Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Biện pháp chỉ đạo dạy tốt phân môn luyện từ và câu lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.51 KB, 23 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, bậc học Tiểu học là bậc học nền tảng trong hệ thống
giáo dục. Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát
triển nhân cách của con người Việt Nam. Cùng với các môn học khác, môn
Tiếng Việt ở Tiểu học có vị trí hết sức quan trọng, là chìa khóa mở ra kho tàng
văn hóa trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội của con người. Trong môn Tiếng Việt
thì phân môn Luyện từ và câu có nhiệm vụ quan trọng, giúp học sinh lĩnh hội
Tiếng Việt, văn hóa, là công cụ giao tiếp tư duy và học tập. Đối với học sinh khi
sử dụng Tiếng Việt thì việc các kiến thức trong phân môn Luyện từ và câu giúp
học sinh có đủ điều kiện để sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong học tập
các môn văn hóa, trong việc viết văn bản. Trong phân môn Luyện từ và câu thì
hai nhiệm vụ rèn luyện về từ và rèn luyện về câu luôn có mối liên mật thiết với
nhau. Luyện từ và câu lớp 2 giúp học sinh mở rộng vốn từ, cung cấp cho học
sinh một số hiểu biết sơ giản về từ loại, rèn cho học sinh kĩ năng dùng từ, đặt
câu, sử dụng dấu câu, bồi dưỡng thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu.
Qua đó, bồi dưỡng cho các em tình cảm yêu thích môn Tiếng Việt.
Qua thực tế giảng dạy trước đây và bây giờ là việc dự giờ thăm lớp ở lớp 2
nói chung và ở môn Tiếng Việt 2 nói riêng, tôi thấy vốn từ của các em còn rất
hạn chế, việc tìm hiểu và sử dụng từ còn lúng túng, gặp rất nhiều khó khăn cần
phải được bổ sung và phát triển để đáp ứng nhu cầu học tập và giao tiếp. Muốn
nói hay viết giỏi đều phải dùng từ. Từ là phương tiện để cấu thành ngôn ngữ.
Hiểu được nghĩa của từ đã khó, còn phải biết dùng từ như thế nào cho hợp văn
cảnh, đúng ngữ pháp còn khó hơn. Vì vậy, việc dạy cho học sinh nắm vững
Tiếng Việt không thể không coi trọng việc dạy phân môn Luyện từ và câu vì nó
đặt nền móng cho việc tiếp thu tốt các môn học khác ở các lớp học trên.
Hiểu được tầm quan trọng của việc dạy học Luyện từ và câu, cho nên trong
những năm qua, tôi đã dành nhiều thời gian vào việc tìm hiểu phương pháp dạy
học phân môn này. Thực tế, tôi đã vận dụng có hiệu quả qua các tiết dạy học
trên lớp, và tham gia thao giảng các cấp. Đặc biệt, tôi đã có tiết dạy đạt xuất sắc
cấp Tỉnh. Nay trên cương vị một người quản lý, tôi vẫn dành nhiều thời gian vào


tìm hiểu phân môn này với mong muốn đưa ra một số một số biện pháp chỉ đạo
dạy học ở trường đạt hiệu quả và cũng là để chia sẻ kinh nghiệm với các bạn
đồng nghiệp. Đề tài Một số biện pháp chỉ đạo dạy tốt phân môn Luyện từ và
câu Lớp 2 ở trường Tiểu học Xuân Quang hi vọng sẽ là những kinh nghiệm
bổ ích để các đồng nghiệp cùng chia sẻ!

1


2. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra những khó khăn vướng mắc của giáo viên và học sinh thông qua
các giờ dạy và các bài tập Luyện từ và câu để tìm ra một số biện pháp cụ thể
nhằm chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt nói chung và phân
môn Luyện từ và câu lớp 2 nói riêng.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp chỉ đạo dạy tốt phân môn Luyện từ và câu Lớp 2
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp điều tra khảo sát, thống kê.

2


II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Luyện từ và câu là phân môn nền tảng trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học
nói chung và ở lớp 2 nói riêng. Luyện từ và câu giúp học sinh có năng lực sử

dụng vốn ngôn ngữ Tiếng Việt trong nói và viết. Từ đó, sử dụng Tiếng Việt văn
hóa một cách thành thạo làm công cụ tư duy để học tập giao tiếp và lao động.
Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, học sinh đã được làm quen với lí
thuyết của từ và câu. Sau đó, kiến thức được mở rộng thêm và nâng cao dần để
phục vụ cho nhu cầu ngày một tăng trong cuộc sống của các em cũng như trong
lao động, học tập và giao tiếp. Chính vì vậy, việc dạy Luyện từ và câu có vị trí
rất quan trọng. Không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm được ngôn ngữ,
không nắm được phương pháp giao tiếp. Việc dạy từ và câu ở giai đoạn đầu giúp
học sinh nắm được vốn tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện học tập và phát triển toàn
diện. Thực tế cho thấy, hiệu quả giáo dục nhiều mặt của Luyện từ và câu là rất to
lớn. Nó giúp học sinh phát triển ngôn ngữ, tư duy lôgic và các năng lực trí tuệ
như trừu tượng hóa, khái quát hóa, phân tích tổng hợp… và các phẩm chất đạo
đức như tính cẩn thận, cần cù. Ngoài ra, phân môn Luyện từ và câu còn có vai
trò hướng dẫn và rèn cho học sinh kĩ năng nói, đọc, viết.
Nhiệm vụ rèn luyện về câu của phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 là giúp
học sinh quen với các kiểu câu như : Ai là gì ? Ai làm gì ? Ai thế nào ? một số
thành phần trong câu, tập dùng một số dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm
hỏi, dấu chấm than, trọng tâm là dấu chấm và dấu phẩy). Dạy Luyện từ và câu ở
lớp 2 nói riêng còn giúp cho học sinh hiểu về cấu tạo của từ, khái niệm về từ và
câu, có được những kĩ năng mà học sinh cần đạt trong giờ học đó là: Biết dùng
từ, đặt câu trong nói và viết, nói đúng, nói dễ hiểu và sử biết dụng các câu văn
hay, nhận ra những từ, câu chưa hay để loại ra khỏi vốn từ của mình. Bên cạnh
đó, dạy từ và câu ở lớp 2 giúp học sinh mở rộng, phát triển vốn từ (phong phú
hóa vốn từ), nắm được nghĩa của từ (chính xác hóa vốn từ), quản lí phân loại
vốn từ (hệ thống hóa vốn từ và luyện tập sử dụng từ), tích cực hóa vốn từ.
Ngoài ra học sinh còn nắm được văn hóa chuẩn của lời nói, rèn cho học sinh khả
năng tư duy lôgic cao và khả năng thẩm mĩ.
Phân môn Luyện từ và câu còn có tác dụng to lớn trong quá trình phát
triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh. Qua phân môn Luyện từ và câu các em nắm
được từ và mở rộng vốn từ, giải nghĩa của từ và về câu. Các em nắm được các

kiểu câu, các dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than), biết
cách sử dụng từ và câu phù hợp với ngữ cảnh và lời nói. Ngoài ra, nội dung
chương trình của phân môn Luyện từ và câu ở tiểu học được xây dựng phù hợp
với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em mở rộng thêm kiến thức
trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một tốt hơn, tiến bộ hơn, đạt
kết quả cao hơn.

3


2. Thực trạng của việc dạy học Luyện từ và câu lớp 2 ở trường Tiểu học
Xuân Quang.
2.1. Thực trạng dạy học của giáo viên :
Qua việc dự giờ trên lớp cũng như dự giờ thao giảng cấp trường tôi nhận thấy:
- Các hình thức tổ chức hoạt động học tập trong giờ học Luyện từ và câu
còn đơn điệu, chưa phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh.
- Tiết Luyện từ và câu thường trầm không sôi nổi, học sinh tập trung chú ý
chưa cao. Giáo viên lại phải chuẩn bị nhiều đồ dùng cho một tiết dạy. Mặt khác đồ
dùng trực quan sẵn có ở thiết bị nhà trường chưa đáp ứng đủ cho các tiết học
- Dạy Luyện từ và câu là khó so với các phân môn khác, có nhiều từ, câu
chưa phân định rõ ràng nên trong khi giảng dạy giáo viên còn lúng túng trong
việc giúp học sinh phân định từ, câu.
- Việc rèn luyện các kĩ năng nghe nói, đọc viết, cho học sinh chưa được
thường xuyên
Ví dụ 1 : Khi dự giờ lớp 2B bài “Từ ngữ về muông thú” (tuần 23)
Nhận xét: Sau khi hướng dẫn học sinh làm bài tập 1: Xếp tên các con vật
vào hai nhóm thích hợp (thú nguy hiểm và nhóm thú không nguy hiểm), giáo
viên yêu cầu học sinh tìm thêm tên một số loài thú nguy hiểm và thú không
nguy hiểm chưa có tên trong bài tập để giúp học sinh mở rộng vốn từ, có học
sinh nêu tên con rắn nhưng giáo viên đã công nhận câu trả lời của học sinh là

đúng. Tuy nhiên, tên con rắn mà học sinh liệt kê vào muông thú là sai vì nó
thuộc loài bò sát.
Ví dụ 2 : Khi dự giờ lớp 2A bài Từ ngữ về sông biển. Dấu phẩy (Tuần 26).
Nhận xét : Giáo viên lần lượt hướng dẫn học sinh nắm yêu cầu của ba bài
tập (SGK trang 73,74). Sau đó cho học sinh lần lượt giải ba bài tập đó rồi cho
học sinh nhận xét, kết luận, tiếp đó giáo viên chốt kiến thức. Giờ dạy trôi qua
một cách buồn tẻ do phương pháp và hình thức tổ chức dạy học của giáo viên
đơn điệu không gây được hứng thú học tập cho học sinh dẫn đến học sinh làm
việc mệt mỏi, có em không tập trung học bài dẫn đến hiệu quả giờ dạy chưa cao.
2.2.Thực trạng học của học sinh:
Qua khảo sát dự giờ học sinh lớp 2, tôi nhận thấy việc học và làm bài tập
Luyện từ và câu của học sinh có nhược điểm sau:
- Về Từ : Học sinh tìm còn sai yêu cầu, số lượng ít, hiểu nghĩa từ còn mơ
hồ, phát hiện từ loại chậm....
- Về Câu : Đặt câu chưa rõ nghĩa, tìm bộ phận trả lời của câu theo mẫu
còn thừa hoặc thiếu, sử dụng dấu câu chưa thành thạo...
Để minh chứng cho điều này, năm học 2015- 2016 tôi đã tiến hành khảo
sát thực trạng khả năng nắm kiến thức Luyện từ và câu của học sinh hai lớp
2A,2B theo từng giai đoạn (trước thực nghiệm và sau thực nghiệm) thông qua
các bài khảo sát ( trước thực nghiệm) và kiểm tra đối chứng ( sau thực nghiệm).

4


Bài khảo sát số 1 : Thời điểm sau khi học xong tuần 4, kiểm tra đồng thời
cả hai lớp 2A và 2B.
Bài 1 : Tìm các từ:
- Chỉ đồ dùng học tập
M : bút
- Chỉ hoạt động của học sinh

M : đọc
- Chỉ tính nết của học sinh
M : chăm chỉ
Bài 2 : Ngắt đoạn văn sau thành 4 câu rồi viết lại cho đúng chính tả:
Trời mưa to Hòa quên mang áo mưa Lan rủ bạn đi chung áo mưa với
mình đôi bạn vui vẻ ra về.
Kết quả khảo sát bài số 1 :
Kết quả

Lớp
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2A
25
6
24
9
36%
8

32%
2
8%
2B
23
5
21,7
8
34,8
7
30
3
13,5
Nhận xét về bài làm của học sinh : Nhìn chung nhiều em hiểu bài và làm
bài tập tương tốt tốt, các em tìm tương đối chính xác, biết sử dụng dấu câu,
nhiều em trình bày bài sạch sẽ cho nên điểm của các em khá cao. Tuy nhiên, bên
cạnh đó một số em còn chưa xác định đúng từ, xác định cách ngắt câu chưa
đúng, có em nắm kiến thức chưa chắc nên khi làm bài tập còn tẩy xóa rất nhiều.
Ví dụ : Ở bài 1 có em tìm từ chỉ đồ dùng học tập là xe đạp; tìm từ chỉ
hoạt động của học sinh là ngoan. Ở bài 2 do chưa hiểu kĩ cách ngắt câu nên
nhiều em ngắt không đúng chỗ nên khi đọc lên có những câu vô nghĩa như Trời
mưa to Hòa; Hòa quên áo mưa Lan...
Như vậy, qua kết quả khảo sát ta có thể thấy nguyên nhân dẫn đến sai sót
này là do đây là bước đầu học sinh tiếp xúc và làm quen với Luyện từ và câu
nên các bài làm của các em còn nhiều hạn chế và thiếu sót cả về kiến thức và kỹ
năng cơ bản. Bên cạnh đó do nhận thức cảm tính nên sự vận dụng vốn sống vào
trong bài tập còn thiếu chính xác; khả năng xác định từ, câu của học sinh còn
kém, các em còn nhầm lẫn dấu câu: dấu chấm và dấu phẩy.
Từ việc làm bài tập của học sinh, tôi thấy khả năng tư duy và sáng tạo của
học sinh là chưa cao. Việc rèn luyện bốn kỹ năng cơ bản : nghe, nói, đọc, viết

cho học sinh chưa thường xuyên. Vì vậy khả năng diễn đạt của các em chưa thật
sự tốt ở cả hai mặt nói và viết. Khi giao tiếp, tôi thấy học sinh nói chưa lưu loát.
Đồng thời các em thường nói nhỏ khi chưa chắc chắn đúng, nói theo cảm tính
suy nghĩ của mình, nên không trau chuốt, không thành câu. Viết câu chưa đúng
chính tả như chưa chấm câu, chưa viết hoa, viết thiếu bộ phận chính..
Tóm lại, khả năng giao tiếp và nắm bắt ngôn ngữ của các em còn nhiều
vấn đề cần bàn. Vì thế, vấn đề cần đặt ra là phải tìm ra nguyên nhân và có những
giải pháp hữu hiệu kịp thời để khắc phục nhược điểm, hạn chế của học sinh.
5


3. Một số biện pháp chỉ đạo dạy tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 2 ở
trường Tiểu học Xuân Quang.
3.1. Biện pháp thứ nhất : Giúp giáo viên xác định đúng mục tiêu cần
đạt của mỗi bài tập và mục tiêu của tiết học.
Phân môn Luyện từ và câu lớp 2 không có bài lý thuyết cung cấp cho học
sinh kiến thức từ ngữ để ghi nhớ và học thuộc mà từ ngữ được cung cấp thông
qua các bài tập thực hành nên yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành là yêu cầu cơ
bản trong từng tiết học Luyện từ và câu. Mỗi bài dạy Luyện từ và câu lớp 2
thường có hai phần : Mở rộng vốn từ (phần từ) và bài tập về câu (phần câu). Vì
vậy, giáo viên muốn dạy tốt thì phải xác định rõ mục tiêu của tiết học đó là mỗi
bài cần cung cấp kiến thức gì cho học sinh? kiến thức đó cung cấp trên cơ sở
nào? Bên cạnh đó, giáo viên cần phải chú ý “tích hợp” các kiến thức và kỹ năng
trong tiết học với những kiến thức kỹ năng đã học trước đó, tích hợp với vốn
sống của các em. Giáo viên cần giúp các em hiểu và vận dụng kiến thức để làm
bài tập một cách phù hợp.
Ví dụ : Tiết Luyện từ và câu tuần 26 ( Tiếng Việt 2 tập 2 trang 73)
* Mục tiêu về kiến thức : Giúp học sinh nhận biết một số loài cá nước
ngọt, nước mặn (BT1); kể tên một số con vật sống dưới nước (BT2). Biết đặt
dấu phẩy vào chỗ thích hợp trong câu còn thiếu dấu phẩy.

* Mục tiêu về kĩ năng: Giúp học nắm bắt, hiểu biết về các loài vật sống
dưới nước để vận dụng vào cuộc sống. Hình thành kĩ năng tư duy, biết đặt dấu
câu đúng chỗ, hợp lí.
Như vậy, dựa trên mục tiêu cần đạt thì sau bài học giáo viên cần phải giúp
học sinh nắm được các nội dung kiến thức đó là:
- Nhìn hình ảnh hoặc bề ngoài các em biết tên một số loài cá nước ngọt,
nước mặn như cá thu, cá chép, cá quả,...
- Nhớ và kể tên một số loài vật sống dưới nước như tôm, cá, mực, cua
biển, ghẹ, hải cẩu, cá heo, ...
- Biết sử dụng dấu phẩy trong câu văn đúng lúc, đúng chỗ.
Bên cạnh đó giáo viên cần giúp học sinh biết “tích hợp” kiến thức các bài học
trước đó để vận dụng hiệu quả vào bài học trong tiết học này. Cụ thể, trước đó, ở tuần
25 các em được học chủ điểm mới đó là chủ điểm Sông biển. Và tất cả các bài tập
đọc, kể chuyện, chính tả đều thuộc chủ để sông biển. Bởi vậy, muốn giúp các em làm
tốt các bài tập này thì giáo viên phải giúp các em nhớ lại những kiến thức và kỹ năng
của các bài học tập đọc, luyện từ và câu, chính tả, kể chuyện để trên cở sở đó, củng cố
và mở rộng vốn từ cho các em một các hiệu quả nhất.
Ví dụ: Tuần 25 và 26 lớp 2, học sinh học chủ đề về Sông biển, học sinh
được học các bài tập đọc, chính tả, kể chuyện như: Tôm càng và cá con, Vì sao
cá không biết nói. Như vậy qua các bài học này các em đã có một vốn hiểu biết
cũng như vốn từ ngữ nhất định về các con vật sống dưới nước. Vì vậy, khi dạy
bài Luyện từ và câu tuần 26 “Mở rộng vốn từ: Từ ngữ về sông biển. Dấu phẩy”
giáo viên sẽ định hướng để học sinh nhớ và vận dụng các kiến thức của các bài
học này để làm các bài tập trong tiết học một các hiệu quả.
6


3.2. Biện pháp thứ hai : Định hướng để giáo viên lựa chọn các hình
thức học tập, các biện pháp tổ chức thực hiện thích hợp cho mỗi tiết học.
Việc lựa chọn các hình thức hoạt động của học sinh trong một tiết học có

tác dụng rất lớn để phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, tạo không khí
sôi nổi trong giờ học giúp các em hứng thú với tiết học và các em nắm kiến thức
một cách hiệu quả. Nội dung các tiết Luyện từ và câu chủ yếu là luyện tập thực
hành nên khi chuẩn bị một tiết dạy, tôi thường định hướng cho giáo viên khi dạy
cần kết hợp các hoạt động của học sinh trong các tiết học theo các hình thức:
- Làm việc độc lập
- Làm việc theo nhóm
- Làm việc chung theo đơn vị lớp
Ví dụ : Tiết Luyện từ và câu Tuần 33 (Tiếng Việt 2 tập 2 trang 129), giáo
viên cần lựa chọn các hình thức hoạt động của từng bài như sau:
Bài 1 : Tìm từ ngữ chỉ một ngành nghề của những người vẽ trong tranh
dưới đây:
Đây là bài tập dựa vào tranh để tìm từ, trước hết, giáo viên cho học sinh
làm việc cá nhân quan sát kĩ từng bức tranh để tìm từ sau đó gọi học sinh nối
tiếp phát biểu tìm từ.
Bài 2 : Tìm thêm những từ chỉ nghề nghiệp khác mà em biết.
Mẫu: thợ may.
Ở dạng bài tập này, cần thay đổi hình thức học cá nhân sang học nhóm, tùy
vào số học sinh của lớp giáo viên chia thành 3-4 nhóm và tổ chức thi tìm nhanh
các từ. Sau đó, các em viết từ vào giấy khổ to và trong thời gian nhất định các
nhóm báo cáo kết quả, giáo viên tổng kết các từ học sinh tìm được và tuyên
dương nhóm tìm được nhiều, nhanh, chính xác để tạo không khí sôi nổi trong
giờ học.
Bài 3 : Trong các từ dưới đây, những từ nào nói lên phẩm chất của nhân
dân Việt Nam.
(Anh hùng, cao lớn, thông minh, gan dạ, rực rỡ, cần cù, đoàn kết, vui
mừng, anh dũng)
Với bài tập này, giáo viên vẫn cho học sinh hoạt động theo nhóm nhưng là
nhóm đôi. Các em trao đổi theo cặp để tìm từ, sau đó gọi đại diện của 2 hay 3
nhóm nêu kết quả, các nhóm khác bổ sung ý kiến.

Bài 4 : Đặt câu với mỗi từ tìm được ở bài tập 3
Sang đến bài tập 4, giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân, sau một thời
gian các em làm việc gọi học sinh trả lời theo kiểu nối tiếp nhau sau đó nhận xét
và chữa câu các em đã đặt.
Với cách kết hợp các hình thức dạy học khi dạy Luyện từ cho học sinh sẽ
đạt hiệu quả rất cao, nhất là đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ, các em
được hoạt động theo nhiều hình thức, phát huy được vốn từ có sẵn của bản thân
đồng thời tạo ra sự tự tin, mạnh dạn trao đổi, thảo luận trong nhóm. Việc thay
đổi các hình thức học tập làm cho tất cả học sinh được hoạt động.

7


3.3. Biện pháp thứ ba : Giúp giáo viên nắm vững từng dạng bài và
phương pháp dạy từng loại bài để tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp.
Phân môn Luyện từ và câu ở lớp 2 có nhiều dạng bài, mỗi dạng có
phương pháp dạy khác nhau. Với những kinh nghiệm của bản thân, tôi đã định
hướng giúp giáo viên nắm vững phương pháp dạy từng dạng bài như sau:
a) Dạy học các bài mở rộng vốn từ :
Bài mở rộng vốn từ ở lớp 2 được chia thành các dạng: Mở rộng vốn từ
qua tranh vẽ; Mở rộng vốn từ theo quan hệ ngữ nghĩa; Mở rộng vốn từ theo cấu
tạo. Hệ thống từ ngữ cung cấp cho học sinh chủ yếu được dạy dưới dạng các bài
tập thực hành. Học sinh có kỹ năng nắm nghĩa của từ, mở rộng từ, sử dụng từ...
tất cả chỉ hình thành và phát triển thông qua quá trình luyện tập. Khi dạy cho
học sinh mở rộng vốn từ, tôi lưu ý giáo viên về phương pháp dạy như sau :
Dạng 1 : Mở rộng vốn từ qua tranh vẽ:
Tranh vẽ là loại thiết bị tạo hình, có tác dụng làm chỗ dựa cho việc tìm từ,
mở rộng vốn từ của học sinh, nhất là đối với học sinh lớp 2, mở rộng vốn từ qua
tranh vẽ giúp các em dễ nắm bắt nghĩa của từ và mở rộng từ một cách có hệ
thống. Khi dạy dạng bài tập này, giáo viên cho học sinh lần lượt đối chiếu từng

từ cho sẵn với các hình ảnh tương ứng, học sinh quan sát kĩ các tranh vẽ và nối
từ. Qua đó, các em nắm được nghĩa của từ và mở rộng thêm vốn từ. Các bài tập
về mở rộng vốn từ qua tranh vẽ là :
- Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 1 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 8) :
Chọn tên gọi cho mỗi người, mỗi vật, mỗi việc trong các tranh vẽ (học
sinh, cô giáo, xe đạp, nhà trường...)
- Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 15 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 122) :
Dựa vào tranh trả lời các câu hỏi (tìm từ chỉ đặc điểm) như xinh đẹp, dễ
thương, khỏe, to, chăm chỉ….
- Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 17 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 142) :
Chọn cho mỗi con vật một từ chỉ đúng đặc điểm của nó (nhanh, chậm,
khỏe, trung thành….)
- Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 22 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 35):
Nối tên các loài chim : đại bàng, cú mèo, chim sẻ, sáo sậu với tranh.
Tuy nhiên, trong số các bài tập này thì có một số bài mà từ không cho sẵn,
học sinh cần dựa vào tranh vẽ để gọi tên các từ được biểu hiện trong hình. Khi
dạy dạng bài này, giáo viên hướng dẫn quan sát kĩ từng bức tranh, suy nghĩ tìm
từ tương ứng. Thông thường, học sinh tìm khá tốt các từ chỉ sự vật. Còn ở các
bài tập tìm từ chỉ hoạt động, đặc điểm, tính chất,... học sinh còn khó khăn. Để
học sinh có thể tìm được đúng từ theo tranh, giáo viên gợi mở dẫn dắt học sinh
qua các câu hỏi nhỏ.
Ví dụ : Bài tập 2, tiết Luyện từ và câu tuần 7 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 59)
Để học sinh tìm đúng từ “đọc, xem ” trong bức tranh, giáo viên hỏi học sinh:
+ Bức tranh vẽ gì? (một bạn gái)
+ Bạn làm gì? (đọc sách hay xem sách)
+ Từ chỉ hành động của bạn là gì? (đọc, xem)
8


Trên thực tế khi dạy, ngoài từ “đọc, xem” học sinh còn tìm được từ “học

bài, làm bài’’. Khi đó giáo viên cho học sinh quan sát tiếp và hỏi :
+ Trên tay bạn gái cầm gì? (một quyển truyện).
Như vậy giáo viên hướng dẫn học sinh loại bỏ những từ chưa đúng là “
làm bài, học bài” và chỉ còn lại từ “đọc, xem ”.
Đối với một số bài mà các vật vẽ trong tranh chưa rõ ràng. Để tìm được từ
chỉ các đồ vật đó đòi hỏi phải quan sát kĩ mới nhận biết được. Khi dạy, ngoài
tranh vẽ in trong sách giáo khoa, giáo viên chiếu các tranh này lên màn hình để
học sinh tiện quan sát. Cũng có trường hợp khi học sinh tìm không đủ số lượng
đồ vật có trong tranh, giáo viên nêu rõ số lượng vật đó để các em tự tìm thêm.
Đồng thời giáo viên cũng cần chuẩn bị một bức tranh như vậy nhưng các đồ vật
đã được tô màu khác nhau để các em nhận diện rõ hơn về các đồ vật và học sinh
sẽ khắc sâu hơn về các từ ngữ này.
Ví dụ :
- Bài tập 3 tiết Luyện từ và câu tuần 6 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 52): Tìm
các đồ dùng học tập ẩn trong tranh và cho biết các đồ vật ấy dùng để làm gì?
- Bài tập 1 tiết Luyện từ và câu tuần 11(Tiếng việt 2 tập 1 trang 90): Tìm
các vật ẩn trong bức tranh và cho biết mỗi vật đó dùng để làm gì?
Dạng 2 : Mở rộng vốn từ theo quan hệ ngữ nghĩa:
Ở dạng này có hai loại bài:
*Loại 1 : Loại bài về tìm từ ngữ cùng chủ điểm
Các từ cần tìm ở dạng này thuộc cùng một chủ điểm từ ngữ. Dạng bài tập
này ngoài tác dụng mở rộng vốn từ cho học sinh còn giúp các em hình thành
phát triển tư duy một cách có hệ thống hệ thống. Khi giảng dạy, giáo viên cần
chú trọng dựa vào ví dụ mẫu để học sinh có điểm tựa tìm từ, giúp các em hiểu rõ
yêu cầu của đầu bài, đồng thời gợi ý định hướng cho học sinh trong việc tìm từ.
Ví dụ 1 : Bài tập 2, tiết Luyện từ và câu tuần 1(Tiếng việt 2 tập 1 trang 9):
Tìm các từ chỉ :
- Đồ dùng học tập (mẫu : bút…)
- Chỉ hành động của học sinh (mẫu : đọc…)
- Chỉ tính nết của học sinh ( mẫu : chăm chỉ…)

Ví dụ 2 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 28 (Tiếng việt 2 tập 3 trang 87):
Kể tên các loài cây mà em biết theo nhóm
a) Cây lương thực, thực phẩm : M : lúa
b) Cây bóng mát : M : cam
c) Cây ăn quả : M : xoan
d) Cây lấy gỗ : M : bàng
đ) Cây hoa : M : cúc
Ví dụ 3 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 30 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 104).
- Tìm từ nói về tình cảm của Bác Hồ với thiếu nhi (mẫu: yêu thương….)
- Tìm từ nói về tình cảm của thiếu nhi với Bác Hồ (mẫu: biết ơn…)

9


Ví dụ : Bài tập 2, tiết Luyện từ và câu tuần 31 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 112)
Tìm từ ngữ ca ngợi Bác Hồ, tôi có thể nêu từ “bao dung”, học sinh dựa vào đó
sẽ tìm được các từ ngữ như : Tâm hồn vĩ đại, vì nước vì dân,...
*Loại 2 : Loại bài về tìm từ trái nghĩa, cùng nghĩa, gần nghĩa:
Khi dạy bài tập dạng này, giáo viên cần giúp các em hiểu được như thế
nào là từ trái nghĩa, gần nghĩa, cùng nghĩa. Sau đó giáo viên cho học sinh tìm
các từ trái nghĩa theo yêu cầu của đề bài.
Ví dụ : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 16 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 133):
Tìm từ trái nghĩa với các từ sau: tốt, ngoan, trắng...
- Bước 1: Giáo viên cho học sinh hiểu thế nào là từ trái nghĩa: Từ trái
nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược lại từ cho sẵn.
- Bước 2: Học sinh tìm từ trái nghĩa với mỗi từ đã cho.
- Bước 3: Tổng kết, nhận xét và chốt lại kiến thức cho học sinh.
Dạng 3 : Mở rộng vốn từ theo cấu tạo :
Dạng bài tập mở rộng vốn từ theo quan hệ cấu tạo từ có nghĩa là dựa vào một
yếu tố cấu tạo từ cho sẵn, tìm những từ có cùng yếu tố cấu tạo và cùng kiểu cấu tạo.

Bài tập dạng này có tác dụng rất lớn trong việc giúp học sinh phát triển mở rộng vốn
từ. Trong sách giáo khoa, dạng bài tập này được đưa ra dưới hình thức cho sẵn một
từ, sau đó cho ghép thêm vào trước hoặc sau đó một tiếng để tạo thành từ mới hoặc
cho các tiếng, sau đó ghép hai tiếng lại với nhau để tạo thành từ.
Ví dụ 1 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 2 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 17).
Tìm các từ :
- Có tiếng “học” (mẫu : học hành)
- Có tiếng “tập” (mẫu : tập đọc)
Ví dụ 2 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 25 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 64):
Tìm các từ ngữ có tiếng biển (mẫu : biển cả, tàu biển...)
Ví dụ 3 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 12 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 99) :
Ghép các tiếng sau thành từ có hai tiếng: yêu thương, quý mến... (mẫu:
yêu mến, yêu quý...)
Khi dạy dạng bài tập này, ở ví dụ 1, giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào
mẫu cho sẵn trong sách giáo khoa để tìm các từ có cùng kiểu cấu tạo, đáp ứng
yêu cầu của bài tập. Hay ở ví dụ 3 giáo viên cho học sinh lần lượt ghép tiếng thứ
nhất với các tiếng còn lại để tạo từ và các em sẽ lựa chọn những từ ghép được
phù hợp, loại bỏ những từ không có nghĩa hoặc nghĩa không phù hợp. Với cách
ghép như vậy các em sẽ tìm được hết các từ một cách triệt để.
b) Dạy các bài lý thuyết về từ :
Khi dạy các bài lý thuyết về từ, tôi định hướng cho giáo viên chia thành
các dạng nhỏ và phương pháp sử dụng để dạy các dạng như sau :
Dạng 1 : Cho từ và nghĩa của từ, xác lập từ tương ứng.
Ở dạng bài tập này, từ và nghĩa của từ đều có sẵn, học sinh chỉ cần xác lập
sự tương ứng giữa từ và nghĩa trong từng trường hợp. Khi dạy giáo viên cho học
sinh lần lượt thử nối ghép từ và nghĩa cho sẵn (bằng cách nhẩm). Nếu có sự
10


tương ứng hợp lý giữa từ và nghĩa thì tức là đã làm đúng yêu cầu. Với cách làm

như vậy, học sinh có sự nhận biết được các nét nghĩa, sắc thái khác nhau trong
nghĩa của từng từ.
Ví dụ 1 : Bài tập 2, tiết Luyện từ và câu tuần 25 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 64):
Tìm từ trong ngoặc đơn hợp với mỗi nghĩa sau :
- Dòng nước chảy tương đối lớn, trên đó thuyền bè đi lại được.
- Dòng nước chảy tự nhiên ở đồi núi.
- Nơi đất trũng chứa nước, tương đối rộng và sâu, ở trong đất liền
( sông, suối, hồ)
Với bài tập này, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách làm như sau:
Để biết được “Dòng nước chảy tương đối lớn, trên đó thuyền bè đi lại
được” là định nghĩa cho từ nào trong các từ “sông”, “ suối”, “hồ” ta sẽ thử bằng
cách ghép nối. Nếu ghép với từ “ suối” sẽ không được vì dòng suối nhỏ, chảy tự
nhiên ở đồi núi. Nếu ghép với “ hồ” cũng không được vì hồ có bờ bao quanh,
sâu, rộng nên không thể có dòng nước chảy tương đối lớn. Vì vậy ta phải ghép
phần giải thích này với từ “ sông”.
Ví dụ 2 : Bài tập 3, tiết Luyện từ và câu tuần 34 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 137):
Chọn ý thích hợp ở cột B cho các từ ở cột A
Nghề nghiệp
Công nhân
Nông dân
Công an
Bác sỹ
Người bán hàng

Công việc
a. Cây lúa, trồng khoai, nuôi lợn(heo), thả cá....
b. Chỉ đường, giữ gìn trật tự hàng xóm, phố phường,
bảo vệ nhân dân.
c. Bán sách, bút, vải, gạo, bánh kẹo, đồ chơi, ô tô, máy cày,…
d. Làm giấy viết, vải mặc, giày dép, bánh kẹo, thuốc

chữa bệnh, ô tô, máy cày...
e. Khám và chữa bệnh

Với cách thử ghép nối như ở ví dụ 1, giáo viên cũng sẽ giúp học sinh nối
đúng theo yêu cầu của đề bài.
Dạng 2 : Nhận biết nghĩa của từ dựa vào từ đồng nghĩa, trái nghĩa:
Ví dụ 1 : Bài tập 2, tiết Luyện từ và câu tuần 34 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 137):
Hãy giải thích từng từ dưới đây bằng từ trái nghĩa với nó
- Trẻ con
- Cuối cùng
- Xuất hiện
- Bình tĩnh
M : Trẻ con : trái nghĩa với người lớn
Khi dạy dạng bài tập này, giáo viên hướng dẫn các em hiểu hoặc nhớ lại
kiến thức thế nào là từ trái nghĩa, sau đó cho học sinh tìm từ. Việc các em tìm
được từ trái nghĩa với từ cho trước tức là các em đã hiểu được nghĩa của từ, và
thông thường từ một từ cho trước có thể tìm được rất nhiều từ trái nghĩa như:
đứng trái nghĩa với ngồi, đi, chạy,....; Ngọt trái nghĩa với nhạt, mặn, đắng,...
11


Ví dụ 2 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 17 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 142):
Sau khi học sinh tìm đúng từ chỉ đặc điểm của con chó là trung thành,
giáo viên có thể cho học sinh hiểu nghĩa từ qua việc giải thích bằng lời giúp học
sinh hiểu trung thành có nghĩa là giữ nguyên niềm tin, tình cảm trước sau như
một. Rồi yêu cầu học sinh tìm từ trái nghĩa với trung thành (trái nghĩa với trung
thành là phản bội). Qua đó giúp các em hiểu hơn về nghĩa của từ trung thành và
có thể đặt câu với từ trung thành một cách dễ dàng.
Dạng 3. Giải nghĩa bằng phương pháp trực quan :
Phương pháp này rất phù hợp với học sinh lớp 2 và thực tế đã chứng minh

khi giảng từ cho học sinh bằng phương pháp này, các em rất hứng thú và dễ
dàng khi nhớ kiến thức. Khi sử dụng phương pháp trực quan để giải nghĩa từ, tôi
lưu ý giáo viên cần tận dụng tối đa việc sử dụng các tranh ảnh có trong sách giáo
khoa để các em quan sát, từ đó gợi ý và giúp các em hiểu nghĩa của từ.
Ví dụ 1 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 29 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 96):
Bài 1 : Hãy kể tên các bộ phận của một cây ăn quả
Giáo viên chiếu tranh ảnh của một số loại cây ăn quả sưu tầm được để cho
các em quan sát và yêu cầu học sinh nêu các từ tìm được chỉ tên các bộ phận của
cây ăn quả như: rễ, gốc, thân, cành, lá..... Sau đó gọi học sinh lên bảng chỉ rõ các
bộ phận của cây trong tranh.
Bài 2 : Tìm những từ có thể dùng để tả các bộ phận của cây.
M: thân cây ( to, cao, chắc, bạc phếch)
Giáo viên cho học sinh thảo luận tự tìm từ sau đó tổng hợp từ các em tìm
được và dựa vào tranh vẽ giải nghĩa cho các em hiểu được một số từ mà các em
vừa tìm. Ví dụ:
- Từ tả cành lá cây: xum xuê, rậm rạp,....(cành cây xum xuê: chỉ cành lá
rậm rạp tươi tốt.
- Từ tả quả của cây: chín mọng, đỏ ối,...(quả chín mọng : chỉ quả có màu
đỏ hoặc vàng, có hương thơm, vị ngọt, mọng nước).
Tiếp đó, giáo viên cho học sinh quan sát tranh vẽ về cây xum xuê và hình
ảnh quả chín mọng.
Ví dụ 2 : Bài tập 1, tiết Luyện từ và câu tuần 3 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 26):
Tìm từ chỉ sự vật ( người, đồ vật, cây cối..) được vẽ dưới đây :
Giáo viên giúp học giải nghĩa các từ chỉ sự vật như: bộ đội, công nhân,
cây dừa, cây mía,…thông qua tranh và lời nói của giáo viên và ví dụ minh họa
về nghề nghiệp và công việc của người thân của các em.
Tuy nhiên, tôi cũng lưu ý giáo viên : Cách giải thích này thường chỉ
thích hợp và phát huy được tác dụng tích cực đối với những từ có nghĩa cụ
thể, tức là những từ mà nghĩa của nó có thể minh họa bằng hiện vật mang tính
trực quan có thể cảm nhận được nhờ dựa vào năm giác quan của con người.

Phương pháp này có ưu điểm là giúp các em hiểu nghĩa của từ một cách
nhanh chóng, chính xác, trực quan nhưng lại hạn chế ở chỗ chỉ có hiệu quả
đối với một số từ ngữ nhất định. Vì vậy cần linh hoạt khi sử dụng phương
pháp giải nghĩa từ bằng trực quan.
12


Dạng 4 : Giải nghĩa từ bằng cách đặt câu với từ đó:
Đối với học sinh lớp 2, biện pháp này ít được sử dụng nhưng giáo viên
cũng rất linh hoạt sử dụng để giải nghĩa một số từ, để phát huy khả năng hiểu từ
của học sinh. Việc học sinh đưa các từ vào trong câu phù hợp tức là các em đã
hiểu được nghĩa của từ. Như vậy không cần phải giảng giải mà các em thông
qua câu đã đặt để hiểu nghĩa từ.
Ví dụ : Bài tập 3, tiết Luyện từ và câu tuần 33 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 129):
Tìm những từ nói lên phẩm chất của nhân dân Việt Nam.
Sau khi học sinh tìm được các từ anh hùng, thông minh, gan dạ, cần cù...
Để học sinh hiểu rõ nghĩa của từ, giáo viên cho học sinh đặt câu với một
trong những từ đó. Qua việc đặt câu, giáo viên có thể khẳng định một lần nữa
việc các em có hiểu bài hay không để có thể điều chỉnh bổ sung kịp thời giúp
cho tiết dạy đạt hiểu quả cao.
c) Dạy học các bài khái niệm câu :
Để thực hiện giảng dạy phần khái niệm câu, giáo viên cần sử dụng linh hoạt
các phương pháp như : Trực quan, hỏi đáp, để phân tích so sánh và giảng giải để rút
ra kiến thức bài học. Giai đoạn này giáo viên cần tập trung rèn kĩ năng đặt câu, phân
tích cấu tạo câu, xác định các bộ phận câu và xác định mẫu câu. Việc hướng dẫn học
nắm được các bộ phận câu là đặc biệt quan trọng. Vì trên cơ sở đó học sinh sẽ viết
được các câu khác nhau. Muốn vậy, ngay từ mẫu câu đầu tiên mà học sinh được làm
quen đó là kiểu câu Ai là gì? Giáo viên cần cung cấp cho học những kiến thức cơ bản
cần thiết để các em xác định bộ phận câu.
Ví dụ : Tiết Luyện từ và câu tuần 3 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 28):

Khi dạy câu kiểu : Ai là gì ? Trước khi vào bài dạy giáo viên cần phân tích
mẫu, cho học sinh lấy ví dụ theo câu kiểu Ai là gì ? Sau đó mới đi vào thực hành
nói và viết theo câu kiểu Ai là gì ? Câu kiểu Ai là gì ? tức là giới thiệu về người,
vật, sự vật nào đó.
Bài tập 3 : Đặt câu theo mẫu:
M : Bạn Vân Anh là học sinh lớp 2A.
Trước hết, giáo viên cho học sinh hiểu đúng yêu cầu đề bài : Đặt câu theo
mẫu có hai bộ phận : Ai (bộ phận thứ nhất); là gì? ( bộ phận thứ hai). Sau đó,
giúp học sinh nhận ra các bộ phận câu thông qua câu hỏi:
+ Bộ phận thứ nhất của câu là từ nào? (Bạn Vân Anh)
+ Bộ phận câu thứ nhất chứa từ chỉ gì? (chỉ người)
+ Nêu bộ phận thứ hai của câu? ( là học sinh lớp 2A).
+ Bộ phận câu thứ hai trả lời cho câu hỏi nào? ( là gì?)
+ Bộ phận thứ nhất của câu trả lời cho câu hỏi nào? ( Ai?)
+ Ngoài đại diện từ chỉ sự vật trả lời cho câu hỏi Ai? còn có những từ chỉ
sự vật trả lời cho câu hỏi nào? (cái gì? con gì? cây gì?).
+ Bộ phận câu thứ nhất của câu là những từ chỉ gì? (chỉ người, chỉ đồ vật,
chỉ loài vật, chỉ cây cối).
+ Mẫu câu trên là kiểu câu dùng để làm gì? (giới thiệu)

13


Với các kiểu câu Ai làm gì? Ai thế nào? Giáo viên thực hiện qua các
bước tương tự. Bên cạnh đó, sau mỗi kiểu câu bắt buộc phải có sự so sánh điểm
giống và khác nhau giữa các kiểu câu đã học và câu mới được cung cấp.
Trên cơ sở học sinh đã được cung cấp các kiến thức cơ bản, cần thiết từ
giai đoạn học về từ loại, học về các mẫu câu chính. Đến giai đoạn này giáo viên
giúp học sinh so sánh các kiểu câu qua các bước:
- Bước 1: Nhận diện mẫu câu theo mức độ nhận thức của mỗi học sinh

(học sinh tự nhận diện, giáo viên không hướng dẫn)
- Bước 2 : Kiểm tra mẫu câu sau khi học tự nhận diện.
- Bước 3 : So sánh.
Ví dụ : Cho hai câu:
a. Lan quét nhà.
b. Lan rất chăm chỉ, ngoan ngoãn.
Với hai câu trên, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi sau:
+ Câu a, câu b thuộc mẫu câu nào? (Câu a thuộc mẫu câu Ai làm gì; Câu b
thuộc mẫu câu Ai thế nào?)
+ Dựa vào đâu em xác định câu a thuộc mẫu câu Ai làm gì? Câu b thuộc
mẫu câu Ai thế nào? ( Dựa vào bộ phận thứ hai của câu)
+ So sánh bộ phận thứ nhất của câu trong câu a và câu b? (đều trả lời cho
câu hỏi Ai?)
+ So sánh bộ phận thứ hai của câu trong câu a và câu b? (về tác dụng câu
a bộ phận thứ hai trả lời cho câu hỏi làm gì? Câu b, bộ phận thứ hai trả lời cho
câu hỏi Thế nào?)
Sau khi học sinh thực hiện được các yêu cầu trên, giáo viên giúp học nhận
ra điểm giống và khác nhau giữa hai kiểu câu và lưu ý học điểm khác nhau
chính là ở bộ phận thứ hai của câu, dựa vào từ loại được sử dụng trong bộ phận
thứ hai của câu để xác định mẫu câu một cách nhạnh nhất.
3.4. Biện pháp thứ tư: Chỉ đạo giáo viên tích cực ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học các tiết Luyện từ và câu.
Đặc trưng của bài Luyện từ và câu lớp 2 là kênh hình nhiều. Hầu hết các
bài trong sách giáo khoa đều có tranh ảnh minh họa như: hình ảnh thế giới loài
chim (các tiết luyện từ và câu tuần 21, 22); hình ảnh các loại muông thú (các tiết
luyện từ và câu tuần 23, 24); thế giới động thực vật dưới nước (các tiết luyện từ
và câu tuần 25, 26); Hình ảnh lăng Bác Hồ (các tiết luyện từ và câu tuần 30,
31),...Tuy nhiên, trang thiết bị đồ dùng như: tranh ảnh, bảng phụ, bảng quay,
phiếu bài tập cho nhóm, bút dạ phục vụ cho các tiết học này thì rất nghèo nàn.
Nếu giáo viên bỏ thời gian và công sức ra làm thì rất tốn kém. Vì vậy, mỗi tiết

học Luyện từ và câu ở lớp 2, giáo viên cần chuẩn bị bài để dạy trên máy chiếu
để hình ảnh vừa đẹp và sinh động, gây hứng thú học tập cho các em.
Đặc biệt, có những bài làm tốt của cá nhân, của tổ, nhóm, giáo viên có thể
chiếu trực tiếp lên máy chiếu cho cả lớp cùng xem vừa là động viên, khuyến khích
các em, vừa là để cho các bạn học tập rút kinh nghiệm. Hoặc sau khi học sinh làm

14


bài tập, giáo viên có thể chiếu kết quả lên máy chiếu để cả lớp cùng đối chiếu lại một
lần nữa với bài tập của mình và thể điều chỉnh lại bài làm (nếu sai).
Ví dụ 1: Khi dạy tiết Luyện từ và câu tuần 26 ( Tiếng Việt 2, tập 2 trang 73).
Bài tập 2: Kể tên các động vật sống dưới nước:
M: tôm, sứa, ba ba.
Sau khi học sinh kể tên các loại động vật sống dưới nước, giáo viên có thể
giới thiệu thêm hình ảnh một số con vật sống dưới nước khác. Qua đó, học sinh
biết thêm được một số con vật mà lâu nay các em chỉ nghe tên mà chưa bao giờ
được nhìn thấy.
Ví dụ 2: Tiết Luyện từ và câu lớp 2 tuần 7 (Tiếng việt 2, tập1 trang 59):
Bài tập 2: Các tranh dưới đây vẽ một số hoạt động của người. Hãy tìm từ
chỉ mỗi hoạt động.
Khi giáo viên muốn nhấn mạnh mạnh yêu cầu của bài thì giáo viên sẽ chiếu
nội dung bài (cả yêu cầu và hình ảnh), gạch chân yêu cầu trên máy chiếu. Sau đó cho
học sinh quan sát lại để học sinh nắm chắc yêu cầu và làm bài được tốt hơn.
Ví dụ 3: Tiết Luyện từ và câu lớp 2 tuần 28 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 87):
Bài tập 3: Điền dấu chấm hay dấu phẩy vào ô trống.
Chiều qua Lan nhận được thư bố Trong thư, bố dặn dò hai chị em Lan rất
nhiều điều. Nhưng Lan nhớ nhất lời bố dặn riêng em ở cuối thư: “ Con nhớ chăm
bón cây cam ở đầu vườn để khi bố về bố con mình có cam ngọt ăn nhé!”
Sau khi chữa bài và nhận xét, giáo viên chiếu kết quả lại và chỉ cho học sinh

những chỗ cần điền dấu chấm, dấu phẩy và có thể giúp học sinh giải thích vì sao em
lại điền dấu chấm ( phẩy) vào những chỗ đó.
Sử dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Luyện từ và câu giúp
giáo viên có cơ hội phát huy tốt phương pháp đổi mới trong giảng dạy và tự bồi
dưỡng về công nghệ thông tin cho bản thân. Qua các hoạt động của bài học giúp
học sinh phát triển tốt tư duy, có sự phán đoán nhanh nhẹ, linh hoạt. Qua việc sử
dụng các slide từ hình thành kiến thức, trò chơi vừa tạo cảm giác thoải mái, nhẹ
nhàng vừa giúp học sinh tiếp thu bài vững chắc, tiết học không gò bó và tất cả
học sinh được tham gia vào hoạt động, hứng thú khi tham gia học tập.
3.5. Biện pháp thứ năm: Lưu ý giáo viên quan tâm đến việc tạo hứng
thú học tập cho học sinh trong suốt cả quá trình dạy học:
Để giúp học yêu thích môn học, có hứng thú học bài thì ngay từ đầu tiết
học, trong phần giới thiệu bài, người giáo viên phải khơi sự tò mò hứng thú học
cho các em bằng chính lời giới thiệu của mình.
Ví dụ: Khi dạy bài Luyện từ và câu ở tuần 6 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 52):
“Câu kiểu Ai là gì? Khẳng định, phủ định. Mở rộng vốn từ: từ ngữ về đồ dùng
học tập.” Đây chính là bài học với chủ đề Trường học thì phần mở bài giáo viên
có thể hỏi:
+ Nêu một ví dụ về câu kiểu Ai là gì?
+ Trong tuần các em đã học những bài tập đọc nào nói về Trường học?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên sẽ giới thiệu: Các em đã được học những
bài tập đọc nói về trường học, nơi mà hàng ngày các em được học tập, rèn
15


luyện. Và để học tập đạt hiệu quả cao, không thể thiếu những đồ dùng học tập.
Vậy bài học hôm nay cô sẽ giúp các em củng cố, mở rộng, khắc sâu vốn từ ngữ
về đồ dùng học tập. Qua bài học, cô trò chúng ta tiếp tục tìm hiểu về “Câu kiểu
Ai là gì? Khẳng định, phủ định. Mở rộng vốn từ: từ ngữ về đồ dùng học tập.”
Hoặc ngay từ khi bắt đầu vào tiết học, giáo viên cho học sinh hát bài Em

yêu trường em và nêu tên những đồ dùng có trong bài hát và sau đó giới thiệu:
Trường học là ngôi nhà thứ hai của em. Nơi đó có thầy cô, bạn bè, những người
gần gũi, thân quen với các em. Nơi đó còn có những hình ảnh thân thuộc như
hàng cây, sân trường rồi những đồ dùng học tập giúp em học tập tốt hơn. Bài
học hôm nay chúng ta tìm hiểu về “Câu kiểu Ai là gì? Khẳng định, phủ định.
Mở rộng vốn từ: từ ngữ về đồ dùng học tập.”
Không chỉ ở phần giới thiệu bài mà trong suốt quá trình dạy học, giáo
viên cần chú ý tạo cho học sinh những hứng khởi để các em có động cơ học tập
thông qua các trò chơi. Mỗi tiết Luyện từ và câu có từ 3 đến 4 bài tập với các
yêu cầu khác nhau. Giáo viên cần xác định rõ mục đích yêu cầu cần đạt của mỗi
bài là gì ? Kiến thức trọng tâm của bài ? Từ đó có thể chọn trò chơi thích hợp
với nội dung bài và thiết kế các hình thức dạy học hài hoà, sinh động.
Sau đây là một số trò chơi có thể áp dụng để tổ chức cho học giải các bài tập
trong tiết Luyện từ và câu mang lại hiệu quả đồng thời gây hứng thú trong giờ học là:
Đoán từ sau hoa; Tìm nhanh từ trong các câu thơ (văn); Nhìn hình đoán chữ,...
Ví dụ 1: Trò chơi Tôi là ai?
Tiết Luyện từ và câu tuần 26 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 72): Sau khi học sinh
làm xong 3 bài tập. Để củng cố lại các kiến thức về từ, giáo viên tổ chức cho hoc
sinh chơi trò chơi Tôi là ai?
Cách chơi : Giáo viên đưa ra một số bức tranh bí ẩn, học sinh chọn tranh
và giáo viên mở tranh. Nhìn vào tranh học sinh có thể đóng vai giới thiệu tên
con vật trong tranh, sống ở đâu, ích lợi của nó.
Chẳng hạn : Khi các chọn bức tranh có hình ảnh cá heo thì có thể giới thiệu :
Chào các bạn, tôi là cá heo, tôi sống ngoài biển khơi. Tôi thích nghe
nhạc, làm xiếc, tôi đã cứu rất nhiều người đi biển gặp nạn. Tôi được mệnh danh
là anh hùng biển cả.
Ví dụ 2 : Trò chơi Nhìn hình đoán chữ.
- Chuẩn bị : Tranh vẽ các hình ảnh dùng để so sánh.
- Cách chơi :
+ Giáo viên nêu yêu cầu: Nhìn hình đoán chữ

+ Luật chơi : Giáo viên treo tranh có hình ảnh so sánh. Học sinh nhận biết
các sự vật có trong tranh từ đó liên tưởng tới hình ảnh so sánh. Học sinh nêu
được so sánh đúng thì giáo viên cất hình ảnh đó đi treo hình ảnh khác. Nếu học
sinh không nêu được thì giáo viên tiếp tục gợi ý để học sinh đoán.
- Trò chơi vận dụng trong các bài tập.
Bài tập 2, tuần 17 (Tiếng việt 2 tập 1 trang 142): Thêm hình ảnh so sánh
vào sau mỗi từ dưới đây.
- Đẹp, cao, khoẻ.
16


- Nhanh, chậm, hiền.
- Trắng, xanh, đỏ.
Mẫu: đẹp →đẹp như tiên.
Bài tập 2, tuần 24 (Tiếng việt 2 tập 2 trang 54): Hãy chọn tên con vật thích hợp
với mỗi chỗ trống dưới đây.
a. Dữ như…. b. Nhát như…..
c. Khoẻ như….. d. Nhanh như…
(thỏ, voi, hổ (cọp), sóc)
Tuy nhiên tôi cũng lưu ý giáo viên không phải bài tập nào cũng có thể tổ
chức trò chơi. Chỉ với loại bài có nhiều đơn vị kiến thức huy động nhiều em
tham gia thì trò chơi học tập là thích hợp nhất. Không nên tổ chức trò chơi mà
chỉ có một nhóm học tham gia khiến cho những học khác không có cơ hội hoạt
động. Tổ chức trò chơi phải tính đến chơi để rút ra được bài học gì? Tất cả cùng
chơi, chơi phải có qui tắc và luật chơi rõ ràng, phải có động viên khen thưởng
cho cá nhân hoặc nhóm xuất sắc.
4. Kết quả nghiên cứu :
Với những biện pháp chỉ đạo dạy học để nâng cao chất lượng dạy học
phân môn Luyện từ và câu lớp 2 của trường trong hai năm qua, tôi nhận thấy:
a. Về phía giáo viên :

- Nắm chắc, hiểu sâu rộng, bao hàm được kiến thức và phương pháp dạy
học phân môn Luyện từ và câu lớp 2.
- Vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức dạy học theo từng loại bài.
- Thiết kế và tổ chức tiến hành các tiết học của môn Tiếng Việt nhẹ nhàng,
hiệu quả hơn.
- Tiết học sôi nổi, tạo sự hào hứng học tập cho các em.
- Xử lý tình huống sư phạm một cách linh hoạt.
b. Về phía học sinh :
- Vốn từ của học sinh phong phú, các em đã nắm tốt nghĩa của từ và sử dụng
một cách chính xác. Đặc biệt các em rất nhạy bén trong việc tìm từ, dùng từ…
- Học sinh tích cực, chủ động hơn trong giờ học, ham thích khi được học
tiết Luyện từ và câu, mạnh dạn bộc lộ khả năng của mình trước lớp qua các bài
tập, trò chơi, câu đố.
- Trong giao tiếp, học sinh nhạy bén, tự tin, dùng từ chuẩn xác, diễn đạt lưu
loát, biết sử dụng từ đặt câu phù hợp. Đặc biệt khi học môn Tập làm văn, các em đã
viết được một số đoạn văn có hình ảnh và biết thể hiện được cảm xúc của bản thân.
c. Về chất lượng :
- Chất lượng giờ học được nâng lên với tỉ lệ học sinh hiểu bài, phát biểu
bài nhiều hơn, chính xác hơn. Phong trào học tập của lớp được đẩy mạnh.
- Chất lượng môn Luyện từ và câu của khối 2 trong năm học 2015- 2016
mà tôi đã khảo sát theo từng giai đoạn đã có tiến triển rõ rệt, tỷ lệ bài điểm 9-10
ở mức cao. Kết quả phản ánh qua bảng phân tích số liệu từng thời điểm như sau:
Bài khảo sát số 2 ( thời điểm cuối học kì I năm học 2015 -2016).
Bài 1: Ghép các tiếng sau thành những từ có hai tiếng: yêu, thương, quý, mến, kính.
M: yêu mến, quý mến
17


Bài 2: Gạch một gạch dưới bộ phận câu trả lời cho câu hỏi Ai, hai gạch
dưới bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì?

a/ Em là học sinh lớp 2.
b/ Lan là học sinh giỏi nhất lớp.
c/ Môn học em yêu thích là môn Tiếng Việt.
Kết quả

Lớp
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
2A
25
8
32
11
44
6
24
0
2B
23

7
30,4
8
34,7
7
30,4
1
4,7
Bài khảo sát số 3: Thời điểm sắp kết thúc năm học 2015- 2016 (tuần 33)
Bài 1 : Chọn những từ ngữ thích hợp trong ngoặc đơn để chỉ thời tiết của
từng mùa (nóng bức, ấm áp, giá lạnh, mưa phùn gió bấc, se se lạnh, oi nồng):
- Mùa xuân :
- Mùa thu :
- Mùa hạ :
- Mùa đông :
Bài 2 : Điền dấu chấm hay dấu phẩy vào ô trống?
Từ sáng sớm Khánh và Giang đã náo nức chờ đợi mẹ cho đi thăm vườn
thú
Hai chị em mặc quần áo đẹp, hớn hở chạy xuống cầu thang Ngoài
đường
người và xe đi lại như mắc cửi. Trong vườn thú trẻ em chạy nhảy
tung tăng.
Lớp


số

2A
2B


25
23

Điểm 9-10
SL
%
9
36
8
34,7

Kết quả
Điểm 7-8
Điểm 5-6
SL
%
SL
%
13
52
3
12
11
47,9
4
17,4

Điểm dưới 5
SL
%

0
0

Nhìn vào bảng tổng hợp kết quả khảo có thể thấy việc giáo viên áp dụng
cách phương pháp và hình thức dạy học mà tôi chỉ đạo đã mang lại hiệu quả khá
cao. Qua kết quả hai bài khảo sát, tôi có một số nhận xét như sau:
* Ưu điểm :
- Phần lớn các em hiểu bài và làm bài tập tốt, các em xác định đúng từ cần
điền vào chỗ trống tương đối chính xác, nhiều em trình bày bài sạch sẽ.
- Thông qua kết quả khảo sát tôi thấy học sinh nắm từ tương đối chắc và
điền từ vào bài tập một cách chính xác, chứng tỏ ở bài tập này các em hoàn
thành nó không mấy khó khăn. Nhiều em tỏ ra rất hứng thú với môn học này.
* Nhược điểm :
- Một số em còn chưa nắm vững kiến thức về bộ phận câu, về dấu câu nên
còn nhầm lẫn, bài làm tẩy xóa nhiều do làm không chắc chắn.
- Dạng bài tập nhận biết dấu chấm, dấu hỏi học sinh đã làm quen từ đầu
năm học đến bây giờ. Tuy nhiên còn một số em xác định dấu chấm chưa chính
xác, các em còn nhầm lẫn giữa dấu chấm và dấu hỏi. Nguyên nhân dẫn đến sai

18


sót này là do các em chưa nắm được khái niệm, không chịu khó làm bài tập và
chưa chú ý nghe bài giảng trên lớp.
III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Để dạy và học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 2, tôi đã đưa ra những
biện pháp chỉ đạo dạy học thích hợp đối với từng loại bài. Như vậy, muốn cho
hiệu quả giờ dạy đạt kết quả cao, người giáo viên cần:
- Nắm vững kiến thức về từ, câu:

Phương pháp dạy học tích cực không cho phép giáo viên cung cấp kiến
thức cho học sinh theo kiểu truyền thụ một chiều, song lại yêu cầu giáo viên
phải nắm vững kiến thức sâu sắc để hướng dẫn, làm trọng tài khoa học cho học
sinh. Đối với các tiết Luyện từ và câu, vốn kiến thức của giáo viên lại đặc biệt
quan trọng. Muốn có điều này giáo viên phải bồi dưỡng, nghiên cứu tài liệu kĩ,
đặc biệt phải nắm rõ các nghĩa của từ một cách chính xác.
- Cần sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học:
Để dạy tốt các bài Luyện từ và câu ở lớp 2, giáo viên cần vận dụng linh
hoạt các phương pháp dạy học như phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp
đặt và giải quyết vấn đề, phương pháp trò chơi…
- Chuẩn bị tốt tâm thế học tập cho học sinh
Giáo viên cần phải giao nhiệm vụ cho học sinh rõ ràng, kích thích hứng
thú học tập của các em bằng các hình thức thi đua, khen thưởng. Ngoài ra giáo
viên cần kiểm tra bài vở của tất cả các em trong lớp, để tất cả các em cùng học
tập, tránh tình trạng vì kiến thức quá khó nên một vài học sinh không học tập
hoặc học tập không hiệu quả.
2. Kiến nghị:
*Đối với giáo viên: Để có một tiết dạy Luyện từ và câu đạt hiệu quả, giáo
viên cần:
- Nghiên cứu chuẩn bị bài chu đáo, lôgic để dẫn dắt học sinh theo đúng
trình tự nội dung bài dạy. Cần tìm tòi, học hỏi để có phương pháp giảng dạy tối
ưu. Khi dạy học sinh luyện từ, cần xem xét kỹ nội dung luyện từ đó trong chủ
điểm nào, cần mở rộng, phát triển thêm những từ nào cùng chủ điểm hoặc những
tình huống có thể xảy ra và cần giải quyết tình huống đó như thế nào.
- Bên cạnh việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng thực hành kiến thức, giáo
viên còn luôn phải nâng cao trình độ chuyên môn, có ý thức phấn đấu, rèn luyện,
trau dồi nghiệp vụ để làm giàu vốn từ của bản thân. Đứng trên bục giảng, việc
dùng lời để giảng giải cho học sinh là cách truyền thụ kiến thức được áp dụng
nhiều nhất. Nếu vốn từ hạn chế thì việc dùng lời để giảng giải hoặc giải nghĩa từ
cho học sinh gặp nhiều lúng túng. Do đó phải đặc biệt quan tâm tới việc làm

phong phú vốn từ của mình thông qua các hình thức đọc tài liệu, đọc sách tham
khảo, thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng...
- Trong quá trình dạy học, nên áp dụng các trò chơi, hình thức dạy học
một cách linh hoạt để học sinh có thể tiếp thu kiến thức đạt hiệu quả cao nhất.
- Chuẩn bị đồ dùng, trò chơi sáng tạo, không dập khuôn.
19


- Luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh, với những em học sinh có
năng lực hạn chế, giáo viên cần có những phương pháp riêng giúp đỡ các em.
- Luôn học hỏi những đồng nghiệp, các đồng chí có kinh nghiệm, bề dày
về chuyên môn trong trường cũng như trường bạn và tiếp thu một cách nghiêm
túc sự chỉ đạo của Ban giám hiệu để có định hướng đổi
Với thời gian, điều kiện và năng lực có hạn nên trong phần trình bày của
tôi không thể tránh khỏi những sai sót. Rất mong được sự giúp đỡ, góp ý của
Hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến của tôi được hoàn thiện và áp dụng có
hiệu quả hơn trong quá trình dạy học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thọ Xuân, ngày 30 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Tác giả thực hiện

Trần Thị Thủy

20



21


KẾT LUẬN
Qua thực tiễn giảng dạy Luyện từ và câu ở lớp 2B, tôi tự rút ra cho mình
một bài học kinh nghiệm sau:
- Giáo viên phải tâm huyết và say mê với nghề, luôn gần gũi, thương yêu
và tôn trọng học sinh, thông cảm và giúp đỡ động viên các em kịp thời.
- Bên cạnh việc rèn luyện cho học sinh kỹ năng thực hành kiến thức ,
giáo viên còn luôn phải nâng cao trình độ chuyên môn .có ý thức phấn đấu, rèn
luyện, trau dồi nghiệp vụ để làm giàu vốn từ của bản thân. Đứng trên bục giảng,
việc dùng lời để giảng giải cho học sinh là cách truyền thụ kiến thức được áp
dụng nhiều nhất. Nếu vốn từ hạn chế thì việc dùng lời để giảng giải hoặc giải
nghĩa từ cho học sinh gặp nhiều lúng túng. Do đó phải đặc biệt quan tâm tới việc
làm phong phú vốn từ của mình thông qua các hình thức đọc tài liệu, đọc sách
tham khảo, thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng...
-Trước mỗi bài dạy, giáo viên cần suy nghĩ để chọn ra phương án dạy học
thỏa đáng nhất. Khi dạy học sinh luyện từ, cần xem xét kỹ nội dung luyện từ đó
trong chủ điểm nào, cần mở rộng, phát triển thêm những từ nào cùng chủ điểm
hoặc những tình huống có thể xảy ra và cần giải quyết tình huống đó như thế
nào.
- Luôn quan tâm đến từng đối tượng học sinh, với những em học sinh có
năng lực hạn chế, giáo viên cần có những phương pháp riêng giúp đỡ các em.
Cuối cùng, với lòng mê say, yêu nghề, mỗi chúng ta phải luôn học hỏi
những đồng nghiệp, các đồng chí có kinh nghiệm, bề dày về chuyên môn trong
trường cũng như trường bạn và tiếp thu một cách nghiêm túc sự chỉ đạo của
BGH để có định hướng đổi
Hương Sơn, ngày 1 tháng 05 năm 2014
Tác giả


Nguyễn Thị Thanh Thủy

22


4. Hiệu quả của sáng kiến

23



×