Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Địa vị pháp lí ngân hàng nhà nước Việt Nam theo Luật Ngân Hàng 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.41 KB, 34 trang )

Đề tài : địa vị pháp lý của ngân hàng nhà nước
việt nam
LỜI MỞ ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, hệ thống ngân hàng chiếm một
vai trò quan trọng, quyết định và chi phối các lĩnh vực khác của nền kinh tế. Sự
hình thành của tiền tệ đã làm cho quá trình trao đổi hàng hóa thuận lợi và dễ
dàng hơn rất nhiều giữa những người cùng khu vực địa lý, cùng một quốc gia
cũng như giữa các quốc gia với nhau. Kèm theo đó là sự xuất hiện của những
Thương gia chuyên kinh doanh dịch vụ trung gian, giữ tiền, cho vay... đó là
những hình thức sơ khai của Ngân hàng hiện nay. Từ đây các quốc gia trên thế
giới đã xây dựng, hình thành nên hệ thống ngân hàng riêng cho quốc gia mình
và phát triển đến ngày nay.

Việt Nam cũng không ngoại lệ, sau khi miền Bắc giành được độc lập thì
nước ta đã manh nha hình thành nên ngân hàng riêng của Việt Nam. Đến năm
1951, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kí quyết
định thành lập. Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là một bước ngoặt
lịch sử, là kết quả nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín
dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Từ đó đến nay, gắn liền với sự phát triển của
từng thời kỳ cách mạng, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (từ tháng 1/1960 đến
nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) đã từng bước lớn mạnh và phát triển,
góp phần quan trọng vào việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện thể chế tiền tệ, tín
dụng và hệ thống ngân hàng Việt Nam, phục vụ tích cực sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
1


Phần trình bày của nhóm trong bộ môn Luật Ngân hàng, chúng em bàn
về vấn đề: “Địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo quy định
của Luật Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam 2010”. Qua bài tiểu luận nhỏ này,


chúng em không có tham vọng đi đến tất cả các vấn đề liên quan đến tổ chức
bộ máy, hoạt động hay chức năng của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
(NHNNVN) theo quy định của pháp luật mà chỉ đề cập đến một vài khía cạnh
nổi bật. Trong tương lai, khi có đầy đủ kiến thức và thời gian, nhóm sẽ nghiên
cứu sâu hơn về đề tài này.

CHƯƠNG I: SỰ RA ĐỜI VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN
HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.
1. Mục đích ra đời của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, Việt Nam là một nước nửa thuộc
địa, nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Từ thời này hệ thống
tín dụng, tiền tệ ngân hàng cũng đã được thiết lập và hoạt động. tuy nhiên, hệ
thống ngân hàng này chủ yếu phục vụ cho chính sách thuộc địa của thực dân
Pháp ở Việt Nam. Trong suốt thời kì thuộc địa, sự hình thành và phát triển của
hệ thống tiền tệ, tín dụng đều do Chính phủ Pháp sắp đặt, bảo hộ thông qua
Ngân hàng Đông Dương.
Sau Cách mạng tháng 8, một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu
của chính quyền cách mạng là phải từng bước xây dựng nền tiền tệ độc lâp, tự
chủ, là công cụ của chính quyền để quản lí tiền tệ, xây dựng, bảo vệ đất nước.
Chính vì vậy ngày 6 tháng 5 năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh
số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với các nhiệm vụ chủ yếu là:
Quản lí việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý Kho Bạc

2


nhà nước, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với
mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (sau này được biết đến
dưới tên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) là một bước ngoặt lịch sử, là kết quả

nối tiếp của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự
chủ, đánh dấu bước phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng ở nước ta. Nó thể hiện vai trò quản lý, lãnh đạo của nhà nước trong lĩnh
vực ngân hàng.
2. Tóm tắt quá trình phát triển:
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam gắn liền với lịch sử
phát triển của từng thời kỳ cách mạng, qua trình đấu tranh giành độc lập và
công cuộc xây dựng Đất nước.
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Việt Nam là một nước nửa thuộc địa
nửa phong kiến dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Hệ thống tiền tệ, tín
dụng ngân hàng được thiết lập và bảo hộ bởi thực dân Pháp thông qua Ngân
hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương vừa đóng vai trò là ngân hàng
Trung ương trên toàn cõi Đông Dương (Việt Nam, Lào, Campuchia), vừa là
ngân hàng thương mại. Ngân hàng này là công cụ phục vụ đắc lực chính sách
thuộc địa của chính phủ Pháp và làm giàu cho tư bản Pháp. Vì thế, một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc xây dựng đất nước sau Cách mạng
Tháng 8 là từng bước xây dựng hệ thống tiền tệ và ngân hàng độc lập, tự chủ.
Bước sang năm 1950, công cuộc kháng chiến chống Pháp đã có những bước
tiến đáng kể, với những chiến thắng vang dội trên khắp các chiến trường và
vùng giải phóng được mở rộng. Sự chuyển biến của cục diện cách mạng cũng
đòi hỏi công tác kinh tế, tài chính phải được củng cố và phát triển theo yêu cầu,
mục tiêu đề ra.
Trên cơ sở chủ trương chính sách mới về tài chính - kinh tế mà Đại hội
Đảng lần thứ II (tháng 2/1951) đã đề ra, ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam Ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á để thực

3


hiện 5 nhiệm vụ cấp bách: Phát hành giấy bạc, quản lý Kho bạc, thực hiện

chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý
tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá trình
đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước
phát triển mới, thay đổi về chất trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Tại
Thông tư số 20/VP - TH ngày 21/1/1960 của Tổng giám đốc Ngân hàng Quốc
gia ký thừa uỷ quyền Thủ Tướng chính phủ, Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam
được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để phù hợp với hiến pháp
1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Những năm sau khi Miền Nam
giải phóng 1975, việc tiếp quản Ngân hàng Quốc gia Việt Nam cộng hoà và các
Ngân hàng tư bản tư nhân dưới chế độ Ngụy quyền Sài Gòn đã mở đầu cho quá
trình nhất thể hoá hoạt động ngân hàng toàn quốc theo cơ chế hoạt động ngân
hàng theo nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Tháng 7 năm 1976, đất nước được thống nhất về mọi phương diện, Nhà
nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Theo đó, Ngân hàng Quốc
gia ở miền Nam được hợp nhất vào Ngân hàng nhà nước Việt Nam, tạo thành
hệ thống Ngân hàng Nhà nước duy nhất của cả nước. Hệ thống tổ chức thống
nhất của Ngân hàng nhà nước bao gồm: Ngân hàng Trung ương đặt trụ sở
chính tại thủ đô Hà Nội, các Chi nhánh Ngân hàng tại các tỉnh, thành phố và
các chi điếm ngân hàng cơ sở tại các huyện, quận trên phạm vi cả nước.
Căn cứ vào những biến đổi quan trọng về tình hình và nhiệm vụ cách
mạng cũng như về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, quá trình phát triển của hệ thống Ngân hàng Việt Nam có thể được
chia làm 4 thời kỳ như sau:
a. Thời kỳ 1951 - 1954: Trong thời kỳ này, Ngân hàng quốc gia Việt
Nam được thành lập và hoạt động độc lập tương đối trong hệ thống tài chính,
thực hiện trọng trách đầu tiên theo chủ trương của Đảng và nhà nước là: Phát
hành giấy bạc ngân hàng, thu hồi giấy bạc tài chính; Thực hiện quản lý Kho
bạc Nhà nước góp phần tăng thu, tiết kiệm chi, thống nhất quản lý thu chi ngân


4


sách;Phát triển tín dụng ngân hàng phục vụ sản xuất, lưu thông hàng hoá, tăng
cường lực lượng kinh tế quốc doanh và đấu tranh tiền tệ với địch.
b. Thời kỳ 1955 - 1975: Đây là thời kỳ cả nước kháng chiến chống Mỹ,
miền Bắc xây dựng và chiến đấu, vừa ra sức chi viện cho cách mạng giải
phóng miền Nam; mọi hoạt động kinh tế xã hội phải chuyển hướng theo yêu
cầu mới. Trong thời kỳ này, Ngân hàng Quốc gia đã thực hiện những nhiệm vụ
cơ bản sau;
- Củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ ổn định, góp phần bình ổn
vật giá, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc khôi phục kinh tế.
- Phát triển công tác tín dụng nhằm phát triển sản xuất lương thực, đẩy
mạnh khôi phục và phát triển nông, công, thương nghiệp, góp phần thực hiện
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Miền Bắc và
giải phóng Miền Nam.
c. Thời kỳ 1975 - 1985: Là giai đoạn 10 năm khôi phục kinh tế sau
chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, là thời kỳ xây dựng hệ thống
ngân hàng mới của chính quyền cách mạng; tiến hành thiết lập hệ thống ngân
hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở
miền Nam. Theo đó, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam của chính quyền Việt Nam
cộng hoà (ở miền Nam) đã được quốc hữu hoá và sáp nhập vào hệ thống Ngân
hàng nhà nước Việt Nam, cùng thực hiện nhiệm vụ thống nhất tiền tệ trong cả
nước, phát hành các loại tiền mới của nước CHXHCN Việt Nam, thu hồi các
loại tiền cũ ở cả hai miền Nam - Bắc vào năm 1978. Đến cuối những năm 80,
hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt động như là một công cụ
ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ theo nguyên tắc thị
trường. Sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống ngân hàng - chuyển
dần sang hoạt động theo cơ chế thị trường chỉ được bắt đầu khởi xướng từ cuối
những năm 80, và kéo dài cho tới ngày nay.

d. Thời kỳ 1986 đến nay: Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự
kiện quan trọng, đánh dấu sự chuyển biến căn bản của hệ thống Ngân hàng
Việt Nam thể hiện qua một số "cột mốc" có tính đột phá sau đây:

5


+ Từ năm 1986 đến năm 1990: Thực hiện tách dần chức năng quản lý
Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động
ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt
động ngân hàng đã được hình thành và hoàn thiện dần - Tháng 5/1990, hai
pháp lệnh Ngân hàng ra đời (Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Pháp
lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính) đã chính thức chuyển
cơ chế hoạt động của hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ mô hình một cấp sang
mô hình hoạt động theo hai cấp. Trong đó lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và
mục tiêu hoạt động của mỗi cấp ngân hàng được luật phân biệt rạch ròi:
+ Ngân hàng Nhà nước thực thi nhiệm vụ Quản lý nhà nước về hoạt
động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; Thực thi
nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát
hành tiền; Là ngân hàng của các ngân hàng và là Ngân hàng của Nhà nước;
Ngân hang Trung Ương là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ,
lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn
bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp hai.
+ Cấp Ngân hàng kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng,
thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do
các Định chế tài chính Ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện. Cùng với quá
trình đổi mới cơ chế vận hành trong hệ thống ngân hàng là quá trình ra đời
hàng loạt các ngân hàng chuyên doanh cấp hai với các loại hình sở hữu khác
nhau. Gồm Ngân hàng thương mại quốc doanh, cổ phần, Ngân hàng liên
doanh, chi nhánh hoặc văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài, Hợp tác

xã tín dụng, công ty tài chính... Trong thời gian này, bốn ngân hàng thương mại
quốc doanh lớn đã được thành lập gồm:
1) Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam;
2) Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam;
3) Ngân hàng Công thương Việt Nam;
4) Ngân hàng ngoại thương Việt Nam.

6


+ Từ năm 1991 đến nay: Thực hiện chủ trương đường lối chính sách
của Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hệ thống ngân hàng
Việt Nam không ngừng đổi mới và lớn mạnh, đảm bảo thực hiện được trọng
trách của mình trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế đất nước ở thiên
niên kỷ mới. Những dấu ấn dưới đây liên quan trực tiếp và thúc đẩy quá trình
đổi mới mạnh mẽ hoạt động Ngân hàng:
Năm 1993: Bình thường hoá các mối quan hệ với các tổ chức tài chính
tiền tệ quốc tế (IMF: quỹ tiền tệ quốc tế, WB: Ngân hàng thế giới, ADB: ngân
hàng phát triển Châu Á)
Năm 1995: Quốc hội thông qua nghị quyết bỏ thuế doanh thu đối với
hoạt động ngân hàng; thành lập ngân hàng phục vụ người nghèo.
Năm 1997: Quốc hội khoá X thông qua Luật ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và Luật các tổ chức tín dụng (ngày 2/12/1997) và có hiệu lực thi hành từ
1/10/1998; Thành lập Ngân hàng phát triển Đồng bằng Sông cửu long (Quyết
định số 769/TTg, ngày 18/9/1997).
Năm 1999: Thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (ngày 9/11/1999).
Năm 2002: Tự do hoá lãi suất cho vay VNĐ của các tổ chức tín dụng Bước cuối cùng tự do hoá hoàn toàn lãi suất thị trường tín dụng ở cả đầu vào
và đầu ra.
Năm 2003: Tiến hành cơ cấu lại theo chiều sâu hoạt động phù hợp với
chuẩn quốc tế đối với các Ngân hàng thương mại; Thành lập Ngân hàng chính

sách xã hội trên cơ sở Ngân hàng phục vụ người nghèo để tiến tới tách bạch
tín dụng chính sách với tín dụng thương mại theo cơ chế thị trường; Tiến hành
sửa bước 1 Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Năm 2008: Thực hiện cam kết khi gia nhập tổ chức Thương mại Thế
giới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức cấp phép thành lập 05 Ngân
hàng 100% vốn nước ngoài, bao gồm: Ngân hàng ANZ Việt Nam, Ngân hàng
Hong Leong Việt Nam, Ngân hàng Stardard Chartered Việt Nam, Ngân hàng
HSBC Việt Nam, Ngân hàng Shinhan Việt Nam.

7


CHƯƠNG II: VỊ TRÍ PHÁP LÝ, TƯ CÁCH PHÁP NHÂN, CHỨC
NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM.
1) Vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam:
Như đã đề cập ở phần trên về quá trình hình thành Ngân hàng nhà nước Việt
Nam (Ngân hàng Trung Ương). Tuy nhiên, không phải Ngân hàng nhà nước ở
bất kì quốc gia nào trên thế giới đều có mô hình hoạt động, tổ chức cũng như
địa vị pháp lí như nhau trong Bộ máy Nhà nước. Ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào
nguồn gốc hình thành, chế độ chính trị mà ngân hàng trung ương được tổ chức
và hoạt động theo những mô hình riêng biệt. Nếu căn cứ vào tính độc lập với
Bộ máy nhà nước thì chúng ta có thể chia làm hai loại:
 Ngân hàng Trung Ương độc lập với chính phủ: là Ngân hàng Trung
Ương không nằm trong cơ cấu bộ máy nhà nước, không chịu sự lãnh đạo, điều
hành của chính phủ. Ở đây Ngân hàng tồn tại dưới hình thức cổ phần, nhiều cá
nhân hay tổ chức là cổ đông của nó. Mô hình này được áp dụng nhiều ở các
quốc gia như Hoa Kỳ, Hungari, nhiều nước ở châu Âu,…
 Ngân hàng Trung Ương thuộc chính phủ: là Ngân hàng Trung Ương nằm
trong cơ cấu bộ máy chính phủ, chịu sự lãnh đạo, điều hành của chính phủ. Mô

hình ngân hàng này đã và đang được áp dụng ở các quốc gia như Trung Quốc,
Malaysia và Việt Nam,…
Hiện nay, vị trí pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được quy
định rõ trong Luật Ngân Hàng Nhà Nước 2010, tại khoản 2 điều 2 có nêu rõ
“Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng Nhà nước) là cơ
quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.” Như vậy, luật đã xác định cụ thể vị trí pháp lý của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một trong 4 cơ quan ngang Bộ, trực thuộc
chính phủ và chịu sự quản lí của chính phủ. Tuy nhiên, khi mới thành lập cho
đến thời điểm trước khi luật Ngân hàng nhà nước 2010 ra đời, vị trí pháp lý của
nó không được xác định rõ là một “cơ quan ngang Bộ”, mà chỉ được hiểu ngầm
theo ý của nhà làm luật.
8


Tháng 9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời nhưng mãi đến
năm 1951 thì Ngân hàng đầu tiên của nước ta mới được thành lập theo sắc lệnh
15/SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sắc lệnh này không trực tiếp quy định vị trí
pháp lý của Ngân hàng quốc gia nhưng có đề cập đến việc Tổng giám đốc là
người lãnh đạo ngân hàng quốc gia có danh vị ngang với Bộ trưởng, qua đó ta
có thể hiểu Ngân hàng quốc gia được xem như là một cơ quan ngang với Bộ.
lúc này, sắc lệnh 16/SL bổ nhiệm ông Nguyễn Lương Bằng và ông Lê Viết
Lượng làm Tổng giám đốc và phó tổng giám đốc ngân hàng quốc gia Việt
Nam.
Những quy định về vị trí pháp lí của Ngân hàng quốc gia Việt Nam (nay
là ngân hàng nhà nước Việt Nam) trong sắc lệnh 15 là không cụ thể, rõ ràng.
Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, vị trí pháp lí
của ngân hàng nhà nước ngày càng được xác định cụ thể. Trải qua một thời
gian hoạt động, ngân hàng quốc gia Việt Nam đã có những vai trò nhất định
trong việc quản lí tiền tệ, việc cân đối thu chi trong hoàn cảnh đất nước còn

gặp nhiều khó khăn. Nhằm đấp ứng việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất
(1961-1965), ngày 26/10/1961 Hội đồng chính phủ đã ban hành Nghị định
171/CP quy định về tổ chức và hoạt động ngân hàng, đổi tên ngân hàng quốc
gia thành ngân hàng nhà nước Việt Nam. So với sắc lệnh 15 thì ở Nghị định
này vị trí pháp lí của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được quy đinh rõ ràng
hơn. “Ngân hàng Nhà nước là cơ quan của Hội đồng chính phủ.” Lúc này, vị trí
pháp lí của Ngân hàng Nhà nước đã được xác định là thuộc chính phủ, chịu sự
quản lí của chính phủ. Hơn nữa, Nghị định này cũng quy định chức năng,
nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước là quản lí các xí nghiệp quốc doanh, phục
vụ cho hoạt động của mậu dịch quốc doanh. Như vậy, nó có thẩm quyền quản
lí nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức kinh tế, các xí nghiệp.
Tiếp theo đó, Nghị định số 63/NĐ-CP ngày 16/6/1977 đã quy định cơ
cấu tổ chức và bộ máy của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam lúc này được quy định là cơ quan ngang bộ thuộc Hội đồng
chính phủ. Nó có trách nhiệm thống nhất quản lí công tác phát hành tiền, quản
lí tiền mặt và điều hòa lưu thông tiền tệ, quản lí tín dụng, thanh toán trong
9


ngoài nước, quản lý ngoại hố, quỹ Ngân sách Nhà nước. Thời kì này, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam với vị trí pháp lí vừa là cơ quan của Chính phủ, vừa
có tư cách Ngân hàng Trung Ương vừa là Ngân hàng trung gian.
Ngày 09/10/1987 Chính phủ ra quyết định số 172 quy định chức năng
nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam là cơ quan trong bộ máy quản lí Nhà nước, là một tổ chức hạch toán
kinh tế chuyên ngành, thực hiện hoạt động kinh doanh trên các lĩnh vực tiền tệ,
tín dụng, là hệ thống Ngân hàng cấp một.
Ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số
53/HĐBT về tổ chức bộ máy Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và chuyển sang
hệ thống Ngân hàng hai cấp: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức

năng quản lí Nhà nước về tiền tệ và đóng vai trò Ngân hàng của các Ngân
hàng.
Ngày 23/5/1990 Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh Ngân
hàng, Hợp tác xã tín dụng, Công ty tài chính được ban hành. Trong đó xác định
rõ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng và là cơ
quan duy nhất phát hành tiền. Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản
lí Nhà nước và là Ngân hàng trung ương của các Ngân hàng.
Ngày 12/12/1997 luật Ngân hàng Nhà nước và luật các Tổ chức tín dụng
ra đời. Khẳng định địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam “là cơ
quan của chính phủ và là Ngân hàng trung ương của nước cộng hòa XHCN
Việt Nam” (khoản 1, điều 1 luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997, sửa đổi
bổ sung 2003). Tuy nhiên, mới đây quốc hội đã ban hành luật Ngân hàng Nhà
nước 2010 nhằm sửa đổi và bổ sung một số điều của luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam 2003. Theo đó, tại khoản 1 điều 2, luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 2010 quy định “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân
hàng Nhà nước) là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng trung ương
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Như vậy nếu như ở luật Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam 2003 chỉ quy định Ngân hàng Nhà nước là “cơ quan
của chính phủ”, nằm trong chính phủ, chịu sự quản lí của chính phủ nhưng lại
10


không xác định rõ vị trí pháp lí của nó. Nó có thể được hiểu là một cơ quan
trực thuộc một Bộ nào đó, dưới quyền của Bộ đó (Ví dụ Bộ tài chính chẳng
hạn). Do đó quyền hạn, chức năng của Ngân hàng Nhà nước vì thế cũng bị hạn
chế. Chính vì vậy mà mới đây, quốc hội đã thông qua dự thảo sửa đổi luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2003, ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước
2010 (có hiệu lực từ 1/1/2011). Về địa vị pháp lý của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam vẫn giữ nguyên như thể hiện trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 1997 (sửa đổi bổ sung 2003), tức là nó vẫn là cơ quan thuộc chính phủ, để

phù hợp với thể chế chính trị và hiến pháp 1992 của nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, cách thiết kế trong Luật Ngân hàng Nhà nước 2010
đã thể hiện rõ hơn vị trí của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan ngang bộ của
Chính phủ. Đồng thời xác định rõ chức năng, nhiệm cụ của Ngân hàng Nhà
nước với tư cách là Ngân hàng trung ương của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện các chức năng quản lí Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ và
hoạt động Ngân hàng (điều 2, luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010). Qua
đó, khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một
Ngân hàng Trung ương: Thực thi chính sách tiền tệ và giám sát an toàn hoạt
động của hệ thống các tổ chức tín dụng. (điều 3, luật Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam 2010). Việc thay đổi trên nhằm xây dựng Ngân hàng Nhà nước trở thành
Ngân hàng trung ương hiện đại, có tính tự chủ và tính độc lập cao. Đây là định
hướng lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập và phù hợp
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, đây là một
việc lớn cần có bước đi thích hợp và đòi hỏi phải có một quá trình chuẩn bị các
điều kiện cần thiết cho hoạt động của một ngân hàng trung ương hiện đại. Việc
hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế của thế giới đòi hỏi Việt Nam phải tận
dụng mọi nguồn lực, đồng thời cần nâng cao năng lực quản lí của các cơ quan
Nhà nước nới chung và hoạt động Ngân hàng nói riêng. Cần tăng cường tính
chủ động và trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước trong việc hoạch định và
thực thi chính sách tiền tệ quốc gia vừa bảo đảm sự linh hoạt trong điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia, vừa đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống chính
sách kinh tế, tài chính cảu quốc gia. Không thể quá phụ thuộc vào quốc hội hay
chính phủ. Vì vậy, quy định vị trí pháp lí của Ngân hàng Nhà nước là cơ quan
11


ngang Bộ thuộc Chính phủ thực hiện chức năng ngân hàng trung ương là phù
hợp với thể chế chính trị, kinh tế-xã hội của Việt Nam hiện nay và mức độ hội
nhập của nền kinh tế cũng như nguồn nhân lực của Ngân hàng Nhà nước.

2) Tư cách pháp nhân:
Để xác định tư cách pháp nhân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
chứng ta căn cứ trên 4 đặc trưng chung theo quy định tại điều 74 Bộ luật dân sự
2015, nếu không đảm bảo những đặc trưng đó thì xem như không có tư cách
pháp nhân.
• Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước do Nhà nước thành lập theo sắc lệnh
15/SL. Như vậy xét về đặc trưng này thì Ngân hàng Nhà nước VN được thành
lập hợp pháp.
• Thứ hai, Ngân hàng nhà nước có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Từ khi thành
lập đến nay, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng nhà nước có sự thay đổi qua các
thời kì:

Giai đoạn từ 1951-1987: hệ thống ngân hàng được tổ chức theo
mô hình một cấp. Theo đó, Ngân hàng nhà nước là hệ thống tổ chức thống
nhất, toàn ngành, là một pháp nhân duy nhất.

Giai đoạn thí điểm cải cách hệ thống ngân hàng (1987-1990): Nhà
nước cải cách hệ thống ngân hàng từ một cấp chuyển sang hệ thống ngân hàng
hai cấp.

Giai đoạn sau 1990: Hệ thống ngân hàng hai cấp, Ngân hàng được
tổ chức thành hệ thống tập trung, thống nhất có cơ cấu chặt chẽ.
• Thứ ba, Ngân hàng nhà nước có vốn pháp định thuộc sở hưu nhà nước,
được nhà nước giao vốn, tài sản để hoạt động. Theo quy định tại điều 42 Luật
Ngân hàng nhà nước Việt Nam 2010 quy định “Vốn pháp định của Ngân hàng
Nhà nước do ngân sách nhà nước cấp. Mức vốn pháp định của Ngân hàng Nhà
nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định.” Ngoài vốn pháp định, Ngân hàng
nhà nước còn được giao các loại tài sản khác và được lập quỹ từ chênh lệch thu
chi nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
• Thứ tư, Ngân hàng nhà nước nhân danh chính mình tham gia vào các

quan hệ pháp luật.

12


ÄChính vì hội tụ đầy đủ 4 đặc trưng được quy đinh tại điể 74 Bộ luật dân sự
nên ta có thể khẳng định: Ngân hàng nhà nước Việt Nam có tư cách pháp nhân.
3) Chức năng của Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Theo khoản 2 điều 1 Luật Ngân hàng Nhà nước 2003:
“Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín
dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.”
Theo khoản 3 điều 2 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010:
“Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt
động ngân hàng và ngoại hối (sau đây gọi là tiền tệ và ngân hàng); thực hiện
chức năng của Ngân hàng trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ
chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.”
Nhìn chung các qui định của luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2003 và
luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010 đều đã xác định rõ các chức năng của
Ngân hàng Nhà nước với tư cách là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng như thực hiện các chức năng về quản lý nhà
nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Qua đó khẳng định mối
quan hệ chặt chẽ giữa hai chức năng quan trọng của một Ngân hàng Trung
ương. Cụ thể là:
Chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế:
 Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội
của nhà nước: Bộ kế hoạch và đầu tư phối hợp với các Bộ khác cùng với Ngân
hàng Nhà nước trình Chính Phủdự án kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cả
nước.

 Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ.
 Xây dựng các dự án luật, pháp luật và các dự án khá về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động
ngân hàng.
13


 Cấp thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng
trừ trường hợp do Thủ tướng chính phủ quyết quyết định; cấp, thu hồi giấy
phép hoạt động ngân hàng của tổ chức khác; quyết định giải thể, chấp thuận,
chia, tách, hợp nhất của các tổ chức tín dụng.
 Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng, kiểm soát tín dụng xử lý các vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền.
 Quản lý việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo quy định
của Chính phủ.
 Ngân hàng nhà nước về thanh toán quốc tế, hoạt động đối ngoại…
Chức năng ngân hàng trung ương:
 Phát hành tiền và cung cấp vốn cho nền kinh tế, cho các tổ chức tín dụng
 Hỗ trợ thông tin về hoạt động ngân hàng để đảm bảo an toàn cho hệ
thống. Ngân hàng Nhà nước thường xuyên có những thông tin về hoạt động để
phát hiện kịp thời và đưa ra những chính sách phù hợp
 Thực hiện điều chuyển tiền trong tài khoản của các tổ chức tín dụng để
điều hòa lưu thông tiền tệ
Tuy nhiên các chức năng nhiệm vụ của ngân hàng nhà nước hiện nay được
qui định theo hướng quá coi trọng chức năng quản lý nhà nước về ngân hàng
trong khi đó chức năng ngân hàng trung ương không được quan tâm thỏa đáng.
Ví dụ như: tại khoản 2 điều 10 Luật Ngân hàng Nhà nước 2003 quy định: “Tổ
chức, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy điều hành của ngân hàng nhà nước do
chính phủ quy định.” Tại khoản 1 điều 11 Luật Ngân hàng Nhà nước 2003 quy
định: “Thống đốc ngân hàng Nhà nước là thành viên chính phủ, chịu trách

nhiệm lãnh đạo và điều hành ngân hàng nhà nước.”
Trên thế giới, pháp luật về ngân hàng trung ương của các nước rất ít khi đề
cập đến chức năng quản lý nhà nước về ngân hàng của cơ quan phát hành tiền
quốc gia mà chủ yếu đề cập đến hoạt động này dưới danh nghĩa là chức năng
giám sát về kiểm soát an toàn của hệ thống ngân hàng.Vì vậy chúng em cho

14


rằng chức năng Ngân Hàng Trung Ương cần được quan tâm và chú trọng hơn
nữa trên cơ sở phân tích nêu trên.
4) Nhiệm vụ và quyền hạn:
a. Thứ nhất theo điểm c khoản 2 điều 5 Luật Ngân hàng Nhà nước 2003 và
khoản 1 điều 4 luật Ngân hàng Nhà nước 2010 thì Ngân hàng Nhà nước có
nhiệm vụ đầu tiên là Điều hành chính sách tiền tệ được thể hiện trên 3 khía
cạnh sau:
 Ổn định giá trị đồng tiền:
Được biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát được thể hiện thông qua chỉ số
giá tiêu dùng và các công cụ, biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra
 Bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ
chức tín dụng
Hoạt động của các tổ chức tín dụng có những tác động lớn đến sự ổn
định xã hội, phát triển kinh tế của đất nước, vì với tư cách là các trung gian tài
chính, tổ chức tín dụng là những doanh nghiệp có khả năng huy động và sử
dụng nguồn vốn rất lớn trong xã hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ có thể dẫn đến
đổ vỡ tổ chức tín dụng, gây ra sự mất lòng tin trong nhân dân và đe dọa sự ổn
định của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như của cả nền kinh tế. Do vậy,
Luật Ngân hàng Nhà nước 2003 và đặc biệt là luật Ngân hàng Nhà nước 2010
đã có nhiều quy định để nâng cao nhiệm vụ trách nhiệm của Ngân hàng Nhà
nước về các yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng và hệ thống

các tổ chức tín dụng
Như vậy so với các qui định trong luật Ngân hàng Nhà nước 2003 thì
luật Ngân hàng Nhà nước 2010 đã xác định rõ được thẩm quyền của Ngân
hàng Nhà nước trong việc giám sát an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng
thông qua hai hoạt động giám sát và thanh tra, cùng với việc thành lập Cơ quan
Thanh tra, giám sát Ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước để đảm bảo sự quản
lý chặt chẽ hơn đối với hệ thống tổ chức tín dụng.
 Bảo đảm sự an toàn của hệ thống thanh toán

15


b. Thứ hai, theo điểm a khoản 1 điều 5 luật Ngân hàng Nhà nước 2003 và
theo khoản 2 điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 đều qui định Ngân hàng
Nhà nước có nhiệm vụ tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội
và của ngành ngân hàng
c. Thứ ba theo điểm c khoản 1 điều 5 Luật Ngân hàng Nhà nước 2003 và
theo khoản 4 điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 qui định Ngân hàng Nhà
nước có nhiệm vụ ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành văn
bản qui phạm pháp luật
d. Thứ tư theo khoản 5 điều 4 luật Ngân hàng Nhà nước 2010 qui định
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ xây dưng chỉ tiêu lạm phát hằng năm trình
Chính phủ và để Chính phủ trình quốc hội. Như vậy, Quốc hội sẽ quyết định
chỉ tiêu lạm phát hàng năm và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc
gia của Ngân hàng Nhà nước. Đây là qui định khá cụ thể so với điểm b khoản 1
điều 5 Luật Ngân hàng Nhà nước 2003 qui định Ngân hàng Nhà nước có nhiệm
vụ “Xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia để Chính phủ xem xét trình
Quốc hội quyết định và tổ chức thực hiện chính sách này; xây dựng chiến lược
phát triển hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng Việt Nam”
e. Thứ năm theo điểm a khoản 2 điều 5 Luật Ngân hàng Nhà nước 2003 và

theo khoản 7, 8 điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 thì Ngân hàng Nhà
nước sẽ tổ chức và điều hành phát triển tiền tệ, thực hiện công tác thống kê, dự
báo, in đúc bảo quản vận chuyển tiền; phát hành, thu hồi, thay thế tiêu hủy tiền
f. Thứ sáu theo khoản 9 điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 đã qui định
cụ thể hơn về việc Cấp sửa đổi bổ sung giấy phép hoạt động của các tổ chức tín
dụng so với Luật Ngân hàng Nhà nước 2003 (theo điểm d khoản 1 điều 5). Cụ
thể là :
“Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức
tín dụng, giấy phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài, giấy phép thành
lập văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài, tổ chức nước ngoài
khác có hoạt động ngân hàng; cấp, thu hồi giấy phép hoạt động cung ứng dịch
vụ trung gian thanh toán cho các tổ chức không phải là ngân hàng; cấp, thu hồi

16


giấy phép hoạt động cung ứng dịch vụ thông tin tín dụng cho các tổ chức; chấp
thuận việc mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và giải thể tổ chức tín dụng
theo quy định của pháp luật”
g. Thứ bảy theo khoản 10 điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 qui định
Ngân hàng Nhà nước thực hiện đại diện chủ sở hữu nhà nước trong các tổ chức
tín dụng. Đây là qui định mới so với luật Ngân hàng Nhà nước 2003
h. Thứ tám điểm đ khoản 2 điều 5 luật Ngân hàng Nhà nước 2003 và khoản
17 điều 4 luật Ngân hàng Nhà nước 2010 qui định Ngân hàng Nhà nước có
nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra và xử phạt hành chính trong lĩnh vực tiền tệ ngân
hàng, thực hiện quản lí nhà nước về ngoại hối, quản lý việc cho vay và thu hồi
nợ nước ngoài.
Chính sách ngoại hối là một bộ phận quan trọng của chính sách tiền tệ, vì
vậy Ngân hàng Nhà nước được giao nhiệm vụ quản lý ngoại hối và việc tổ
chức kiểm tra thực hiện. Ngân hàng Nhà nước ban hành các văn bản hướng dẫn

về quản lý ngoại hối, tổ chức thực hiện và kiểm tra. Ngân hàng Nhà nước có
thể can thiệp vào thị trường ngoại hối trong nước qua các nghiệp vụ mua bán,
kinh doanh ngoại hối nhằm ổn định tỉ gía hối đoái của đồng Việt Nam.
Tuy nhiên so với luật Ngân hàng Nhà nước 2003 thì Luật Ngân hàng Nhà
nước 2010 có qui định mới về nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối (theo khoản
18 điều 4). Chúng ta biết rằng việc sử dụng dự trữ ngoại hối vào mục đích chi
tiêu thuộc phạm vi ngân sách cần thiết phải do Quốc hội quyết định, để bảo
đảm đúng chức năng, nguyên tắc quản lý ngân sách nhà nước của Quốc hội.
Tuy nhiên, do điều kiện hiện nay Quốc hội chưa họp được thường xuyên, chỉ
họp hai kỳ trong một năm, đề nghị Quốc hội ủy quyền cho Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quyết định vấn đề này để xử lý một cách kịp thời các yêu cầu sử dụng
Dự trữ ngoại hối nhà nước cho các nhu cầu đột xuất, cấp bách. Kể từ khi hình
thành vào năm 1991 đến nay, dự trữ ngoại hối nhà nước của Việt Nam được
Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước quản lý luôn đóng vai trò rất quan trọng
trong việc bảo đảm nguồn lực để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia, chính
sách tỷ giá, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế và đáp ứng nhu cầu ngoại hối
đột xuất cấp bách của Nhà nước.
17


Dự trữ ngoại hối là một hạng mục tài sản có trong Bảng cân đối của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và được coi là một tài sản bảo đảm cho giá trị tiền
trong lưu thông. Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước được sử dụng cho nhiều mục
đích khác nhau, trong đó chủ yếu là để can thiệp thị trường ngoại hối nhằm ổn
định giá trị đồng tiền thông qua nghiệp vụ mua bán ngoại tệ với các tổ chức tín
dụng. Quỹ Dự trữ ngoại hối Nhà nước được quản lý dưới nhiều hình thức như
tiền gửi, đầu tư vào trái phiếu Chính phủ các nước G7…để đáp ứng nhu cầu
thanh toán bằng ngoại tệ của nền kinh tế, vừa để sinh lời, đảm bảo giá trị của
Quỹ.
Việc quy định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quản lý quỹ Dự trữ ngoại hối

Nhà nước theo quy định của Chính phủ là phù hợp với pháp luật hiện hành về
quản lý ngoại hối. Trong trường hợp việc sử dụng Dự trữ ngoại hối làm thay đổi
dự toán Ngân sách nhà nước thì thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách.
i. Thứ chín Quản lí hệ thống thông tin tín dụng và nhiều nhiệm vụ quyền
hạn khác theo qui định
j. Ngoài ra so với luật Ngân hàng Nhà nước 2003 thì luật Ngân hàng Nhà
nước 2010 có những qui định mới như sau:
Theo khoản 12 điều 4 luật Ngân hàng Nhà nước 2010 có qui định “ Quyết
định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm
trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài
chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần
của tổ chức tín dụng; đình chỉ, tạm đình chỉ, miễn nhiệm chức vụ người quản
lý, người điều hành của tổ chức tín dụng; quyết định sáp nhập, hợp nhất, giải
thể tổ chức tín dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt;
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá
sản đối với tổ chức tín dụng”
Hoặc khoản 13 qui định Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ “Chủ trì,
phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng chính sách, kế hoạch và tổ chức
thực hiện phòng, chống rửa tiền”

18


Hoặc khoản 14 qui định Ngân hàng Nhà nước “Thực hiện quản lý nhà
nước về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi”
Hoặc khoản 25 qui định Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ “Tham gia với
Bộ Tài chính về việc phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu do Chính phủ
bảo lãnh”
5) Nhận xét chung:
Các qui định trong Luật Ngân hàng Nhà nước 2003 về nội dung của các

điều luật còn khá khái quát, không bảo đảm yêu cầu đặt ra cho việc áp dụng. Vì
vậy để phân định rõ về nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước thì
chúng ta có thể tách Điều 5 ra thành 2 phần: một phần quy định về nhiệm vụ;
một phần nói về quyền hạn. Việc tách biệt 2 nội dung nhiệm vụ và quyền hạn
không chỉ có ý nghĩa làm rõ nhưng việc Ngân hàng Nhà nước phải làm mà
quan trọng hơn là khẳng định Ngân hàng Nhà nước có những quyền hạn gì một
cách rõ ràng nhất. Việc bố trí các khoản trong Điều 5 cần bố trí theo hướng quy
định từ nhiệm vụ, quyền hạn cao nhất.

Mặt khác việc qui định chung chung như Luật Ngân hàng Nhà nước 2010 cũng
sẽ không phân định được một cách rõ tràng về nhiệm vụ quyền hạn của Ngân
hàng Nhà nước tương ứng với từng chức năng cụ thể.
Ngoài ra chúng ta cần hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng quy định rõ
hơn nữa trách nhiệm giải trình, báo cáo của Ngân hàng Nhà nước trước Quốc
hội, Chính phủ và công chúng. Đây là nội dung quan trọng trong hoạt động của
Ngân hàng Trung ương nhằm minh bạch hóa, công khai hóa các quyết định
trong điều hành của mình không những với cơ quan cấp trên mà còn với công
chúng, thị trường.

19


CHƯƠNG III: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM.
1. Hoạt động của Ngân hàng nhà nước:
a. Thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia:
Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính
phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái hay tăng trưởng kinh
tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất
định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui

định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Theo điều 15 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Ngân hàng nhà
nước Việt Nam có trách nhiệm:
- Chủ trì xây dựng chính sách tiền tệ quốc gia, kế hoạch cung ứng
lượng tiền bổ sung cho lưu thông hằng năm trình Chính Phủ.
- Điều hành chính sách tiền tệ quốc gia thông qua các công cụ.
Các công cụ chủ yếu để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia:
• Công cụ tái cấp vốn (điều 17 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam):
Là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân
hàng thương mại. Khi cấp một khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại,
Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho
Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
Được ngân hàng sử dụng dưới hình thức cho vay theo hồ sơ tín dụng, chiết
khấu, tái chiết khấu theo phương thức thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn
khác
• Công cụ lãi suất (điều 18 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam):
Đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì
sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền
trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Cơ chế điều
hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp
cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ,
tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Tỷ giá hối đoái (điều 19 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam):
20


Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ.
Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu
ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác
động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước.

Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất
nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế,
thu hút vốn đầu tư, dự trữ của đất nước.
Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá
không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc
biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ
quan trọng cho chính sách tiền tệ. Căn cứ vào cung cầu ngoại tệ trên thị trường
và nhu cầu điều tiết của nhà nước xác định và công bố tỷ giá hối đoái của đồng
Việt Nam.
• Dự trữ bắt buộc (điều 20 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam):
Áp dụng đối với các tổ chức tín dụng. Để duy trì hoạt động kinh doanh và
hạn chế rủi ro thì các tổ chức tín dụng phải thành lập quỹ dự phòng. Để đáp
ứng nhu cầu chi trả thanh toán đột xuất và phòng ngừa rủi ro trong hoạt động
tín dụng, tổ chức tín dụng phải gửi tại ngân hàng nhà nước một số tiền gửi theo
mức từ 0 – 20 % tổng số dư tiền gửi ở tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với từng loại tiền gửi và tổ chức tín dụng khác nhau phụ thuộc vào mức độ
rủi ro.
• Nghiệp vụ thị trường mở (điều 21 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam):
Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên
thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối
lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung
ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối
lượng tiền tệ. Thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn: tín phiếu
kho bạc , chứng chỉ tiền gửi…
b. Phát hành tiền: (điều 23 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam):
Phát hành tiền là cung ứng tiền vào lưu thông làm phương tiện thanh toán. Chỉ
có Ngân hàng nhà nước là cơ quan duy nhất mới có quyền phát hành tiền bao
gồm tiền giấy và tiền kim loại. Mọi hành vi từ chối nhận, lưu hành đồng tiền
do Ngân hàng nhà nước phát hành đều bị coi là bất hợp pháp
21



c. Hoạt động tín dụng :
Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhà nước khác biệt về bản chất so với
hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. Bởi vì hoạt động tín dụng của
ngân hàng nhà nước nhằm mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bảo
đảm an toàn cho hệ thống tín dụng. Thông qua các hình thức: bảo lãnh; cho
vay; tạm ứng cho ngân sách nhà nước; góp vốn, mua cổ phần.
• Cho vay (điều 30 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam):
Là hình thức hoạt động tín dụng của ngân hàng nhà nước. Ngân hàng nhà
nước cho các tổ chức tín dụng là ngân hàng vay ngắn hạn. Hoạt động cho vay
này thể hiện vai trò của ngân hàng nhà nước là ngân hàng của các ngân hàng.
Trường hợp đặc biệt, Ngân hàng nhà nước cho vay đối với tổ chức tín dụng
tạm thời mất khả năng chi trả, nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các Tổ
chức tín dụng khi được Thủ Tướng Chính Phủ đồng ý.
• Bảo lãnh (điều 31 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam):
Được xem là hình thức hoạt động tín dụng của ngân hàng nhà nước nhưng
chỉ áp dụng cho tổ chức tín dụng vay vốn nước ngoài theo chỉ định của Thủ
tướng Chính Phủ. Không bảo lãnh cho tổ chức cá nhân vay vốn.
• Tạm ứng cho ngân sách nhà nước (điều 32 Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam):
Là hình thức hoạt động tín dụng của Ngân hàng nhà nước để xử lý thiếu
hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính
phủ. Việc ngân hàng nhà nước cho ngân sách nhà nước cho vay hoặc tạm ứng
cho ngân sách nhà nước tức là cung ứng thêm tiền cho lưu thông sẽ gây ra lạm
phát và ảnh hưởng tới chính sách tiền tệ.
Nước ta trong tình hình nền kinh tế chuyển đổi nên nguồn chi rất lớn mà
nguồn thu lại có hạn nên ngân sách nhà nước thường gặp tình trạng thiếu hụt
tạm thời, nếu không có sự hỗ trợ của nhà nước sẽ rất khó khăn. Vì vậy cần phải
có quy định tạm ứng cho ngân sách nhà nước và khoản tạm ứng này phải được

hoàn trả trong năm ngân sách trừ trường hợp đặc biệt do Thủ Tướng Chính Phủ
quyết định.
• Góp vốn, mua cổ phần (điều 33 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam):
Ngân hàng nhà nước không được góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín
dụng và doanh nghiệp khác.
2. Đối với việc hoạch định và thực thi Chính sách tiền tệ:
22


Luật quy định rõ khái niệm chính sách tiền tệ quốc gia để làm cơ sở xây
dựng thẩm quyền của các cơ quan (Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng nhà nước)
đối với chính sách tiền tệ. Theo đó, chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết
định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bao gồm
quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát,
quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.
Về thẩm quyền quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, Luật cụ thể hóa được
vai trò, vị trí của các cơ quan nhà nước trong việc quyết định và thực thi chính
sách tiền tệ quốc gia trên cơ sở phù hợp Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ.
Cụ thể là: Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm được thể hiện thông
qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia; Chủ tịch nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp
và pháp luật quy định trong việc đàm phán, ký kết, gia nhập điều ước quốc tế
nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lĩnh vực tiền tệ
và ngân hàng; Chính phủ trình Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng
năm; Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định việc sử
dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền
tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.
Thẩm quyền cụ thể của Ngân hàng nhà nước trong việc thực thi chính
sách tiền tệ:
Thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ tái cấp

vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở để thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Về công cụ lãi suất, Luật đã quy định lãi suất điều hành chính sách tiền tệ
và lãi suất cơ bản để chống cho vay nặng lãi, vừa đảm bảo để Ngân hàng nhà
nước điều hành, thực thi chính sách tiền tệ, vừa có cơ sở để áp dụng quy định
của các luật liên quan như Luật Dân sự, Hình sự, Lao động, Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước… Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng để Ngân
hàng nhà nước thay đổi nội hàm lãi suất cơ bản theo hướng lãi suất cơ bản
không phải là cơ sở để các Tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh mà
làm cơ sở cho việc phòng, chống cho vay nặng lãi trong nền kinh tế. Trong
trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng nhà nước quy
23


định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các Tổ chức tín dụng
với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.
Theo quy định của Luật này, Ngân hàng nhà nước quyết định chế độ tỷ giá,
cơ chế điều hành tỷ giá. Thẩm quyền của Ngân hàng nhà nước trong thực thi
chính sách tiền tệ nhằm ổn định giá trị đồng tiền đã được nâng cao hơn.
Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước tổ chức hệ thống thống kê, dự báo về
tiền tệ và ngân hàng; công khai thông tin về tiền tệ và hoạt động ngân hàng
theo qui định của pháp luật; chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả
thực hiện cán cân thanh toán quốc tế; Ngân hàng nhà nước tham gia với Bộ
Tài chính về việc phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu do Chính phủ bảo
lãnh; Thống đốc Ngân hàng nhà nước có quyền thành lập các ban, hội đồng tư
vấn về các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng nhà
nước; Hoạt động của Ngân hàng nhà nước được qui định rộng hơn trong
trường hợp cho vay đặc biệt đảm bảo có thể can thiệp sớm hơn, hạn chế rủi ro
cho hệ thống ngân hàng…
3. Hoạt động thông tin báo cáo:

Những qui đinh về các hoạt động thông tin báo cáo được thể hiện tại mục 6
phần các hoạt động của Ngân hàng nhà nước theo Luật Ngân hàng nhà nước
năm 2010, gồm 7 điều từ điều 33 đến điều 41. Với nội dung thể hiện trong các
điều luật thì trách nhiệm cung cấp các thông tin, dữ liệu thuộc về các cá nhân,
tổ chức và các tổ chức tín dụng, những chủ thể thực hiện các chính sách tiền tệ
do Ngân hàng nhà nước điều hành. Là các đối tượng trực tiếp chịu sự thanh tra,
kiểm tra, đánh giá của Ngân hàng nhà nước nên trách nhiệm báo cáo kịp thời,
chính xác, nhanh chóng và trung thực các thông tin quan trọng cho Ngân hàng
nhà nước phục vụ cho công tác thống kê, phân tích, dự báo giúp bảo đảm cho
chính sách tiển tệ quốc gia và công tác quản lý ngoại hối phù hợp với xu
hướng phát triển của thị trường tiền tệ. Với sự biến động liên tục nên những
thông tin được cung cấp tạo thuận lợi cho hoạt động dự báo tình hình thay đối
trên thị trường tiển tệ, kiểm soát được lượng tiền ngoại tệ và nội tệ lưu thông
trong nền kinh tế. Bảo đảm cán cân thanh toán và yêu cầu xây dưng Bảng cân
đổi tiền tệ. Bên canh trách nhiệm của các tổ chức tín dụng thì Ngân hàng nhà
nước cũng thực hiện các nhiệm vụ của mình về hoạt động thông tin. Với chức
24


năng quản lý của mình Ngân hàng nhà nước là tổ chức thu nhận thông tin từ
phía các tổ chức tín dụng và các tổ chức liên quan và sử dụng các nguồn này
vào công tác xây dựng chính sách. Đồng thời, Ngân hàng nhà nước cũng đảm
nhiệm luôn vai trò lưu trữ, cung cấp và công bố thông tin công khai theo thầm
quyền cho tất cả mọi chủ thể trong nển kinh tế nắm bắt kịp thời mọi chủ trương
chính sách, tạo sự phối hợp nhịp nhàng giữa Nhà nước và các đối tượng chịu
sự điều chỉnh của các chính sách, chủ trương.
Để đảm bảo độ tin cậy cho những thông tin quan trọng vể lĩnh vực tiền tệ và
ngân hàng của Nhà nước, Ngân hàng nhà nước có quyền từ chối yêu cầu cung
cấp thông tin của tổ chức, cá nhân trừ trường hợp theo yêu cầu cuả cơ quan nhà
nước có thẩm quyền. Vì lĩnh vực tiền tệ ngân hàng là lĩnh vực có ảnh hưởng

mạnh mẽ đến nền kinh tế nên việc giữ bí mật thông tin cuả các tổ chức tín
dụng, bí mật tiền gửi của tổ chức, cá nhân theo pháp luật là rất quan trọng. Nó
tạo sự ổn định trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Cán bộ, công chức
Ngân hàng nhà nước phải giữ bí mật thông tin hoạt động nghiệp vụ của Ngân
hàng nhà nước.
Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách của nhà nước nhằm phát
kinh tế đất nước do vậy các hoạt động phục vụ cho chính sách cần được giám
sát chặt chẽ bởi Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội cùng các cơ quan khác
của Quốc hội. Thủ tướng chính phủ báo cáo hoặc ủy quyển cho Thống đốc
Ngân hàng nhà nước báo cáo theo định kì 06 tháng và hẳng năm. Theo Luật
Ngân hàng nhà nước 2010 trách nhiệm và quyền cuả Ngân hàng nhà nước
được qui định rõ ràng và tách bạch và phạm vi của sự giám sát trong quá trình
hoạt động. Thêm vào đó, hoạt động xuất bản các ấn phẩm vể tiền tệ và ngân
hàng theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho thông tin trong hoạt động
tiền tệ phổ biến đến tất cả mọi đối tượng trong xã hội. Càng thể hiện sự công
khai trong chế độ quản lý tiền tệ của Ngân hàng nhà nước. Và đây cũng chính
là điểm mới so với Luật Ngân hàng nhà nước 2003.
4. Các hoạt động khác:
a) Tài chính, hạch toán, kế toán và báo cáo của ngân hàng nhà
nước

25


×