma A-dục).
Ông thường ban hành các Sắc dụ khuyên nhân dân thực hành Phật pháp, khắc ghi lời
Phật dạy vào các trụ đá để kỷ niệm các nơi Phật tích và dựng khắp nơi để truyền bá rộng
rãi lời Phật trong dân chúng. Xây 84.000 bảo tháp để tôn thờ Xá-lợi, lại cho em ruột là
Tỳ-địa-du-ca, con trai là Ma-hê-đà (Mahinda) con gái là Tăng-già-mật (Sanghamita)xuất
gia qua Tích Lan (Sư Tử quốc, Đồng Diệp),
Để truyền bá Chánh pháp và các Ngài Mahajna và Sahadeva qua các xứ gần Hy-mã-lạpsơn. Ngài Sama và Indra qua Miến điện. Các xứ Cận đông như Syria dưới thời vua Antochus II, Ai Cập (Egypte) dưới thời vua Ptolémée IV, Macédoine dưới thời vua
Antogono Goratras, Epire dưới thời vua Alexandre, Magas dưới thời vua Cyrène (cứ theo
vua đá số của vua). Đồng thời với sự truyền bá mãnh liệt và có phương pháp ấy, lại có
những vị Cao Tăng như Ngài Đàm Vô đức, Mục-kiền-liên-tử-đế-tu lo chỉnh đốn nội bộ,
nên Phật giáo thời này cực thịnh gây được ảnh hưởng cả bề sâu lẫn bề rộng trong dân
chúng. Phật giáo về trước lưu hành ở chung quanh lưu vực sông Hằng và Kha-cách-la,
nay vượt biên cương truyền khắp lãnh thổ Ấn Độ và lan đến các nước ngoài trị quyền của
nhà vua. Qua thành tích công nghiệp và nội dung những sắc lệnh của vua A-dục như:
"Này các người, đây là bản chất và cội rễ của chúng ta: phụng sự tôn giáo của mình và
không làm giảm giá trị hay mạt sát các tôn giáo khác". Và "các Tỷ-kheo sẽ thuyết pháp
cho các người Bà-la-môn, cho các Tướng sĩ, cho các giòng họ Sát-đế-lỵ, Tỳ-xá, Thủ-đàla, cho tất cả mọi người ở các đẳng cấp. Các người sẽ thành đạo trong khắp các cõi trong
đất nước" v.v... Nhà sử học Gustave Lebon trong cuốn Les Civilisations de I'Inde đã nêu
lên và ca ngợi 3 đặc điểm của sắc lịnh ấy như sau:
19
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
1. Một lòng từ bao la rộng rãi bao trùm mọi người mọi vật cho đến loài muôn thú.
2. Một tinh thần bình đẳng hoàn toàn, khuyên răn tất cả mọi người ở tất cả mọi
đẳng cấp nên học và tu các thiện nghiệp.
3. Một lòng tôn trọng đối với tất cả các tôn giáo.
Nhà văn hào Masson Oursel đã phải tán thán" "Vua A-dục không những là một đế
vương hùng cường nhất Ấn Độ mà còn là một bậc hiền nhân đàn anh của nhân loại".
Sau khi vua A-dục qua đời, phương nam có Ma-hê-đà (Mahinda) truyền Phật giáo
đến nước Sư-tử (tức là Tích Lan ngày nay) được quốc dân sùng bái nhiệt liệt, nên thêm
một lần nữa kiết tập đã được tổ chức tại nước này và dùng văn Pà-li để chép Tam-tạng,
làm nơi căn cứ của hệ thống Phật giáo nam phương sau này.
Phương bắc, có Trưởng lão Mạc-điền-địa (Majjhantika - Thera)truyền Phật giáo và
2 nước Ca-thấp-di-la, Kiền-đà-ra, (Kasmìra Gandhàra) cảm hóa hàng vạn triệu người
theo Phật. Ngài Đại-lặc (Mahàrakita) khi truyền đạo vào vùng Yona tây bắc Ấn thuộc đế
quốc Hy Lạp (Ionians, Baktrian Greek) đã giảng kinh Ca-la-ra-ma (Kàlakàrama-sutta)
khiến cho dân cư ở đó đều thấm nhuần Phật
giáo, về sau vào những năm 153 trước Tây lịch ở vùng này có vị vua Di-lan-đà (Millinda)
rất thâm tín và ủng hộ Phật giáo. Những đạo lý thảo luận giữa ông và Tỷ-kheo Nàgasena
- Thera, được chép lại thành sách có tên là Millinda Panha (Pali).
Thời này kéo dài đến 600 năm sau Phật nhập diệt, tức là lúc các bộ phái cùng nhau
ly, hiệp, biến, hóa đến cực điểm, lại là lúc đế quốc Ma-kiệt-đà bị vua Ấn đạt-la ở nam Ấn
lật đổ, lập nên An-đạt-la vương triều, Bà-la-môn thừa cơ hoạt động lấn át Phật giáo, nên
đa số Tăng đồ miền Bắc Ấn đi qua nước Đại-nhục-chi gặp được Ca-nị-sắc-ca (Kaniska)
là một ông vua ủng hộ Phật giáo không kém vua A-dục, chiêu tập 500 vị đại đức kiết tập
Pháp tạng lần thứ 4 tại nước Ca-thấp-di-la vào những năm 150 sau Tây lịch (nếu kể lần
kiết tập tại Tích-lan vị chi 5 lần) để dung hòa các mối quan kiến giải dị đồng của bộ phái,
lần này một tác phẩm mới vĩ đại - Luận Tỳ-bà-sa 200 cuốn - xuất hiện, tóm thâu hết thảy
kiến giải xuất sắc vào trong ấy. Do đó trung tâm Phật giáo nay lại đổi sang tây bắc Ấn
chứ không phải là trung tâm Ấn như trước nữa.
20
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
Trải qua thời gian 600 năm sau Phật nhập diệt, Phật giáo có 4 kỳ kiết tập như trên.
Nhưng 2 kỳ đầu chỉ nhóm chúng tụng lại lời Phật dạy cho nhớ mà thôi, mãi đến kỳ tập
kiết sau mới dùng văn tự chép thành kinh điển. Kết quả thành 2 lối văn: Pàli và Phạn văn.
Nhờ đó Phật gióa còn lưu truyền đến ngày nay hầu khắp thế giới và trong hai kỳ kiết tập
đầu, thiên về giới luật và hai kỳ kiết tập sau lại thiên về giáo lý, nhờ vậy thánh điển
truyền đến ngày nay đầy đủ cả hai phần giới luật và đạo lý.
Tóm lại, trong khoảng 600 năm sau Phật nhập diệt là thời gian Nguyên thủy và
Tiểu thừa Phật giáo chiếm quyền ưu tiên tại Ấn Độ. Ta có thể chia thời gian này làm 3
thời kỳ như sau:
1. Thời kỳ thứ nhất: Khoảng 100 năm sau Phật nhập diệt. Thời gian này nhờ ảnh
hưởng cảm hóa của Phật còn mạnh, các đệ tử chỉ một mặt tuân theo Phật chế, chưa có
điều gì xảy ra, ấy là thời thuần túy.
2. Thời kỳ thứ hai: Khoảng từ 100 năm đến 400 năm sau Phật nhập diệt. Trong thời
gian này bộ phái chia ráo riết, tuy đồng một tín ngưỡng, đồng tôn thờ một giáo chủ.
Nguyên do chính yếu nhất của sự phân chia là phái bảo thủ thì trọng thực hành còn phái
hý luận thích tư biện. Phái bảo thủ chú tâm giữ trong qui luật, còn phái lý luận thì dùng
triết lý của Áo nghĩa thư đã ảnh hưởng sâu đậm trong giới trí thức Ấn Độ, học giáo lý để
mượn về chú giải Áo nghĩa thư làm cho chánh tà hỗn tạp nên phái này chú ý đến đạo lý
nhiều hơn.
Cả hai phái thành biệt lập, không thể hòa hợp lại ấy là thời kỳ phân chia bộ phái.
3. Thời kỳ thứ ba: khoảng từ 400 đến 600 năm sau Phật nhập diệt. Vì lẽ không hợp
nhau nên mỗi bên đều cực lực phát huy những điều sáng lạn, phát huy những tư tưởng
Đại thừa bấy lâu tiềm ẩn để tạo thành nền Phật giáo Đại thừa, còn Tiểu thừa ở Ấn Độ thì
từ đây lặn xuống. Mãi đến 700 năm sau Phật nhập diệt, có Ngài Ma-lê-bạt-ma
(Harimarman) ở bắc Ấn viết bộ luận [Thành thật], phát huy đạo lý nhân không, pháp
không có ý tổng hợp giáo lý Đại thừa, Tiểu thừa giáo tại Ấn Độ. Ấy là thời kỳ hết phân
chia chung kết Tiểu thừa.
Riêng về Đại thừa, thì kể ra có triệu chứng phục hưng từ lần kiết tập thứ 3 để phán
định năm sự của ông Đại Thiên. Nhưng mãi đến khoảng 600 năm sau Phật nhập diệt,
Ngài Mã Minh ra đời ở bắc Ấn, tác thành bộ luận Khởi tín, vua Ca-nị-sắc-ca ủng hộ
21
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
truyền bá, tiếp đó 100 năm sau có ngài Long-thọ ra đời ở nam Ấn (xứ Barar) làm luận
Trung quán, luận Thập nhị môn, luận Trí độ, đề xướng Không tôn, rồi truyền cho đệ tử là
Long Tri và Đề-bà, nối nghiệp giảng luận tạo ra Bách-luận, phá tà hiển chánh, nên Đại
thừa được phát dương mạnh mẽ (Phật giáo truyền vào nước ta thời này).
Sau Ngài Long Thọ 200 năm, có Ngài Vô Trước, sanh từ bắc Ấn, sau đến trung
Ấn, xướng lý
Đại thừa Duy thức và em là Thế Thân, trước theo Tiểu thừa làm luận Câu xá, sau trở lại
Đại thừa cùng với anh cực lực phát huy Duy thức. Do đó đại thừa phát đạt. Khoảng 1000
năm sau Phật nhập diệt có nhiều vị Đại đức, Luận sư ra đời, truyền bá giáo lý. Đến đây
Ấn Độ gồm đủ Không tôn và Hữu tôn, khiến Bà-la-môn khó bề thực hiện cái mộng phục
hưng của họ.
Nếu kể tiếp theo 2 lần biến đổi trước, thì lần thứ 3 vào thời kết tập thứ 4, luận Tỳbà-sa xuất hiện, lần thứ 4 vào thời Mã Minh, Long Thọ và lần thứ 5 vào thời Ngài Vô
Trước, Thế Thân ra đời. Trong sự biến đổi này, hai lần trước có tính cách phân chia bộ
phái và chấm dứt sự phân chia tiểu thừa, lần thứ 4 đại thừa Không tôn xuất hiện, qua lần
thứ 5 đại thừa hữu tôn ra đời. Phật giáo thời này là thời cực thịnh nhất.
Nhưng mãi đến khoảng 1500 năm sau Phật nhập diệt, bên trong vì nghĩa học kém
suy, đa số Tăng đồ chỉ chuộng Mật tôn và hình thức, bên ngoài Ba-la-môn được cơ hội
phục hưng, bài xích Phật giáo. Lại có, Hồi giáo ở Thổ Nhĩ Kỳ (Turquie) xâm nhập Ấn Độ
(1018 sau TL) dùng thủ đoạn khốc liệt gia hại Phật giáo, đập chùa phá tháp, áp bức Tăng
Ni nên Phật giáo phải bị suy vi hầu như tuyệt tích. Lịch sử Phật giáo Ấn Độ tuy chấm dứt
nơi đây, song cũng như lúc Phật giáo Ấn Độ bắt đầu suy tàn thì Phật giáo các nước khác
lại hưng thịnh, chẳng hạn như Phật giáo ở Trung Hoa thời này rất là thịnh cường rực rỡ.
Thời gian trôi qua, ngoại trừ mấy ngôi cổ tháp Phật tích, Phật giáo có thể nói không còn
lưu hành trên đất Ấn Độ. Mãi đến thế kỷ XIX, nước Anh cai trị Ấn Độ, do đó người
Châu Âu tới lui nghiên cứu văn học Ấn Độ mà trong đó có Phật giáo. Họ đã tìm thấy giá
trị cao quý của Phật giáo đối với hạnh phúc của nhân loại, nên xôn xao khen ngợi làm
cho người Ấn sực tỉnh lại, nhận ra rằng của quý của dân tộc lâu nay bị chôn vùi trong
quên lãng, nên họ liền hô hào: "Phục hưng Phật giáo".
Rayendrachililala tiên sinh là một học giả Phật giáo, xuất hiện giữa phong trào
22
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
nghiên cứu văn hóa Ấn Độ của người Tây Âu. Ông căn cứ vào 144 loại hình Phạn bản ở
Népal, làm ra cuốn "Népal Phật giáo bổn" (Thelita-Sanskrit Buddhist literature of Népal)
và cho xuất bản cuốn "Tiểu phẩm Bát-nhã" vào năm 1888. Ông là người có công đối với
sự nghiên cứu Phật giáo.
Năm 1893 Sarat Chandrodas tiên sinh lại đề xướng tên hội "Nghiên cứu Thánh
điển Phật giáo Ấn Độ và nhân loại học thuật". Người Ấn càng bị kích thích về vấn đề
nghiên cứu Phật giáo.
Năm 1891 hội đại Bồ-đề được thành lập mà người khởi và có công nhất là Ngài
Dhammapala. Hội này có thế lực trong việc vận động phục hưng Phật giáo Ấn Độ
hiện thời. Có chi hội đặt tại Nữu Ước, Luân Đôn v.v... xuất bản Nguyệt San [The
MahaBodhi Buddhism] để truyền bá Phật giáo khắp Âu Mỹ. Rồi đến "Toàn Tích Lan
Phật giáo Đại hội" (1918) "Toàn Ấn Độ Phật giáo Đại hội" (1928) trước sau thành lập
dựa trên một mục đích "Chấn hưng Phật giáo".
Gần đây, Phật giáo Ấn Độ trỗi dậy mạnh mẽ trở lại. Hội "Phật giáo thế giới"
thành lập tại Tích Lan, mở đại hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ nhất vào năm 1950,
gồm 500 đại diện và thông tín viên của 15 quốc gia Phật giáo tham dự. Tất cả các
nước này đều trở thành chi hội của Phật giáo thế giới. Sau đó,ông Hội trưởng của hội
là bác sĩ Malalasckera đã lần lượt đi thăm các chi hội. Hội nghị của hội mở lần thứ hai
tại Nhật Bản năm 1953, và sau đó còn nhiều hội nghị tiếp tục mở ra cho đến nay. Hội
đã xuất bản hai tờ báo: "New Letter và The Buddhist Word" chuyên đăng các tin tức
và bài giáo lý phát hành khắp các nước. Vào khoảng 400 triệu người đã có 115 triệu
tín đồ Phật giáo. Đây là một vinh quang lớn cho Phật giáo khắp thế giới vậy.
23
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
Hình 2.1.1. Bản đồ truyền bá phật giáo trên thế giới
2.1.2. Lịch sử truyền bá Phật giáo tại Việt Nam.
Hai thế kỷ trước công nguyên các trung tâm Phật Giáo tại miền duyên hải Ðông Nam Ấn
Ðộ như Amaravati và Nagarjunakonda... đã trở thành những trung tâm Phật Giáo Ðại
Thừa rất hưng thịnh. Chính từ phong trào Phật Giáo Ðại Thừa hưng thịnh tại Ấn Ðộ các
vị Tăng sĩ đã lên các thương thuyền qua truyền đạo Phật và do đó trung tâm Phật Giáo
Luy Lâu tại Giao Chỉ (Việt Nam thời bấy giờ) được thành lập. Hiện nay tại Luy Lâu còn
những di tích lịch sử trong đó chùa Dâu còn gọi là chùa Pháp Vân, nơi mà sau nầy vào
khoảng năm 580 Thiền sư Tỳ Ni Ða Lưu Chi (người Ấn Ðộ) đã hành đạo tại đây.
Phật Giáo từ Ấn Ðộ được truyền trực tiếp qua Việt Nam trước rồi sau đó mới truyền qua
Trung Quốc chứ không phải Phật Giáo từ Trung Quốc truyền qua Việt Nam như những
sách cũ đã ghi (Theo sách "Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, quyển I, của Nguyễn Lang,
1994).
24
TIỂU LUẬN: TRIẾT HỌC
[DOCUMENT TITLE]
Theo sử gia Nhật Bản, ông Kamata, trong sách Trung Quốc Phật Giáo Thông Sử, xuất
bản tại đại học Ðông Kinh năm 1981, đã nhiều lần xác nhận rằng Phật Giáo đã du nhập
vào Trung Quốc từ Việt Nam, có đoạn ông gọi là Việt Nam, có đoạn gọi là Giao Chỉ. Ðề
cập đến Phật Giáo Giao Chỉ tức là đề cập đến trung tâm Phật Giáo tại Luy Lâu.
Do đâu mà có từ Luy Lâu ? Tiếng Việt gọi là Dâu, tiếng Hán phiên âm ra Luy Lâu còn
gọi là Liên Lâu, nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng nay là huyện Thuận Thành, tỉnh
Hà Bắc, Bắc Việt. Ngày xưa Việt Nam có 3 thị trấn cổ là Luy Lâu, Long Biên và Cổ Loa.
Riêng Luy Lâu nằm trên bờ sông Dâu cách sông Ðuống 5 cây số về phía Bắc. Dân Luy
Lâu có nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa rất nổi tiếng. Về địa thế, có nhiều đường thủy
bộ chạy ngang qua Luy Lâu khiến nơi đây thành một trung tâm giao dịch rất quan trọng.
Có những đường bộ như con đường đi Phả Lại, Ðông Triều đến biên giới Việt Trung
(nay là đường số 18). Ðường thủy từ Dâu nối sông Ðuống, sông Hồng ra biển, hoặc nối
với sông Lục Ðầu, sông Thái Bình rồi ra biển.
Vì địa thế thuận lợi cho việc giao thông như thế nên Dâu là trung tâm thương mại rất sầm
uất đương thời. Các thương gia Ấn Ðộ và Trung Quốc đều đổ về đây để mua bán các
nông sản, lâm sản, vải vóc và các hàng công kỹ nghệ khác rất thạnh hành. Họ mua hàng
tại đây để đem về nước hoặc trên đường buôn bán tiếp tục qua các nước khác trong vùng.
Luy Lâu còn là trung tâm chính trị, là thủ phủ của Giao Châu qua nhiều thời đại của
chính quyền đô hộ từ phương Bắc. Thủ phủ nầy có thể được xây dựng từ thời Triệu Ðà,
179 năm trước công nguyên. Sau khi nhà Hán chiếm được Nam Việt của Triệu Ðà, họ
vẫn giữ nguyên Luy Lâu làm trị sở của Giao Chỉ. Trong sách biên niên của nhà Hán ghi
10 huyện của quận Giao Chỉ trong đó Luy Lâu là đứng đầu.
Nhờ vào vị thế như vậy nên chẳng những các thương nhân mà các vị Tu sĩ Phật Giáo Ấn
Ðộ cũng đến đây để truyền bá Phật Giáo, học chữ Hán và dịch kinh điển từ tiếng Phạn ra
Hán văn trước rồi mới tiếp tục công việc công việc truyền bá dễ dàng hơn để đi sâu vào
25