Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SKKN phương pháp dạy từ vựng tiếng anh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.18 KB, 10 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO DUY TIÊN

TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỌI SƠN

PHƯƠNG PHÁP DẠY TỪ VỰNG TIẾNG ANH
CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
NĂM HỌC 2016-2017

Cấp học: Tiểu học
Lĩnh vực: Chuyên môn
Môn học: Tiếng Anh

Người thực hiện: Bùi Thu Tiên
Chức vụ: Giáo viên

1


I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Mục đích nghiên cứu
Ngày nay chúng ta đang từng bước xây dựng một nền giáo dục chất lượng
ngang tầm thế giới, cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin,càng đặt ra
nhiều cơ hội và thách thức cho giáo viên. Đặc biệt trong xu thế hội nhập môn
học tiếng Anh càng quan trọng hơn, mà từ thưở khai sinh tiếng Anh đã là một
môn học khó . Để đáp ứng được với xu thế phát triển và yêu cầu của xã hội, kiến
thức và phương pháp giảng dạy tiếng Anh cũng không ngừng phát triển và thay
đổi hàng ngày. Đòi hỏi người giáo viên phải luôn tiến bộ và phát triển, nên việc
tìm kiếm những phương pháp dạy học hợp lí, hay, và tích cực luôn là đề tài nóng
hổi cho những ai đang gánh vác sứ mệnh “ trồng người” cao cả.
Tiếng Anh là một bộ môn, kết hợp tất cả mọi kỹ năng của con người trong lúc
học. Tiếng Anh của Tiểu học nhìn ở gốc độ chuyên môn thì không có gì quá khó


khăn về mặt kiến thức. Nhưng đối với học sinh tiểu học, khi mà những khái
niệm về từ ngữ, câu, cách hành văn của tiếng mẹ đẻ còn tương đối mơ hồ thì
những khái niệm xa lạ về từ loại, cách phát âm, cách viết, ghi nhớ từ vựng... của
một ngôn ngữ tiếng nước ngoài là quá phức tạp với trình độ hiểu biết của các
em.
Chính vì thế mà việc nghiên cứu ra những phương pháp để giúp học sinh
tiếp thu đầy đủ, ghi nhớ sâu sắc từ vựng tiếng Anh là khá cần thiết và quan
trọng đối với học sinh Tiểu học. Mong rằng những kinh nghiệm mà tôi sắp trình
bày sau đây sẽ một phần nào giúp ích cho quý đồng nghiệp trong công tác giảng
dạy môn tiếng Anh ở bậc Tiểu học nói chung, và giúp học sinh học tốt từ vựng
tiếng Anh nói riêng.
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 3, 5 và giáo viên giảng dạy môn tiếng
Anh trường tiểu học Đọi Sơn.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp điều tra, khảo sát, phương pháp phân
tích, tổng kết kinh nghiệm.

2


Giới hạn phạm vị nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu tiếng Anh tiểu học, phương
pháp dạy từ vựng tiếng Anh Tiểu học.

II/ NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Hiện nay, giáo dục Tiểu học đang thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện
cho học sinh nhằm phát triển nhân cách của con người đáp ứng với những yêu
cầu của thời đại. Bộ môn tiếng Anh góp phần không nhỏ trong việc phát triển trí
tuệ và năng lực tư duy, sự hiểu biết xã hội của học sinh.
Mục đích cuối cùng của việc dạy và học tiếng Anh là giúp học sinh có
được năng lực hoạt động ngôn ngữ. Năng lực ngôn ngữ được thể hiện qua 4

dạng hoạt động tương ứng với 4 kỹ năng : nghe – nói - đọc - viết. Để giúp học
sinh phát triển được 4 kỹ năng trên, đòi hỏi các em phải trang bị cho mình được
vốn từ vựng nhất định. Có thể học và ghi nhớ được vốn từ vựng tiếng Anh
người học ngoại ngữ phải có quá trình luyện tập thường xuyên, lâu dài với
những hình thức khác nhau.Việc dạy từ vựng tiếng Anh tuy không còn mới mẻ
với giáo viên và học sinh cấp Tiểu học nhưng để việc học và dạy từ vựng tiếng
Anh đạt hiệu quả giúp học sinh ghi nhớ và sử dụng được từ vựng để phát triển 4
kỹ năng nghe- nói- đọc - viết thì vẫn còn là vấn đề khó đối với cả giáo viên và
học sinh cấp Tiểu học.
2. Cơ sở thực tế.
Vào đầu năm học khi nhận giảng dạy tiếng Anh khối 5 và lớp 3B, sau vài tiết
học đầu tiên, tôi cho học sinh làm bài kiểm tra từ vựng, tôi yêu cầu các em nối
từ tiếng Anh với nghĩa từ tiếng Việt phù hợp (Matching). Dịch từ sang tiếng
Việt, dịch từ sang tiếng Anh. Cuối cùng tôi thu được kết quả như sau :
Lớp

Sĩ số

5A
5B
5C
3B

26
27
27
27

Hoàn thành tốt
SL

%
6
23,07
6
22,22
5
18,51
7
25,92

Hoàn thành
SL
%
15
57,69
16
59,25
15
55,55
15
55,55

Chưa đạt
SL
%
5
19,23
5
18,51
7

25,92
5
18,51

3


Với kết quả như thế, và thông qua quá trình quan sát các tiết học kế tiếp tôi nhận
thấy như sau:
* Thuận Lợi:
- Được sự quan tâm của Ban lãnh đạo nhà trường, tổ bộ môn, và các bậc cha
mẹ học sinh.
- Nhà trường tương đối có đủ các trang thiết bị phục vụ cho môn học: sách
giáo khoa, băng đĩa, màn hình và đèn chiếu.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn, chịu học hỏi, có sáng tạo và nhiệt tình
trong công tác.
- Sử dụng vận hành các trang thiết bị dạy học hiện đại phục vụ tốt cho qua
trình dạy từ vựng : máy tính, đèn chiếu, sách mềm.
- Học sinh đa phần thông minh, lanh lợi, hào hứng và yêu thích môn học
tiếng Anh.
* Khó khăn:
- Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học
sinh chỉ học qua loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không tập
đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu
cầu các em đã không thành công.
- Về phía giáo viên, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các
em tự học ở nhà.
- Học sinh mau quên, không nhớ nghĩa của từ, đọc sai từ, viết sai từ...
- Học sinh còn thiếu các trang thiết bị, môi trường học tập….
Từ những thực trạng trên, trong quá trình giảng dạy tôi đã cố gắng tìm ra các

giải pháp để khắc phục các khó khăn, cùng với nhà trường nâng cao chất lượng
giảng dạy, nhằm giúp các em có được những thói quen tốt trong học từ vựng
tiếng Anh, một vốn từ cơ bản để các em đủ tự tin bước vào học tập chính thức
môn học này ở chương trình THCS.
3. Một số biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy từ vựng
3.1 Cần lựa chọn từ vựng khi dạy.
Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với
các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú.
4


Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói việc dạy và học tập môn tiếng Anh là
nói đến sự phát triển 4 kỹ năng nghe- nói- đọc –viết và vốn từ vựng. Tuy nhiên
dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn
xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy.
Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề :
- Từ chủ động (active vocabulary)
- Từ bị động (passive vocabulary)
Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên
quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên
cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn.
Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời
gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định
xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. Khi dạy
từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
+ Form.( hình thức)
+ Meaning.( nghĩa)
+ Use.( sử dụng)
Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như
từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp,

giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà
còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết
nghĩa của từ.
- Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học
sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện
các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ.
- Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau:
+ Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ?
+ Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ?
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh,
thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh.

5


- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học
sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học
sinh hiểu nghĩa từ đó ngay.
- Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì
bạn nên yêu cầu học sinh đoán.
3.2 Các thủ thuật dạy từ:
Giáo viên cần nắm vững và linh hoạt các thủ thuật dạy từ trong từng tiết học
cũng như từ vựng đó sẽ sử dụng thủ thuật nào hiệu quả nhất.
Ví dụ: - Khi từ mới là những dụng cụ học tập nhẹ nhàng thì giáo viên sử dụng
thủ thuật “Realia” (vật thật).
- Nhưng khi giới thiệu về các loại trái cây, các loài hoa, đồ vật trong gia đình...
tuy rằng có những loại chúng ta có thể tìm được ở chợ, có mô hình nhưng khá
phức tạp khi mang theo lên lớp thì chúng ta sử dụng thủ thuật “ Visual” (nhìn).
- Nhưng khi những từ khá trừu tượng thì giáo viên phải sử dụng các thủ thuật “
explaination” hay “ translation”...

Nắm vững được các thủ thuật dạy từ, kiểm tra từ phù hợp cho từng từ vựng,
từng nhóm từ vựng... là giáo viên đã giúp được học sinh 50% thành công
trong lĩnh hội từ vựng đó.
3.3. Ứng dụng thành thạo phương tiện, CNTT trong giảng dạy.
- Phương tiện hiệu quả nhất hiện nay là sử dụng thành thạo sách mềm trong
giảng dạy từ vựng. Không ai có thể phủ nhận tính tiện dụng, khả thi của sách
mềm này trong giảng dạy từ vựng tiếng Anh. Và với những tiết học thường
xuyên ứng dụng CNTT, học sinh của tôi vô cùng tò mò, hào hứng, thích thú tiết
học. Những em học sinh lớp 5 không chú trọng đến môn học cũng khá tò mò
trước những hình ảnh sinh động, lạ mắt, vui nhộn của các thiết bị điện tử mang
lại. Và việc lôi kéo các em ngồi nghiêm túc, quan sát bài học, động viên các em
tích cực xây dựng bài không còn khó khăn như trước nữa.
- Phương tiện đồ dùng thứ 2 là tranh ảnh, giáo viên phải sưu tầm, vẽ……..Đây
là phương tiện truyền thống có mất chút thời gian nhưng giáo viên có thể áp
dụng một cách thực tế, thuận tiện nhất....

6


- Các bảng phụ, bảng con của học sinh là những đồ dùng không thể thiếu trong
lúc học từ vựng của thầy trò trường tôi. Và thường được dùng trong lúc kiểm tra,
củng cố từ.
3.4 Hướng dẫn học sinh viết từ nhanh hơn
- Không khéo giáo viên rất dễ bị “cháy” giáo án hay không đảm bảo thời gian
tiết học vì học sinh Tiểu học viết chữ khá chậm chạp, nắn nót. Các em thường
nhìn từng chữ cái một trong lúc viết. Nên tôi đã hướng dẫn các em chỉ nhìn một
lần xem từ mới đó có bao nhiêu chữ cái và cúi đầu xuống viết một mạch. Dần
dần về sau quả là các em có tiến bộ lên rõ rệt các tiết học cũng đảm bảo thời
gian hơn.
3.5 Các biện pháp học thuộc và nhớ từ hiệu quả

- Học sinh nào của tôi cũng có 1 quyển tập chép từ mới ở nhà. Sau mỗi tiết học
khi về nhà học sinh sẽ chép lại các từ mới khoảng từ một đến hai trang từ. Cách
làm này giúp học sinh mau thuộc từ và thuộc sâu sắc hơn.
- Cách kế tiếp là tôi yêu cầu học sinh ghi từ tiếng Anh dán vào các dụng cụ học
tập, đồ dùng ở nhà. Ví dụ: trên cây viết dán chữ “pen”, trên cây thước dán chữ
“ruler”, cái bàn ở nhà dán chữ “table” ...để học sinh có thể học mọi lúc mọi nơi.
- Hướng dẫn học sinh sử dụng từ điển và yêu cầu học sinh tìm cho thầy một từ
mới tiếng Anh mỗi ngày thông qua các phương tiện truyền thông, sách báo, nhãn
mát, băng- gon, biển báo hiệu...mà các em thấy hàng ngày trong cuộc sống, ghi
vào vở ở nhà và sử dụng từ điển tra nghĩa, khi tôi kiểm tra sẽ hướng dẫn cách
phát âm... Học sinh của tôi khá hào hứng với phong trào này, tăng cường tính
quan sát, tìm tòi học hỏi, và thực tế hóa kiến thức của môn học.
- Ngoài ra tôi thường xuyên tổ chức các trò chơi vể từ mới như: slap the board,
bingo, matching...trong các tiết học giúp học sinh hứng thú trong học tập. Và với
tính “sợ thua” ngây thơ của tuổi nhỏ các em chuẩn bị rất tốt kiến thức các phần
thi để tranh tài cùng các bạn.
- Xung quanh lớp học tôi thường treo các khẩu hiệu, động từ cơ bản, tính từ cơ
bản...để học sinh có thể tự nhiên mà học thuộc.
3.6 Hướng dẫn học sinh học tự học và vựng ở nhà:
Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học
7


tập, thì chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt
động của người học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền
tải kiến thức đến học sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì
các em phải tự học bằng chính các hoạt động của mình. Hơn nữa thời gian học ở
trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình các em phải tổ chức
cho được hoạt động học tập của mình. Làm được điều đó, thì chắc chắn hoạt
động dạy và học sẽ ngày càng hoàn thiện hơn. Cho nên ngay từ đầu từ năm học,

giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng hoạt động học tập ở nhà như: chuẩn
bị từ vựng, học thuộc lòng từ vựng..........
Và để giúp cho phụ huynh không đứng ngoài cuộc trong việc học tiếng Anh
của con em mình. Tôi đã yêu cầu các em viết rõ nhiệm vụ về nhà sau mỗi tiết
học vào vở học trên lớp như: - Viết một trang từ và học thuộc, làm bài tập 1,
2...trong vở bài tập... Sau khi về nhà thực hiện xong phần nhiệm vụ ở nhà các
em phài trình cho cha, mẹ ký tên vào xác nhận là “con tôi có viết từ, có học bài,
làm bài ở nhà. Chỉ yêu cầu phụ huynh xem các em có thực hiện đầy đủ không?
Còn đúng hay sai là nhiệm vụ của giáo viên khi đến lớp. Với giao ước này phụ
huynh nào cũng đống ý, ủng hộ, có phụ huynh còn tham gia học tập cùng các
em.
4. Kết quả
Sau một năm học, cũng với một bài kiểm tra 15 phút như đầu năm về từ
vựng là tôi yêu cầu các em nối từ tiếng Anh với nghĩa từ tiếng Việt phù hợp
(Matching). Dịch từ sang tiếng Việt, dịch từ sang tiếng Anh. Có kết quả như
sau :
Lớp

Sĩ số

5A
5B
5C
3B

26
27
27
27


Hoàn thành tốt
SL
%
10
38,46
9
33,33
10
37,03
9
33,33

Hoàn thành
SL
%
14
53,84
15
55,55
15
55,55
16
59,25

Chưa đạt
SL
%
2
7,69
3

11,11
2
7,04
2
7,04

So sánh với kết quả đầu năm thì học sinh của tôi đã có một bước tiến dài trong
quá trình học và nhớ từ vựng tiếng Anh.
8


Tuy nhiên bên cạnh đó cũng không tránh khỏi những hạn chế mà giáo viên cần
rút kinh nghiệm như sau:
- Giáo viên cần có những phương pháp dành riêng cho học sinh năng khiếu.
Giáo viên cần làm chủ thời gian hơn khi tiến hành lồng ghép các trò chơi vào
tiết học. Các biện pháp cần được duy trì một cách liên tục và hiệu quả cao hơn.
III/ KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Những kinh nghiệm này chỉ giúp ít học sinh một phần trong quá trình học tốt
tiếng Anh, tuy nhiên nó đóng vai trò rất quan trọng cho việc thực hành mẫu câu,
việc đối thoại có trôi chảy, lưu loát hay không đều phải phụ thuộc vào việc học
thuộc lòng từ vựng và phát âm có chuẩn hay không.
Nhưng để đề tài thật sự có ý nghĩa không chỉ cần có sự đầu tư vào bài giảng,
vào các bước lên lớp của giáo viên, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác
của học sinh. Bởi vì một kiến thức nào dù nhỏ mà học sinh không quan tâm,
không siêng năng, không ham học thì dù có được tổ chức tiếp thu tốt, được kiểm
tra chặc chẽ như thế nào thì sau đó cũng trôi vào quên lãng, nhất là việc học
mang tính chất “ thuộc lòng” và “duy trì” như học từ vựng tiếng Anh. Bên cạnh
đó môi trường xung quanh cũng rất quang trọng, một môi trường tiếng Anh, sử
dụng nhiều tiếng Anh, những lợi ích thực tế từ môn học mang lại là còn khá mơ

hồ đối với một tỉnh vùng nông thôn.
Chính vì nhiệm vụ của người giáo viên không dừng lại ở đó mà còn phải tạo
được lòng tin, rèn luyện tinh thần hiếu học cho các em học sinh nhiều hơn nữa,
thì thiết nghĩ phương pháp nào rồi cũng sẽ thành công đối với một thế hệ học trò
có nền tảng là những đức tính tốt của con người Việt Nam giàu truyền thống
hiếu học và tính nhân văn cao cả. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng đề tài chắc
chắn vẫn còn nhiều sai sót, rất mong sự đóng góp nhiệt tình của quý đồng
nghiệp để xây dựng cho đề tài hay hơn.
2. Kiến Nghị
Để đáp ứng được nhu cầu học tập và tìm hiểu về bộ môn tiếng Anh nói chung
và tăng cương, trao dồi vồn từ vựng tiếng Anh của các em học sinh, tôi xin có
kiện nghị với Ban lãnh đạo Nhà trường bổ sung thêm đa dạng các loại sách
9


tham khảo môn tiếng Anh trong thư viện để giúp học sinh có cơ hội tiếp cận
với những kiến thức mới mẻ, tạo hứng thú, đam mê cho các em trong việc học
tập môn học này.

Đọi Sơn, ngày 02 tháng 3 năm 2017
TM NHÀ TRƯỜNG

NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN

10



×