Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2b trường tiểu học xuân dương, thường xuân học tốt môn luyện từ và câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THƯỜNG XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 2B TRƯỜNG
TIỀU HỌC XUÂN DƯƠNG, THƯỜNG XUÂN HỌC TỐT
PHÂN MÔN LUYỆN TỪ VÀ CÂU

Người thực hiện: Phùng Thị Lan
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Xuân Dương
SKKN thuộc môn: Tiếng việt

THANH HÓA, NĂM 2017


MỤC LỤC

ST
T
1
2
3
4
5
6
7
8
9


10
11
12
13

CÁC PHẦN CHÍNH CỦA SKKN
1. Mở đầu.
1.1. Lý do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận.
2.2.Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến.
2.3. Các biện pháp thực hiện.
2.4. Hiệu quả đạt được sau khi tổ chức và thực hiện các
biện pháp
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.

SỐ
TRANG
1
1
1
2
2
2
2

2
3
11
12
12
13


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chon đề tài:
Dạy học Tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân môn
Luyện từ và câu nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Nhất là Luyện từ
và câu là phân môn tổng hợp của môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Mục tiêu của
cả người dạy và người học là “ hiểu và vận dụng ” trong mỗi tiết học Luyện từ
và câu. Người giáo viên giúp cho các em có được vốn từ, hiểu biết sơ giản về từ
và câu, kĩ năng dùng từ đặt câu và sử dụng các kiểu câu để thực hiện tư tưởng,
tình cảm của mình. Song một thực tế mà chúng ta đều biết là hiện nay, trong các
cấp học mà đặc biệt là bậc Tiểu học, phần lớn vốn từ của học sinh rất nghèo nàn,
sử dụng từ để đặt câu còn vụng.
Chính vì thế, Luyện từ và câu được đưa vào nhà trường ngay từ bậc Tiểu
học. Từ ngữ với các em là những gì gần gũi, thân quen với thế giới trẻ thơ, các
em có thể hiểu được từ một cách dễ dàng, cụ thể như: Tên gọi của mỗi người,
mỗi vật,... Với học sinh lớp 2, chủ yếu là các em có được vốn từ về trường học,
gia đình, muông thú,... hiểu về từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động,... Các kiểu câu.
Qua thực tế dạy phân môn Luyện từ và câu lớp 2, tôi nhận thấy vốn từ
ngữ của học sinh còn rất hạn hẹp, học sinh chưa mạnh dạn trong việc nói trước
tập thể, các bài tập trong sách giáo khoa nhiều, đa dạng và cấu tạo tương đối
khó với học sinh, học sinh gặp khó khăn trong việc hiểu nghĩa của từ, đặt câu
chưa hay, chưa đúng so với yêu cầu, chưa phân biệt được nghĩa của từ. Đối với
phụ huynh học sinh chưa có sự nhận thức đúng mức về tầm quan trọng của phân

môn Luyện từ và câu. Bên cạnh đó một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm
đến con em mình, còn có quan điểm “ Trăm sự nhờ nhà trường, nhờ thầy cô”
cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của môn học. Nên trong thực tế ở
trường Tiểu học Xuân Dương việc giảng dạy phân môn Luyện từ và câu mất
nhiều thời gian, học sinh tiếp thu kiến thức còn chậm. Một số ít giáo viên chưa
thực sự đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, chưa có các biện pháp
rèn luyện cụ thể cho các em. Vấn đề đặt ra là: Người giáo viên dạy Luyện từ và
câu ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn. Thấy được tầm quan trọng của việc
nâng cao chất lượng dạy học phân môn Luyện từ và câu trong nhà trường là rất
cần thiết. Sau khi được điều động về công tác ở trường Tiểu học Xuân Dương
tôi băn khoăn, trăn trở và mong muốn được góp phần vào việc nâng cao chất
lượng giáo dục của đơn vị. Chính vì những lí do trên, nên tôi chọn đề tài: “ Một
số biện pháp giúp học sinh lớp 2B trường Tiểu học Xuân Dương - Thường
Xuân học tốt phân môn Luyện từ và câu .” là vấn đề nghiên cứu của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu nội dung chương trình sách giáo khoa phân môn Luyện từ và
câu lớp 2. Dự giờ học hỏi đồng nghiệp đồng thời điều tra khảo sát việc dạy và
học phân môn Luyện từ và câu của giáo viên lớp 2. Từ đó thấy được những khó
khăn vướng mắc của giáo viên và học sinh để tìm ra một số biện pháp cụ thể
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Luyện từ và câu lớp 2.
1


1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu phương pháp dạy học Luyện từ và câu lớp 2.
- Nghiên cứu sách giáo khoa, sách giáo viên lớp 2.
- Nghiên cứu các tài liệu bồi dưỡng môn Tiếng việt 2.
- Nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng thường xuyên.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích tổng hợp ( các văn bản, tài liệu, sách giáo khoa)

- Phương pháp điều tra
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thực nghiệm chứng minh
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm sư phạm.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
Phân môn Luyện từ và câu chiếm một vị trí rất quan trọng trong môn
Tiếng Việt Tiểu học nói chung và tiếng Việt lớp 2 nói riêng. Đó là một môn khoa
học cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt bằng con
đường quy nạp và rèn luyện kĩ năng dùng từ đặt câu, kĩ năng diễn đạt cho học
sinh. Môn học này sẽ giúp các em có một số vốn từ về trường học; gia đình;
muông thú; sông biển;.... Nhận biết về từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, từ chỉ tính
chất, đặc điểm và nhận biết về các kiểu câu, một số dấu câu. Trên cơ sở đó, bồi
dưỡng vốn từ ngữ giúp các em biết vận dụng để hành văn đúng với từng ngữ
cảnh trong học tập, sinh hoạt và giao tiếp. Học tốt phân môn này sẽ tạo tiền đề
cho các em học tốt những môn học khác. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm tòi
để dạy tốt phân môn Luyện từ và câu là việc làm không thể thiếu được đối với
mỗi giáo viên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm ở lớp 2, tôi đã rút ra được một số biện
pháp giúp học sinh học tốt phân môn này.
2.2. Thực trạng của việc dạy và học Luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 ở
trường Tiểu học Xuân Dương.
Thuận lợi:
Phân môn Luyện từ và câu là sự tích hợp kiến thức từ ngữ và ngữ pháp.
Hệ thống kiến thức trong chương trình sách giáo khoa được xây dựng ở dạng
các bài tập, do đó giáo viên và học sinh thực hiện tương đối dễ dàng trong quá
trình dạy và học. Hệ thống kiến thức này học sinh đã được làm quen trong các
phân môn như: Tập đọc; Chính tả; Tập viết;...
Học đến lớp 2 kĩ năng đọc, viết của học sinh đã tương đối vững chắc nên

việc dạy Luyện từ và câu tương đối thuận lợi.
Trang thiết bị, đồ dùng dạy - học của giáo viên và học sinh tương đối đầy đủ.
Khó khăn:

2


- Về phía giáo viên: Giáo viên đôi khi chưa thực sự khai thác hết thế mạnh
của các phương pháp dạy học tích cực và những kĩ thuật dạy học mới vào bài
dạy trong từng bài học. Khả năng hướng dẫn học sinh lĩnh hội kiến thức của mỗi
giao viên lại khác nhau.
- Về phía học sinh:
+ Một số em học sinh lớp 2 đa số có vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về
Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết câu còn cụt hoặc câu
có thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa còn
chưa rõ ràng. Việc trình bày, diễn đạt ý của các em có mức độ rất sơ lược. Mặt
khác, do thực tế học sinh mới được làm quen với phân môn Luyện từ và câu ở
lớp 2 nên học sinh còn nhiều bỡ ngỡ, chưa có phương pháp học tập bộ môn một
cách khoa học và hợp lý.
+ Đa số các em là con trong những gia đình có bố mẹ làm nghề nông
thuần túy nên số phụ huynh có điều kiện và có ý thức mua sách báo cho con em
mình đọc còn rất ít. Hơn nữa một số em chưa có thói quen đọc sách, ham đọc
sách vì thế vốn từ của các em còn hạn chế dẫn đến chưa mạnh dạn, tự tin trong
giao tiếp.
+ Một số em tiếp thu bài còn thụ động, chưa phát huy hết tính tích cực của
mình. Giao tiếp thông thường của các em chưa mạnh dạn.
Chính vì những khó khăn và hạn chế nêu trên nên chất lượng phân môn
Luyện từ và câu của học sinh lớp tôi chưa đạt kết quả như mong muốn.
Chất lượng về phân môn Luyện từ và câu của học sinh lớp 2B đầu năm
học 2016 -2017 như sau:

Kết quả khảo sát tháng 10 năm học 2016 – 2017
Lớp
2B

Tổng số
23

HT
SL
15

CHT
TL SL
65.2 8

TL
34.8

2.3. Các giải pháp thực hiện.
Giải pháp 1: Họp phụ huynh học sinh:
Đầu năm học tôi đã xin phép ban Lãnh đạo trường Tiểu học Xuân Dương
được tổ chức cuộc họp phụ huynh học sinh. Trong cuộc họp tôi báo cáo tình
hình học tập của học sinh. Nói về tầm qua trọng của các môn học nói chung,
phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Đặc biệt tôi giúp cha mẹ học sinh phần nào
hiểu được kiến thức về từ ngữ - ngữ pháp và các kiểu câu trong chương trình
học phân môn Luyện từ và câu lớp 2. Hướng dẫn phụ huynh cách dạy và kiểm
tra việc học ở nhà của con em họ. Từ đó phụ huynh giúp các em học bài và
chuẩn bị bài tốt ở nhà.
Giải pháp 2: Chuẩn bị bài trước khi đến lớp:
- Đối với học sinh: Ngay từ buổi học đầu tiên, tôi đã yêu cầu mỗi học sinh

có một quyển vở dành riêng cho khâu chuẩn bị bài ở nhà. Vì vậy, khi học trên
lớp các em không còn bỡ ngỡ trước những kiến thức mới. Mà ngược lại các em
chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động, tích cực.
\\

3


- Đối với giáo viên: Khi lập kế hoạch bài dạy tôi luôn chú trọng đến từng
đối tượng học sinh để lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức dạy học phù hợp
nhất. Bên cạnh đó tôi còn dự đoán trước kết quả học tập và dựa vào vốn từ sẵn
có của các em để giúp các em hiểu, tìm thêm được nhiều từ mới, đặt được nhiều
câu theo mẫu.
Giải pháp 3: Các bước thực hiện trên lớp:
Hình thức bài tập trong sách giáo khoa của phân môn Luyện từ và câu lớp
2 rất đa dạng về kiểu loại, phong phú về hình thức, nhưng nét chung nhất là mở
rộng vốn từ và làm quen về kiểu câu, các thành phần câu, ngoài ra còn làm quen
với từ chỉ hoạt động, từ chỉ sự vật, từ chỉ tính chất. Để chuẩn bị cho tiết học trên
lớp có được hiệu quả cao nhất, tôi tập trung một số nội dung chủ yếu sau:
- Xác định mục tiêu cần đạt của mỗi bài tập.
Phân môn Luyện từ và câu không có phần lý thuyết. Nên việc giải quyết
các bài tập không chỉ rút ra một, hai đơn vị kiến thức sơ giản mà còn cung cấp
cho học sinh những ghi nhớ, những kiến thức về từ ngữ, ngữ pháp thông qua các
bài tập thực hành. Nên mỗi bài tập trong từng tiết dạy tôi cho học sinh xác định
rõ mục tiêu cần đạt.
- Chuẩn bị tốt các điều kiện để đạt được mục tiêu đề ra.
Điều kiện ở đây bao gồm từ trang thiết bị, đồ dùng dạy học đến hình thức
tổ chức dạy học, phương pháp dạy học thích hợp trong quá trình lên lớp.
- Đồ dùng dạy học thông thường trong tiết Luyện từ và câu là tranh phóng to,
hay một số vật thật hoặc mô hình để giảng từ và ý. Ngoài ra, trong tiết Luyện từ

và câu tôi còn sử dụng các trang thiết bị hiện đại như máy chiếu hay các băng
hình để nghe, xem hay minh họa cho nội dung bài Luyện từ và câu. Tuy nhiên,
không nên lạm dụng nếu không thật cần thiết, làm mất thời gian trong tiết dạy.
Đối với một tiết dạy cần tổ chức cho học sinh học nhóm thì tôi chuẩn bị
thêm các đồ dùng như bảng phụ, phiếu học tập,... .Việc làm thêm đồ dùng phục
vụ cho tiết dạy tôi luôn nghiên cứu kĩ để có thể sử dụng lâu dài.
Ví dụ: Bài tập 2 (TV2- tập2- trang 79 )
Bài tập mở rộng vốn từ (bài tập giải ô chữ). Đối với bài tập này tôi thiết
kế dưới dạng trò chơi giải ô chữ (chuẩn bị trong bài giảng điện tử - Máy chiếu).
Khi học sinh tìm được từ theo gợi ý, giáo viên lần lượt xuất hiện các chữ cái của
từ vào các ô tương ứng của bảng theo từng dòng như vậy sẽ gây được sự chú ý
của học sinh hơn.
Mẫ 1 S Ơ N T I N H
2 u
3
4
5
6
7

4


8
Giải pháp 4: Lựa chọn hình thức học tập thích hợp.
Phân môn Luyện từ và câu được thiết kế dưới dạng hệ thống bài tập. Do
đó tôi chuẩn bị hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng bài tập ở trong một
tiết. Nếu không sẽ dẫn đến tiết học nhàm chán, không tạo được hứng thú học tập
cho học sinh.
Căn cứ vào từng loại bài tập, tôi có thể lựa chọn hình thức dạy học phù

hợp: Làm miệng, làm cá nhân, làm nhóm hoặc tổ chức trò chơi sao cho phù hợp
với từng đối tượng học sinh.
Ví dụ:Tiết Luyện từ và câu ở Tuần 12: Bài tập 4 (TV2- Tập1- Trang 100)
Có thể đặt dấu phẩy vào chỗ nào trong mỗi câu sau?
Tôi có thể đưa ra ba cách thực hiện phù hợp với từng đối tượng học sinh
trong lớp. Ba cách đó là:
- Cách 1: Đặt hệ thống câu hỏi gợi mở (thường sử dụng hướng dẫn đối
tượng học sinh chưa hoàn thành).
- Cách 2: Dùng sơ đồ trợ giúp (thường sử dụng hướng dẫn đối tượng học
sinh hoàn thành).
- Cách 3: Khai thác sử dụng ngữ cảm của học sinh (đối tượng học sinh
hoàn thành tốt)
Ba cách trên tôi sử dụng một cách linh hoạt. Mỗi bài tập, tôi có thể chia
nhóm cùng trình độ để sử dụng cả ba cách hoàn thành bài tập phù hợp với đối
tượng học sinh. Với những bài khó tôi có thể sử dụng cách 1, cách 2 để hướng
dẫn đối tượng học sinh hoàn thành, hoàn thành tốt khi các em lúng túng, không
làm được bài. Đối với những bài tập mức độ không quá khó, tôi có thể sử dụng
cách khai thác khả năng ngữ cảm của học sinh. Như vậy cả ba cách trên sẽ được
sử dụng mềm dẻo, linh hoạt tùy thuộc vào nội dung bài tập và đối tượng học
sinh cả lớp.
Ví dụ: Bài 4 (TV 2 -Tập 1 – Trang 100): Có thể đặt dấu phẩy vào chỗ
nào trong mỗi câu sau?
a. Chăn màn quần áo được xếp gọn gàng.
b. Giường tủ bàn ghế được kê ngay ngắn.
c. Giầy dép mũ nón được để đúng chỗ.
Với loại bài tập này tôi làm như sau:
- Cách 1: Đặt hệ thống câu hỏi gợi mở:
+ Tìm cặp từ ngữ chỉ tên các đồ vật?
+ Các cặp từ ngữ đó cùng trả lời cho câu hỏi gì ?
+ Dùng dấy phẩy tách các bộ phận câu giống nhau cùng trả lời cho câu hỏi Cái gì ?

- Cách 2: Dùng sơ đồ trợ giúp.
Ai? (Con gì? Cái gì ?)
Thế nào?
5


- Cách 3: Khai thác sử dụng ngữ cảm của học sinh.
Dựa vào kiến thức sẵn có của học sinh.
Giải pháp 5: Tổ chức các hoạt động trên lớp.
Hoạt động dạy học của tiết Luyện từ câu lớp 2 chủ yếu là hướng dẫn học
sinh thực hành để vận dụng những điều đã biết, đã học vào thực hiện các bài tập
và cũng từ bài tập giáo viên đúc kết, hệ thống hoá những tri thức sơ giản về từ
và câu cho học sinh. Để tiến hành một bài tập, tôi tiến hành tổ chức tốt những
bước sau:
- Giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập.
Thông thường một tiết Luyện từ và câu ở lớp 2 có từ ba đến bốn bài tập.
Mỗi bài tập đều nhằm mục đích rèn luyện một số kĩ năng nhất định. Do đó tuỳ
thuộc vào kiểu loại bài tập mà giáo viên hướng dẫn cho học sinh nắm yêu cầu
một cách thích hợp.
Ví dụ: Bài tập 2 (TV2 - Tập 1- Trang 122): Tìm từ chỉ đặc điểm của người và
vật:
a) Đặc điểm về tính tình của một người.
M: tốt, ngoan, hiền,...
b) Đặc điểm về màu sắc của một vật.
M: trắng, xanh ,đỏ,...
c) Đặc điểm về hình dáng của người, vật.
M: Cao, tròn, vuông,..
Tôi cho học sinh học sinh đọc và xác định rõ yêu cầu của bài tập bằng
cách:
+ Đọc yêu cầu bài tập ( 3 em đọc cá nhân, lớp đọc thầm)

+ Bài tập yêu cầu chúng ta làm gì?
+ Phân tích mẫu để học sinh hiểu yêu cầu của bài.
- Học sinh tiến hành làm bài tập.
Tôi hướng dẫn cụ thể hình thức học của một bài tập sau đó để học
sinh thực hiện như: Làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm, tổ chức trò chơi
học tập,... .Tuy nhiên tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể học sinh của lớp mình,
tôi có hình thức dạy học thích hợp để tất cả học sinh trong lớp được bộc lộ
và phát triển.
+ Đối với bài tập làm bài cá nhân:
Thông thường đây là bài tập yêu cầu một cách cụ thể như trả lời một câu
hỏi, nêu một ý kiến hay một nhận xét,... . Yêu cầu về mức độ kiến thức không
khó đa số học sinh có khả năng làm được. Do vậy tôi luôn tạo điều kiện cho
nhiều em được trình bày, được nhận xét,... nhất là những em chưa hoàn thành
được trình bày trước lớp để các em có cơ hội bổ sung sửa chữa.
6


(Ảnh chụp hoạt động cá nhân tại lớp 2B trường Tiểu học Xuân Dương)

+ Đối với bài tập làm việc nhóm: Thường áp dụng cho loại bài tập khó (có
tính khái quát), loại bài tập phải giải quyết nhiều đơn vị kiến thức, đòi hỏi có sự
thảo luận, trao đổi, bàn bạc để có câu trả lời. Loại bài tập này tôi giúp đỡ để các
nhóm hoàn thành tốt bài tập.

(Ảnh chụp hoạt động nhóm, tại lớp 2B trường Tiểu học Xuân Dương)

+ Đối với bài tập làm việc cả lớp:

7



Thường là các bài tập không cần phải suy nghĩ lâu mới trả lời, tôi qua tâm
đến tất cả đối tượng học sinh mà đặc biệt là học sinh chưa hoàn thành.

(Ảnh chụp hoạt động cả lớp, tại lớp 2B trường Tiểu học Xuân Dương)

+ Đối với bài tập được tổ chức dưới dạng trò chơi học tập:
*Một số nguyên tắc thiết kế trò chơi học tập
Tổ chức trò chơi học tập trong dạy học nói chung và môn Luyện từ và câu
lớp 3 nói riêng, chúng ta phải dựa vào nội dung bài học, điều kiện thời gian
trong mỗi tiết học cụ thể. Để đưa ra các trò chơi cho phù hợp, song muốn tổ
chức được trò chơi trong dạy Luyện từ và câu có hiệu quả cao thì đòi hỏi mỗi
giáo viên phải có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ, cặn kẽ và đảm bảo các yêu
cầu sau:
- Trò chơi mang ý nghĩa giáo dục.
- Trò chơi phải nhằm mục đích củng cố, khắc sâu nội dung bài học.
- Trò chơi phải phù hợp với tâm lí của học sinh, phù hợp với cơ sở vật
chất của lớp học.
- Hình thức tổ chức trò chơi phải đa dạng, phong phú.
- Trò chơi phải được chuẩn bị chu đáo.
- Trò chơi phải gây hứng thú với học sinh; được nhiều học sinh tham gia
*Cấu trúc của trò chơi học tập.
8


- Tên trò chơi.
- Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến
thức, kĩ năng nào? Mục đích của trò chơi sẽ qui định hành động chơi được thiết
kế trong trò chơi.
- Cách chơi: Cần nêu rõ cách chơi của trò chơi; số người tham gia trò chơi...

- Luật chơi: Chỉ rõ qui tắc, qui định đối với người chơi, qui định thắng
thua của trò chơi.
- Thời gian chơi: Nêu rõ thời gian của trò chơi.
- Tổng kết: Học sinh; giáo viên nhận xét, đánh giá.
*Cách tổ chức chơi:
- Thời gian tiến hành thường từ 5-7 phút.( tiến hành ngay đầu tiết học
hoặc có thể lồng ghép trong mỗi bài tập, cuối bài học) nhằm thu hút sự chú ý và
củng cố kiến thức một cách vững chắc hơn qua mỗi loại bài tập tương ứng với
mỗi loại kiến thức.
- Đầu tiên là giới thiệu trò chơi :
+ Nêu tên trò chơi.
+ Hướng dẫn trò chơi bằng cách vừa mô tả vừa thực hành, nêu rõ qui
định chơi.
- Chơi thử và qua đó nhấn mạnh luật chơi .
- Chơi thật.
- Nhận xét, đánh giá và khuyến khích học sinh kịp thời.
- Giáo viên có thể nêu thêm những tri thức được học tập qua trò chơi,
những sai lầm cần tránh.
Trò chơi học tập là một hình thức dễ làm cho lớp học sinh động và hấp
dẫn hơn. Đối với loại bài tâp này giáo viên chọn những bài tập có nhiều đơn vị
kiến thức để huy động được nhiều học sinh tham gia chơi.
Ví dụ: Bài tập 2 (TV 2- Tập 2 - Trang 79- 80)
Đối với bài tập này giáo viên tổ chức dưới dạng trò chơi giải ô chữ (dùng
Máy chiếu). Tất cả học sinh dùng bảng con tìm từ theo gợi ý, sau giáo viên lần
lượt xuất hiện các chữ cái của từ vào các ô tương ứng của bảng ( trên màn hình)
theo từng dòng như vậy sẽ gây được sự chú ý của học sinh hơn.

3

B Ư

4

2
Đ
R

U
T

Mẫ
u
I
U
5
6

7
8

H
S

1 S Ơ
Đ Ô N
Ê N
N G T
T H
V I T
I Ê N
Ô N H


N
G

T

I

N H

H U
Ư V

I

Ê N

Ư Ơ N G

9


(Ảnh chụp hoạt động trò chơi, tại lớp 2B trường Tiểu học Xuân Dương)

Giải pháp 6: Tổ chức cho học sinh trao đổi, nhận xét kết quả, rút ra những
điểm mới ghi nhớ về tri thức.
Ngoài việc hướng dẫn cho học sinh làm bài tập, tôi hướng dẫn cho học
sinh trình bày kết quả mà các em đã làm được. Đây là cơ sở tôi đánh giá mức độ
nắm kiến thức của học sinh đồng thời có tác dụng kích thích học sinh tích cực
làm việc.

Quá trình trao đổi, nhận xét, tôi luôn tạo cho nhiều em trình bày ý kiến
của mình kể cả những ý kiến chưa đúng. Đối với những bài tập không có một
đáp án duy nhất, cần hướng dẫn học sinh xác định tất cả các đáp án đúng và nêu
được đáp án hay, chính xác nhất.

(Ảnh chụp hoạt động trao đổi nhận xét kết quả học tập, tại lớp 2B trường Tiểu học Xuân Dương)

10


Giải pháp 7: Dạy kiến thức về từ và câu theo hướng tích hợp các phân môn
Tiếng Việt và các môn học khác trong chương trình lớp 2.
Kiến thức Tiếng Việt vốn bắt nguồn từ đời sống thực tế. Nó sẽ trở nên
hữu ích nếu biết gắn vào cuộc sống của trẻ và lớp học sẽ trở nên sinh động hơn.
Học sinh học tập hiệu quả hơn nếu giáo viên biết tích hợp nhiều hoạt động cho
một đơn vị kiến thức. Hệ thống các chủ điểm là trục để phối hợp các môn, phân
môn. Việc cung cấp kiến thức gắn bó với việc rèn luyện kĩ năng thông qua các
biện pháp dạy học. Học sinh làm việc nhiều trên lớp cũng như ngoài lớp. Từ đó,
học sinh chủ động hơn trong hoạt động học, giờ học trở nên thiết thực, nhẹ
nhàng hấp dẫn.
Ngoài việc giúp các em nắm vững kiến thức Tiếng Việt ở tiết Luyện từ và
câu trong chương trình, tôi còn sửa chữa và giúp các em hiểu thêm kiến thức về
từ, câu trong các tiết học khác như: Tập đọc, Chính tả, Toán, Tập viết, Tự nhiên
và xã hội,... .
Ví dụ: Khi giải toán học sinh đặt lời giải sai nghĩa hoặc không chặt chẽ,
tôi hướng dẫn các em cách chọn câu trả lời gắn gọn, đủ ý. Trong các tiết Tập
đọc, Kể chuyện vào những lúc thích hợp tôi thường khuyến khích học sinh nhận
diện được nghĩa của từ, cho học sinh vận dụng từ để đặt câu....
Giải pháp 8: Thủ thuật lên lớp của giáo viên và công tác chủ nhiệm.
Một yếu tố quan trọng góp phần quyết định thành công hay không của

một tiết dạy đó là thủ thuật lên lớp của giáo viên. Để tiến trình giờ dạy hợp lí,
đảm bảo thời gian và sử dụng các phương pháp, hình thức dạy – học hài hoà tôi
phân bố thời gian từng phần cho hợp lí. Lúc nào giảng, lúc nào học sinh làm
việc, trò chơi như thế nào để gây hướng thú cho các em. Lời nói luôn ấm áp, nhẹ
nhàng, truyền cảm sẽ làm cho tiết học hiệu quả hơn. Cần chấm bài sửa lỗi, đánh
giá thường xuyên và khuyến khích học sinh tham gia quá trình đánh giá.
Giáo viên chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng vừa là người tổ
chức hướng dẫn, điều hành các hoạt động đồng thời cũng là người kiểm tra đánh
giá mọi hoạt động và mối quan hệ ứng sử của học sinh trong lớp.Từ đó nhằm
hình thành nhân cách cho các em. Để góp phần đạt được hiệu quả cao nhất của
tiết dạy thì tôi làm tốt những việc sau:
- Quan tâm, chăm sóc và gần gũi với học sinh.
- Xây dựng nề nếp học tập tốt, có quy định về nội quy của lớp.
- Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các em thực hiện tốt nội quy, nề nếp
của trường, lớp.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến:
Gần một năm học vận dụng sáng kiến này tại lớp 2B trường Tiểu học
Xuân Dương, với các bài kiểm tra về phân môn Luyện từ và câu, lớp của tôi đã
dần dần tiến bộ. Từ chỗ đầu năm học vốn từ của các em còn nghèo, không diễn
đạt một cách trôi chảy những cảm nhận của mình. Dùng từ còn sai, khi nói, viết
chưa chọn câu. Đến nay học sinh học tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ
của học sinh phong phú, câu văn giàu hình ảnh.
11


Qua bài kiểm tra định kì học kì I và các bài khảo sát chất lượng hàng
tháng có liên quan đến Luyện từ và câu, tôi thấy các em học sinh lớp tôi đều
hoàn thành tốt phần này. Để thật sự khách quan khi kiểm chứng hiệu quả của
sáng kiến, đầu tháng 3 năm 2017, tôi đã đề nghị tổ trưởng Tổ 2 ra đề và kiểm
tra lớp 2B của tôi cùng với học sinh lớp 2A. Kết quả thu được làm tôi hết sức

hài lòng. Đối chiếu kết quả của học sinh hai lớp thì kết quả của học sinh lớp tôi
cao hơn rất nhiều. Tôi cũng đã đem ý tưởng này áp dụng thử nghiệm trên toàn
bộ học sinh Khối 2 của trường. Được đồng nghiệp đánh giá là rất hiệu quả khi
áp dụng các biện pháp hướng dẫn của tôi.
Kết quả về phân môn Luyện từ và câu cụ thể như sau:
Kết quả khảo sát tháng 3 năm học 2016 – 2017

Lớp

Tổng số

2B
2A

HTT

HT

CHT

SL

TL

SL

TL

SL


23

12

52.2

11

47.8

0

24

7

30.4

17

69.6

0

TL

Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy tỉ lệ học sinh HTT và học sinh HT so
với đầu năm tăng từ 65.2% lên 100%. Tỉ lệ học sinh CHT giảm từ 34.8 xuống
0%. Số lượng học sinh HTT của lớp 2B nhiều hơn so với lớp 2A là 5 học sinh.
3. KẾT LUẬN ,KIẾN NGHỊ

3.1. Kết luận
Trong dạy học môn Tiếng Việt nói chung và dạy phân môn Luyện từ và
câu lớp 2 nói riêng, để học sinh nắm vững kiến thức và vận dụng tốt kiến thức
của phân môn này. Theo tôi, trước hết mỗi người giáo viên chúng ta cần tâm
huyết với nghề, thương yêu học sinh, không ngừng học hỏi để tích lũy được
những kinh nghiệm hay, phục vụ cho công tác giảng dạy. Chúng ta không quản
ngại khó khăn vất vả tìm tòi ra những biện pháp phù hợp để giúp học sinh của
mình thực sự hiểu bài và có thể vận dụng vào làm bài tập một cách hiệu quả.
Đối với học sinh các trường vùng thuận lợi, việc dạy học cho các em là hết sức
nhẹ nhàng vì các em hiểu nhanh, hiểu đúng. Chính vì vậy mà trong quá trình
công tác, tôi luôn không ngừng tìm tòi, khám phá ra những biện pháp dựa trên
cơ sở khoa học để giúp học sinh của tôi tiếp thu bài tốt hơn. Với mỗi bài học,
mỗi dạng bài chúng ta có cách làm hay, giúp học sinh dễ học. Nhiều sáng kiến
hay của nhiều bài, nhiều dạng chúng ta đã có được một môn học thành công.
Trong khuôn khổ của sáng kiến này, không tránh khỏi những thiếu sót
nhưng nó đã giúp được cho học sinh của tôi học Luyện từ và câu rất tốt so với
đầu năm học. Đặc biệt so với các lớp khác cùng khối 2 trong trường, học sinh
lớp của tôi cũng mạnh dạn hơn, vốn từ của học sinh phong phú, câu văn giàu
hình ảnh.
Sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2B trường
Tiểu học Xuân Dương - Thường Xuân học tốt phân môn Luyện từ và câu.”
12


của tôi đã được áp dụng thử nghiệm tại lớp của tôi và cho hiệu quả cao. Tôi
cũng đã đem ý tưởng này áp dụng thử nghiệm trên toàn bộ học sinh khối 2 ở
trường và được đánh giá là rất hiệu quả. Với ý tưởng của sáng kiến này, không
những nó phù hợp với đối tượng học sinh lớp 2 mà có thể vận dụng vào lớp 3
cũng rất hiệu quả.
Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học Luyện từ và câu nói riêng,

muốn đạt được hiệu quả cao nhất người giáo viên cần phải tìm tòi sáng tạo, cần
phải hiểu thật kĩ, thật sâu vấn đề cần giải quyết thì mới mong có được kết quả tốt
khi hướng dẫn học sinh. Để học sinh có được một vốn từ nhất định chúng ta
luôn đi từ những cái cụ thể nhưng không quên giúp học sinh vận dụng những
vốn từ đó vào trong giao tiếp hằng ngày mà đặc biệt là trong khi làm văn. Đó là
cách làm mà tôi đã vận dụng để viết thành sáng kiến này.
3.2. Kiến nghị:
* Đối với giáo viên:
- Cần tích cực hơn nữa trong công việc tự làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng
thường xuyên trong các tiết dạy.
- Tích cực đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng linh hoạt các hình thức tổ
chức dạy học.
* Đối với lãnh đạo nhà trường:
- Cần tăng thêm các buổi sinh hoạt chuyên môn theo chuyên đề để giáo
viên có thể học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã thử nghiệm thành công tại đơn
vị. Trong khi trình bày sáng kiến sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp, để sáng
kiến của tôi hoàn thiện hơn, góp phần nâng cao chất lượng dạy học phân môn
Luyện từ và câu lớp 2 nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 14 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Phùng Thị Lan


13


TÀI LIỆU THAM KHẢO:
STT

Tên tài liệu

Tên tác giả hoặc
nhà xuất bản

1

Sách Tiếng Việt lớp 2 Tập 1- Tập 2

NXB Giáo dục

2

Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2 Tập 1- Tập 2

NXB Giáo dục

3

Dạy học từ ngữ ở Tiểu học

NXB Giáo dục


4

Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học

NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.

14


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Phùng Thị Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Xuân Dương

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

1.

Một số biện pháp giúp học
sinh học học tốt phân môn

Tập làm văn lớp 3.
Một số biện pháp giúp giáo
viên dạy tốt phân môn Luyện
từ và câu lớp 3.

Phòng
GD&ĐT
Thường Xuân
Phòng
GD&ĐT
Thường Xuân

2.

Kết quả
đánh giá
Năm học
xếp loại đánh giá xếp
(A, B,
loại
hoặc C)
C
2004 - 2005
B

2008 - 2009

15




×