Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5a trường tiểu học luận khê 2 về rèn kĩ năng đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.47 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Trong chương trình Tiểu học hiện nay xác định mục tiêu và chuẩn kiến thức kĩ
năng của môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là:
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, (nghe, nói,
đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
- Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt ngoài việc rèn luyện thao tác tư duy ra
mà còn phải chú trọng vào việc rèn luyện cho các em học sinh dân tộc thiểu số kĩ năng
đọc diễn cảm, đọc và phát âm đúng Tiếng Việt là rất cần thiết.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên, con người, về văn hoá văn học Việt Nam.
- Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng
giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người.
- Phân môn Tập đọc trong Tiếng Việt là một trong những phân môn quan trọng
bởi có đọc tốt thì mới học tốt Tiếng Việt và các môn học khác. Rèn kĩ năng đọc tốt là
các em được củng cố khắc sâu thêm những tri thức, kỹ năng học tốt ở những phân môn
Tiếng Việt và các môn học khác. Chức năng của việc luyện đọc: rèn cho học sinh đọc
đúng, đọc trôi chảy, tiến tới đọc hay (đọc diễn cảm). Thông qua đọc đúng, đọc trôi chảy
mà học sinh còn biết cảm thụ được cái hay cái đẹp của bài văn, bài thơ. Nó là chìa khoá
đưa các em vào kho tàng văn hoá, khoa học, giúp các em nhận ra những tinh hoa của
dân tộc đang được tàng trữ trong sách vở. Mỗi bài tập đọc là một văn bản là một bức
tranh thu nhỏ về hiện thực về cảnh đẹp đất nước, con người, xã hội... Mặt khác, thể hiện
được tâm hồn của tác giả không chỉ có nội dung hấp dẫn của bài văn bài thơ mà còn phụ
thuộc vào người đọc tác phẩm đó. Trước hết người đọc phải đọc đúng, đọc chính xác,
đọc trôi chảy, tiến tới đọc diễn cảm, đọc theo vai thì mới diễn tả cảm xúc, tình cảm, thái
độ của tác giả bộc lộ qua từng nhân vật trong tác phẩm.
- Bởi vậy nâng cao năng lực đọc cho học sinh nhất là đọc đúng, đọc diễn cảm là
hết sức cần thiết đối với giáo viên cuối bậc Tiểu học. Qua nhiều năm được nhà trường
phân công giảng dạy lớp 5 và qua dự giờ trao đổi học tập lẫn nhau và được dự thi hội
giảng cấp trường, huyện. Còn bộc lộ nhiều tồn tại:
+ Có những học sinh học tới lớp 5 đọc vẫn chưa lưu loát, chưa trôi chảy, ngắt


nghỉ chưa đúng, nhấn giọng lên xuống tuỳ tiện, học sinh phát âm chưa chính xác. Từ
việc đọc chưa tốt dẫn đến các em không hiểu được nội dung không hiểu được nghệ
thuật, không hiểu được cái hay cái đẹp của tác phẩm.
+ Mặt khác, địa bàn của trường còn bị ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương có
97% học sinh đều là người dân tộc thiểu số, nên học sinh phần lớn còn đọc sai, phát âm
nhầm lẫn b/v; d/đ; ch/tr ; s/x ; d /r/gi; dấu sắc với dấu ngã, ... Trong các giờ dạy tập đọc,
việc rèn đọc cho học sinh còn hạn chế giáo viên chưa chú ý rèn đọc khi phát âm sai, khi
ngắt nghỉ chưa đúng. Trong việc rèn đọc diễn cảm mang tính chất hình thức, nhiều giáo
viên còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh rèn đọc: đọc thành tiếng, đọc thầm.
Ngược lại, trong giờ tập đọc có giáo viên chỉ chú trọng đến việc tìm hiểu nội dung bài,
số lượng học sinh được đọc trong lớp ít, chưa biết lên giọng, hạ giọng khi nào, nhấn
giọng ở những từ ngữ nào. Nhất là khi đọc lời các nhân vật chưa thể hiện được tính cách
1


của các nhân vật, qua đó giờ dạy chưa đạt được mục tiêu của tiết học.
- Qua nhiều năm giảng dạy Tập đọc ở lớp 5A, tôi đã vận dụng phương
pháp giảng dạy mới theo chương trình chuẩn kiến thức kĩ năng, nội dung sách
giáo khoa mới, do Bộ GD&ĐT quy định. Đồng thời, rút kinh nghiệm của bản
thân qua từng tiết dạy; vận dụng linh hoạt các hình thức, phương pháp giảng dạy
phù hợp với đối tượng, tích cực phát huy chủ động sáng tạo của học sinh và chú
ý rèn kỹ năng toàn diện cho học sinh. Trong những năm qua tôi đã đi sâu vào
điều tra, nghiên cứu và đề ra những giải pháp, biện pháp hợp lý sát thực với yêu
cầu của bộ môn cũng như đặc điểm tình hình học sinh của nhà trường. Do vậy
kỹ năng đọc của học sinh nói riêng và chất lượng dạy, học môn Tiếng Việt nói
chung thu được kết quả tốt. Từ những lý do trên, tôi xin trình bày sáng kiến kinh
nghiệm: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A trường Tiểu học Luận Khê 2
về rèn kĩ năng đọc’’.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Để giải quyết vấn đề “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A trường

Tiểu học Luận Khê 2 về rèn kĩ năng đọc’’ tôi khảo sát năng lực đọc của học
sinh để tìm ra nguyên nhân và giải pháp rèn kỹ năng đọc qua mỗi tiết tập đọc.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Những biện pháp giúp học sinh lớp 5A trường Tiểu học Luận Khê 2 về
rèn kỹ năng đọc thông qua trực tiếp học các tiết tập đọc theo nội dung chương
trình chuẩn kiến thức kĩ năng, phương pháp dạy mới.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện sáng kiến này, tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Đọc các tài liệu sách, báo, tạp chí giáo dục... có liên quan đến nội dung
sáng kiến.
- Đọc sách giáo khoa, sách giáo viên, các loại sách tham khảo.
- Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về các biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng môn học.
- Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học.
- Tổ chức và tiến hành thực nghiệm sư phạm.
- Tham khảo tài liệu trên mang Internet.
- Đồng thời trao đổi trực tiếp với đồng chí giáo viên chủ nhiệm năm trước
để nắm kỹ hơn về kỹ năng đọc của các em và tiếp tục tìm nguyên nhân dẫn đến
phát âm sai, ngắt nghỉ sai, học sinh đọc diễn cảm còn yếu.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận.
Môn tiếng việt có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho
học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện qua bốn dạng kỹ năng:
nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một dạng ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ
viết sang lời nói có âm thanh.
Đọc không phải là giải bộ mã gồm hai phần (Chữ viết và phát âm). Nghĩa là:
Nó không phải là sự “đánh vần” lên thành tiếng theo đúng như các ký hiệu chữ viết
mà còn là một quà trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì đọc được.
2



Từ những kinh nghiệm của đời sống, từ những thành tựu văn hóa, khoa học, tư
tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời, phần lớn
đã ghi lại chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không thể tiếp thu nền văn
minh của loài người, không thể sống cuộc sống bình thường có hạnh phúc với đúng
nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại.
Biết đọc, con người có khả năng chế ngự một phương tiện văn hóa cơ bản
giúp giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác. Đặc biệt khi đọc một số
tác phẩm văn chương, con người không chỉ thức tỉnh về nhận thức mà còn rung
động tình cảm, nảy nở ước mơ tươi đẹp, khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh
sáng tạo cũng như được bồi dưỡng về tâm hồn.
Để có khả năng thông hiểu những gì đọc được và để phát huy cao về ý nghĩa
của việc đọc. Học sinh ngoài việc đọc đúng: từ, tiếng, câu, đoạn, bài mà còn phải biết
kết hợp với đọc diễn cảm. Vì đó là sự thể hiện hiểu biết thấu đáo những gì đọc được.
Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc những văn bản, văn chương
hoặc có các yếu tố của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kỹ năng làm
chủ ngữ điệu, chỗ ngắt giọng, cường độ giọng… để diễn đạt đúng tính cách tình
cảm mà tác giả gửi gắm trong bài, đồng thời thể hiện sự thông hiểu, cảm thụ của
người đọc với tác phẩm.
Đọc diễn cảm chỉ có thể có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài học. Đọc diễn
càm là yêu cầu đọc giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm… phù hợp từng ý cơ bản
của bài đọc, phù hợp với kiểu câu, thể loại, đọc có xúc cảm, biết nhấn giọng ở từ ngữ
biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả. Để đọc diễn cảm người ta phải làm
chủ chổ ngắt giọng (Kỹ thuật ngắt giọng biểu cảm), làm chủ tốc độ đọc (nhanh, chậm,
ngân hoặc giãn nhịp đọc), làm chủ cường độ (đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay không
nhấn giọng) và làm chủ ngữ điệu. Ở tiểu học khi nói đến đọc, người ta thường nói đến
một số kỹ thuật như: Ngắt giọng biểu cảm, sử dụng tốc độ và ngữ điệu.
Bằng kinh nghiệm dạy học qua quá trình truyền thụ nội dung bài chính xác,
ngắn gọn, dễ hiểu, dể nhớ giúp học sinh dễ dàng vận dụng vào khâu luyện đọc diễn
cảm. Tôi đã xây dựng quy trình dạy học, đặc biệt là chú trọng vào dạy đọc diễn

cảm và luôn đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với thực tế.
Do vậy kỹ năng đọc của học sinh nói riêng và chất lượng dạy, học môn Tiếng
Việt nói chung, thu được kết quả tốt. Nên tôi nghiên cứu sâu về “Một số biện pháp
giúp học sinh lớp 5A trường Tiểu học Luận Khê 2 về rèn kĩ năng đọc”.
2.2. Thực trạng.
2.2.1. Giáo viên:
Trước hết muốn rèn cho học sinh đọc thành tiếng đúng thì giáo viên phải
đọc hay (đọc diễn cảm).
Để đạt được yêu cầu trên thì giáo viên phải rèn luyện bản thân mình đọc đúng,
đọc hay. Không cho phép giáo viên dạy Tập đọc mà lại đọc chưa chuẩn. Trước khi
soạn bài, giáo viên phải đọc bài nhiều lần, đọc thể hiện được cảm xúc của tác giả khi
viết bài văn đó.
Dành quỹ thời gian cho việc soạn bài và thiết kế các hoạt động cụ thể
của cô trò ở từng đoạn của bài. Cô phải chú ý đến khâu rèn đọc cho học sinh,
3


chú ý đến đối tượng học sinh đọc kém. Nhất là những tiết luyện đọc ở buổi hai.
Giáo viên phải nên sửa, rèn dứt điểm cho học sinh phát âm sai ở từng cặp phụ
âm mà em đó hay phát âm sai hoặc đọc chưa đúng.
Tham khảo nội dung sách hướng dẫn giảng dạy để lựa chọn nội dung,
phương pháp, hình thức học tập cho phù hợp với đối tượng của lớp mình.
Sưu tầm đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh hoạ phục vụ cho bài dạy để
học sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài sâu hơn.
Chú ý đến yêu cầu của phân môn tập đọc: Đó là rèn đọc, rèn đọc càng
nhiều càng tốt.
Đôi khi giáo viên chuẩn bị bài chưa được chu đáo. Tranh ảnh, đồ dùng
học tập chưa phong phú, hình thức tổ chức tiết học chưa sinh động.
Thời gian hạn chế nên việc rèn đọc cá nhân chưa nhiều cho tất cả các đối
tượng học sinh trong lớp.

Hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm còn qua loa, chỉ chú trọng vào từng
bài cụ thể chưa khái quát thành dạng tổng hợp.
Chưa thường xuyên rèn đọc, rèn phát âm, những phụ âm sai.
Chưa đầu tư quỹ thời gian và rèn dứt điểm dẫn đến ảnh hưởng tới học
sinh. Nhiều giáo viên đọc chưa hay, chưa đúng làm ảnh hưởng không ít tới việc
đọc của học sinh.
Hơn nữa trong giờ tập đọc còn có giáo viên chưa chú ý đến học sinh đọc sai,
chỉ chú ý đến học sinh đọc đúng, đọc hay. Các em này được làm việc liên tục trong
giờ dạy do vậy các em đọc tốt càng đọc tốt, em đọc yếu vẫn hoàn yếu.
Giáo viên còn nặng về phương pháp truyền thống, nặng thuyết trình
không chú ý năng lực chủ động của học sinh.
Gọi học sinh đọc ít, kể cả khâu rèn đọc và đọc giảng. Nhất là khi đọc
diễn cảm giáo viên chỉ gọi một em khá đọc mang tính hình thức.
Chưa chú ý đến việc rèn đọc cho học sinh, nhận xét bạn đọc đúng hay
sai để sửa cho bạn và điều chỉnh mình khi mình đọc sai. Khi học sinh đọc sai
đọc lại để sửa thì chưa rèn dứt điểm đối với những lỗi sai của học sinh.
Chưa chú ý đến đọc nhóm đôi nối tiếp, đọc cho bạn nghe và ngược lại.
Chưa chú ý đến khâu rèn đọc thường xuyên ở các tiết dạy tập đọc và các
tiết học khác.
2.2.2. Học sinh:
Đặc thù học sinh trong trường các em đều là người dân tộc thái nên khi đọc
các em cũng đọc và phát âm sai, đọc sai do các em phát âm theo phương ngữ địa
phương. Phát âm sai thanh phụ âm đầu b thành v. Ví dụ “vào” đọc thành “bào”. Phát
âm lẫn lộn thanh hỏi, thanh ngã với thanh nặng ; ví dụ: “suy nghĩ” đọc thành “suy
nghị”; ví dụ: “mãi mãi” đọc thành “mại mại”… Đọc sai chủ yếu phụ âm đầu l/đ; s/x;
tr/ch; r/gi/d. Ví dụ: “con lợn” đọc thành “con đợn”; “lặc lè” đọc thành “đặc đè”, “
Trên trời mây trắng như bông..” đọc thành “ Chên chời mây chắng như bông…”
Nhiều học sinh còn xem nhẹ môn tập đọc nên chưa có sự chuẩn bị bài trước.
Còn có em đọc yếu, vừa đọc vừa đánh vần tiếng khó dẫn đến đọc không trôi chảy.
4



Học sinh chưa hiểu được mối quan hệ về nghĩa, quan hệ ngữ pháp giữa các
tiếng, từ nên ngắt hơi chưa đúng, chưa biết nhấn giọng ở những từ ngữ gợi cảm, gợi
tả dẫn đến chưa thể hiện được cách đọc diễn cảm bài đọc.
Nhiều học sinh khi đọc một văn bản chưa biết thể hiện diễn cảm, các em chỉ biết
thể hiện diễn cảm khi có sự gợi ý của giáo viên.
Học sinh đã đọc kém lại lười đọc, không chú ý đến cách hướng dẫn đọc của
thầy, không nghe những bạn đọc đúng để mình học tập, để mình đọc đúng.
Đối với những em đã đọc đúng thì chưa chịu rèn kỹ năng đọc diễn cảm (đọc
hay) để thể hiện được cảm xúc, tình cảm thái độ qua giọng đọc và tính cách của các
nhân vật như: đọc đúng tốc độ, cao độ, trường độ, và âm sắc.
Cần có sự ham thích đọc, có ý thức tự luyện đọc. Tham gia đầy đủ các câu lạc
bộ thi đọc mà nhà trường tổ chức. Sưu tầm sách, báo, truyện để đọc.
Học sinh Thường xuyên rèn đọc đúng ở bất kỳ một văn bản nào nói chung
hay trong các tiết tập đọc nói riêng.
* Nguyên nhân:
+ Do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương phát âm chưa chuẩn, ông bà, bố
mẹ người lớn nói thế nào các em bắt chước như thế.
+ Do bố mẹ ở địa phương khác chuyển đến hay đến xây dựng gia đình nói,
phát âm chưa đúng.
Ví dụ: Bố mẹ phát âm sai: l/đ lẫn lộn thì con cái phát âm cũng rất rễ nhầm
như vậy.
Vì vậy quá trình giảng dạy tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng đọc của học
sinh ở những tiết học tập đọc đầu năm năm học 2017 – 2018 cụ thể kết quả khảo sát
như sau:
* Kết quả khảo sát
Đọc phát
Đọc ngắt
Đọc đúng Đọc diễn cảm

Tổng số
âm sai
nghỉ sai
Lớp
học sinh
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
5A
27
9
33,3
11
40,7
5
18,5
2
7,4
2.3. Các giải pháp để giải quyết vấn đề.
Trải qua nhiều năm giảng dạy và áp dụng các biện pháp khác nhau để rèn
cho học sinh học đọc tốt, tôi xin đưa ra một số biện pháp sau:
2.3.1. Tổ chức dạy đọc thành tiếng:
Chuẩn bị cho việc dạy đọc: Giáo viên hướng dẫn học sinh tư thế ngồi đọc.
Khi ngồi đọc phải ngồi ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách từ 30cm đến
35cm, cổ và đầu thẳng. Ở lớp, khi cô giáo gọi đọc, học sinh phải bình tĩnh, tự

tin, không hấp tấp đọc ngay.
2.3.2. Rèn phát âm đúng:
Để rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn giáo viên phải hướng dẫn học
sinh phát hiện lỗi và sửa lỗi cho học sinh. Trong giờ tập đọc tôi gọi học sinh đọc
khá đọc bài, và giao nhiệm vụ cụ thể các em khác đọc thầm theo tìm những
tiếng khó đọc, các phụ âm hay đọc sai. Gọi học sinh phát hiện và phát âm, các
em khác theo dõi nhận xét phát âm của bạn và phát âm lại. Gọi 3,4 em phát âm
5


và giáo viên chốt lại cuối cùng. Chẳng hạn: Các em hay phát âm sai l/đ, v/b giáo
viên nói khi phát âm đ: đầu lưỡi thẳng (vì nó là âm tắc), l là âm sắc phát âm đầu
lưỡi cong lên hoặc “tr” đầu lưỡi thụt vào. “ch” lưỡi để thẳng …
* Luyện phát âm đúng “n” trong các từ sau:
+ Nóng nực, nuôi nấng, nơm nớp, na ná, nao núng, nấu nướng, não nùng,
non nước này, nung nấu, nồng nàn...
* Luyện phát âm đúng âm “l” trong các từ:
+ Lắm lỗi, lầm lỗi, lẫn lộn, lấp lánh, lọt lòng, lầy lội, la lối, lập loè, lừng
lẫy, làm lụng, lai láng, lạnh lẽo, lanh lảnh, lành lặn,...
* Luyện cả “n và l”.
+ Nới lỏng, nói lại, nước - lửa, nức lòng, làm nũng, làng nước, ...
- Ví dụ: Trong lớp tôi em Cầm Thị Phong khi đọc luôn phát âm sai “và đọc là
bà vv.... Tôi tìm nhiều từ có phụ âm v, b để gọi em phát âm. Gọi em khá đọc trước, em
nghe đọc lại, đọc nhiều lần sửa đến khi em đọc đúng. Khi đã sửa cho em đọc đúng rồi,
trong các tiết học sau tôi luôn luôn chú ý đến em khi đọc xem em còn mắc lỗi lại nữa
không để kịp thời uốn nắn, sửa chữa nếu em mắc lại.Vì số lượng học sinh mắc lỗi này
không nhiều nên tôi sửa sai triệt để. Và các phụ âm khác khi học sinh phát âm sai tôi
tiến hành tìm các từ ngữ có âm đó luyện phát âm cho học sinh ngay trong giờ và luyện
thêm ở những tiết dạy luyện tập buổi hai.
2.3.3. Rèn đọc đúng:

Giáo viên phải nói đến tiêu chí cường độ và tư thế khi đọc, tức là rèn đọc to, đọc
đàng hoàng. Cho học sinh biết khi mình đọc thành tiếng là người đọc có thể đọc cho
mình hoặc cho người khác hoặc cho cả hai.
Đọc và phát biểu trong lớp là hai hình thức giao tiếp giúp cho các em có sự tự tin
cần thiết. Khi đọc thành tiếng các em phải tính đến người nghe. Đọc không phải chỉ cho
mình thầy, cô giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn cho tất cả
những người này nghe rõ.
Nhưng hoàn toàn không có nghĩa là phải đọc quá to hoặc gào lên. Đối với học
sinh đọc quá nhỏ “lí nhí”, giáo viên cần tập cho học sinh đọc to chừng nào bạn ở xa nhất
trong lớp nghe thấy mới thôi.
Giáo viên nên cho học sinh đứng lên bảng để đối diện với những người nghe.
Tư thế đọc phải vừa đàng hoàng, vừa thoải mái. Sách phải được mở rộng và cầm
bằng hai tay.
Đối với từ, câu khó và luyện đọc đúng: Giáo viên phải rèn cho học sinh thể hiện
cảm xúc các âm vị Tiếng Việt.
Đọc đúng các phụ âm đầu, có ý thức phân biệt để không đọc “đẫn độn”, “độn
xộn”,.... mà phải đọc “lẫn lộn ”, “lộn xộn”.
Đọc đúng các âm chính: Cần có ý thức phân biệt, không đọc “iu tin”,
“mua riệu”, “chấm múi”, “hoọc hành” mà phải đọc “ưu tiên”, “mua rượu”,
“chấm muối”, “học hành”.
Đọc đúng các thanh: Về thanh có các lỗi phát âm địa phương như sau: lẫn thanh
hỏi và thanh ngã; thanh ngã và thanh nặng.
6


Đọc đúng bao gồm cả đúng tiết tấu, ngắt nghỉ hơi, ngữ điệu câu. Cần phải dựa
vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Khi đọc
không đọc tách một từ ra làm hai, ngắt hơi giữa các cụm từ cho đúng:
Ví dụ khi đọc câu thơ và câu văn sau thì học sinh thường đọc:
Đất xanh tre / mãi xanh màu / tre xanh.

Tôi quay / phắt lưng phóng càng đạp phanh phách / ra oai.
Việc dựa vào nghĩa và quan hệ cú pháp sẽ giúp chúng ta xác định cách ngắt đúng
của các câu như sau:
Đất xanh / tre mãi / xanh màu tre xanh.
Tôi quay phắt lưng / phóng càng / đạp phanh phách ra oai.
Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu câu; nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở
dấu chấm. Đọc đúng các ngữ điệu câu: Lên giọng ở cuối câu hỏi, xuống giọng ở cuối
câu kể. Thay đổi giọng cho phù hợp với tình cảm diễn đạt trong câu cảm. Với câu
cầu khiến cần nhấn giọng cho phù hợp để thấy rõ các nội dung yêu cầu khác nhau.
Ngoài ra còn phải hạ giọng khi đọc bộ phận giải thích của câu…
Dùng lời nói kết hợp chữ viết, ký hiệu và đồ dùng dạy học, hướng dẫn học
sinh cách ngắt nghỉ hơi, tốc độ đọc, giọng đọc thích hợp. Mỗi đoạn gọi 2,3 học sinh
đọc. Gọi học sinh nhận xét bạn và đọc lại chú ý đọc ngắt nghỉ những cụm từ trong
những câu văn dài bài văn xuôi.
+ Ví dụ: Bài : “Một chuyên gia máy xúc’’
“Thế là/ A-lếch -xây đưa bàn tay vừa to /vừa chắc ra/ nắm lấy bàn tay đầy dầu
mỡ của tôi lắc mạnh và nói://
Sau khi học sinh phát hiện câu dài, giáo viên ghi vào bằng giấy hoặc bảng phụ
gọi 2,3 em đọc. Các em khác nhận xét bạn ngắt nghỉ đúng chưa, ngắt hơi, nghỉ hơi
sau với những tiếng nào, em có đồng ý không? Mời em đó đọc lại. học sinh đọc và
ngắt hoặc nghỉ để các ban khác nhận xét bổ xung và giáo viên thống nhất cách đọc.
Đối với những em đọc yếu tôi chú ý cho các em đó đọc nhiều hơn. Hôm nay
đọc một câu, ngày mai đọc hai câu, và tăng dần số câu. Các em khác chú ý nghe
nhận xét bổ xung bạn đọc. Nếu bạn vẫn đọc sai tiếp tục cho em đó đọc. Trong khi
đọc nối tiếp đoạn kết hợp đặt câu hỏi gợi ý để các em trả lời hiểu những từ được chú
thích trong bài để học sinh hiểu nghĩa của từ.
Đối với những văn bản nước ngoài giáo viên hướng dẫn thật cụ thể cách đọc
những từ được phiên âm thành tiếng Việt: như Lê - ô - nác - đô đa Vin - xi, Vê - rô - ki ô, Bu - ra - ti - nô, Tooc - ti - la…
Để thực hiện tốt yêu cầu luyện đọc đúng, trước khi lên lớp giáo viên phải dự
tính để ngăn ngừa các lỗi khi đọc. Tùy đối tượng học sinh, giáo viên xác định các lỗi

phát âm mà học sinh địa phương dễ mắc phải để định ra các tiếng, từ, cụm từ, câu
khó để cho những học sinh đó luyện đọc. Tức là giáo viên phải có sự chuẩn bị bài
tốt.
Khi lên lớp, đầu tiên giáo viên đọc mẫu (nếu giáo viên có giọng đọc không
tốt, chưa chuẩn thì có thể gọi học sinh có giọng đọc tốt, phát âm chuẩn đọc mẫu cho
cả lớp nghe), cuối cùng cho học sinh đọc cá nhân các tiếng, từ khó. Đối với cách
ngắt nghỉ câu, giáo viên cũng hướng dẫn tương tự như đọc đúng âm, tiếng, từ.
7


Ngoài ra giáo viên nên có sự sắp xếp các đối tượng học sinh ngồi xen kẽ vào
nhau để tạo điều kiện cho các em có sự giao tiếp, giúp nhau sửa sai khi đọc.
2.3.4. Luyện đọc diễn cảm:
Đọc diễn cảm là việc đọc thể hiện kỹ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng
giọng, cường độ giọng… để thể hiện đúng tư tưởng, tình cảm mà tác giả đã gửi gắm
trong bài đọc, đồng thời thể hiện được sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc qua bài
đọc.
Để đọc diễn cảm thì người đọc phải làm chủ được tốc độ đọc, chỗ ngắt giọng,
biết nhấn giọng ở những từ ngữ gợi cảm, gợi tả, biết đọc đúng ngữ điệu khi gặp câu
hỏi, câu cảm….
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt gợi mở để
học sinh thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với hình ảnh, cảm xúc
trong bài thơ, phù hợp tính cách nhân vật trong bài văn (Bước đầu biết làm chủ được
giọng đọc đối với ngữ điệu, tốc độ, cao độ, trường độ, âm sắc nhằm diễn tả đúng nội
dung bài.
Đọc diễn cảm phù hợp với sự cảm nhận riêng của từng cá nhân. Giáo viên có
thể viết khổ thơ ra bảng, giấy gắn trên bảng để học sinh tìm ra cách đọc).
+ Ví dụ: Bài “Bầm ơi’’
Gọi 1 đến 2 em đọc cho học sinh nhận xét, giọng đọc bài thơ như thế nào?
Bạn đọc đúng chưa? (Giọng trầm lắng thiết tha). Em đọc lại: Đọc hai câu mở đầu:

Ai về thăm mẹ quê ta/ Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm.”
Hỏi: bạn đọc đúng chưa? Đọc với giọng thế nào? (với giọng nhẹ, trầm, nghỉ
hơi dài khi kết thúc).
Nhấn giọng ở đoạn theo cách ngân dài hơi hơn ở những từ ngữ khẳng
định hoặc mang rõ sắc thái cảm xúc: “Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm…”
Trong khi đọc tôi hướng dẫn đọc đúng đối với những câu văn sau dấu chấm
lửng, ngắt nghỉ thế nào? Đối với các câu cảm, câu thán, câu hỏi trong bài cần đọc
như thế nào mới đúng.
Khi đọc trong các bài thơ, bài văn có các câu hỏi, câu kể, câu cảm giáo viên
cần hướng dẫn các em đọc đúng giọng của từng loại câu đó thì mới bộc lộ được cảm
xúc của từng nhân vật và của tác giả.
+ Ví dụ: Bài
Chú đi tuần
“Các cháu ơi ! ngủ có ngon không?
Các cháu cứ yên tâm ngủ nhé!”
+ Hoặc: khi đọc bài “Hạt gạo làng ta’’cuối giờ học giáo viên hát cho các em
nghe bài hát Hạt gạo làng ta mà đã được phổ nhạc.
Thông qua hiểu được nội dung bài đọc, phải hiểu được cảm xúc của tác giả
trong văn bản đó. Đối với nhân vật thể hiện được tính cách của nhân vật đó.
Giọng đọc thay đổi ở từng đoạn. Khi đọc câu đối thoại đọc như thế nào? Đọc
thế nào thể hiện đọc giọng của từng nhân vật.
Biết đọc bài văn với giọng kể nhẹ nhàng, hóm hỉnh hay với giọng niềm nở hồ
hởi...Để thể hiện được tính cách, cảm xúc của các nhân vật người đọc cần hoà mình
vào từng nhân vật để tìm được cách đọc. Khi đọc diễn cảm tôi hướng dẫn các em
8


biết nhấn giọng ở các từ ngữ gợi tả, gợi cảm (tặc lưỡi, ngạc nhiên, giận dữ, thủng
thẳng, giả bộ) và biết đọc phân biệt lời các nhân vật.
Đối với các bài thơ : Đọc đúng trong bài thơ không những phát âm đúng phải

biết ngắt nghỉ theo nhịp thơ, nhấn giọng các từ ngữ. Khi đọc cần ngắt nhịp 2/3 hay
3/4 hay 4/4 ... Gọi học sinh đọc các khổ thơ cho các em nhận xét ngắt nhịp đúng
chưa, ngắt nhịp ở những tiếng nào. Giáo viên ghi khổ thơ vào bảng, giấy để học sinh
nói cách ngắt nhịp, nhận xét bổ sung, giáo viên thống nhất.
Ví dụ bài: Hành trình của bầy ong.
+ Gọi học sinh đọc, nhận xét, đọc lại và thống nhất cách ngắt nhịp: 4/2 hay 3/5.
“Chắt trong vị ngọt /mùi hương
Lặng thầm thay/ những con đường ong bay
Trải qua mưa nắng /vơi đầy
Men trời đất/ đủ làm say đất trời.
Hoặc bài: “Chú đi tuần” không ngắt nhịp cố định mà chỉ cần ngắt theo cảm xúc:
Chú đi tuần/ đêm nay
Hải Phòng/ yên giấc ngủ say
Cây /rung theo gió /, lá /bay xuống lòng đường
Chú đi qua cổng trường /
Các cháu miền Nam /yêu mến.
Ngoài ra không những tôi luyện cho học sinh đọc ngắt đúng nhịp thơ tôi còn
rèn cho học sinh biết đọc vắt dòng đúng.
+ Ví dụ: Hành trình của bầy ong
“ Bầy ong giữ hộ cho người. Những mùa hoa /đã tàn phai tháng ngày”
+ Khi đọc trong các bài văn:
Ví dụ : bài: Lòng dân :
Khi dạy tôi hướng dẫn các em phân biệt tên nhân vật với lời nói của nhân vật
và lời chú thích về thái độ, hành động của nhân vật: Ví dụ
Cai : ( xẵng giọng ) // Chồng chị à?
Dì Năm : - Dạ , chồng tui.
Cai : - Để coi. ( Quay sang lính ) // Trói nó lại cho tao//(chỉ dì Năm ). Cứ trói
đi . Tao ra lịnh mà//( lính trói dì Năm lại ).
Khi đọc cần thể hiện đúng thái độ, tình cảm của nhân vật và tình huống kịch.
Cụ thể:

Giọng cai và lính : hống hách, xấc xược
Giọng dì Năm và chú cán bộ ở đoạn đầu: tự nhiên, ở đoạn sau dì Năm khéo
giả vờ than vãn khi bị trói, nghẹn ngào nói lời trăng trối với con khi bị doạ bắn chết.
Giọng An : giọng một đứa trẻ đang khóc. ( An tham gia rất tự nhiên vào vở kịch
do má em dàn dựng. trong tình huống nguy hiểm, em khóc vì thực sự lo cho má).
+ Hoặc : Bài: “Một chuyên gia máy xúc’’ có câu văn :
- Đồng chí lái máy xúc bao nhiêu năm rồi ?
- Chúng mình là đồng nghiệp đấy, đồng chí Thuỷ ạ!
Tôi hướng dẫn các em cần đọc đúng ngữ điệu khi đọc câu hỏi như nhấn
giọng từ để hỏi, cao giọng ở cuối câu. Nếu học sinh đọc chưa hay giáo viên có
9


thể đọc mẫu cho học sinh để học sinh nghe giọng đọc của cô để tự điều chỉnh
mình đọc theo cô.
Để các em đọc tốt giáo viên cần tạo niềm say mê hứng thú cho học sinh.
Biện pháp luyện đọc diễn cảm: Sau khi học sinh hiểu nội dung bài đọc thì
các em sẽ biết cách diễn đạt thích hợp dưới sự hướng dẫn của giáo viên để hình
thành kỹ năng đọc theo các bước:
+ Tập lấy hơi và tập thở: Biết thở sau ở chỗ ngưng nghỉ để lấy hơi khi đọc.
+ Rèn cường độ giọng đọc - Luyện đọc to (bắt đầu từ lớp 1).
+ Luyện đọc chính âm (đã trình bày ở phần đọc đúng).
+ Luyện đọc diễn cảm:
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh trao đổi, thảo luận vì sao đọc như vậy. Có
thể đọc phân vai để làm sống lại nhân vật của bài đọc.
- Luyện đọc cá nhân.
2.3.5. Đối với đoạn văn bản:
Hướng dẫn học sinh đọc xác định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với nội
dung thông báo làm rõ thông tin cơ bản giúp nghe tiếp nhận được những vấn đề
quan trọng hay nổi bật trong văn bản.

Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không
có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không đọc sót từng âm, vần, tiếng. Đọc phải thể
hiện đúng hệ thống ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng âm chính (không đọc theo cách
phát âm địa phương lệch chuẩn). Đọc đúng bao gồm về đọc đúng các âm, thanh
(đúng âm vị), ngắt nghỉ hơi đúng chỗ (đọc đúng ngữ điệu).
Đọc diễn cảm sau khi học sinh đã tóm tắt hiểu được nội dung của văn bản.
Khi rèn đọc lần cuối tiết học, học sinh phải thể hiện được cảm xúc của tác
giả khi biết bài văn bài thơ đó.
Tôi thấy tổ chức cho học sinh thi đọc theo cặp, theo nhóm, mỗi nhóm cử
một bạn lên thi đọc.
Đối với bài: có người dẫn truyện các nhân vật trong chuyện cho học sinh đóng
vai và đọc theo lời nhân vật và người dẫn truyện. Gọi học sinh lên đọc, các em ở
dưới là giám khảo nghe, chấm, nhận xét xem bạn nào, nhóm nào, đọc hay. Giáo viên
cùng cả lớp động viên khuyến khích học sinh đọc tốt để các em đọc tốt hơn.
Đối với thời gian một tiết tập đọc chỉ trong vòng 35- 40 phút mà đối
tượng học sinh gồm: Hoàn thành Tốt – Hoàn thành – Chưa hoàn thành, ngoài
chức năng chủ yếu là rèn đọc - luyện đọc là chính ở trong cả quá trình tiết học.
Học sinh phải được luyện đọc nhiều lần. Học sinh nào cũng phải được đọc trong
giờ học ít nhất một lần. Trong giờ học tôi tuân theo nguyên tắc học sinh là chủ
thể của giờ học. Muốn vậy, tôi đã nắm chắc từng đối tượng học sinh. Tôi đã chú
ý rèn đọc nhiều đối với học sinh đọc yếu. Rèn từ thấp đến cao, từ phát âm đúng,
đọc đúng, ngắt nghỉ đúng câu dài, tiến tới rèn đọc diễn cảm .
Ngay từ ngày đầu, tháng đầu của năm học rèn dứt điểm cho những học
sinh phát âm sai, rèn học sinh đọc chưa đúng ngắt nghỉ. Tôi cho học sinh đọc từ
1,2 câu rồi tăng dần 3,4 câu tới 1 đoạn, 2 đoạn và cả bài. Mỗi tuần ở buổi chiều
thứ hai và thứ ba tôi dành 2 tiết để rèn đọc. Rèn em nào dứt điểm em đó, rèn từ
10


nào dứt điểm từ đó. Sau khi các em đọc khá dần tôi duy trì mỗi tuần 1 tiết vào

buổi chiều, để rèn đọc đúng, đọc hay. Rèn đọc cho học sinh phải kiên trì, rèn
thường xuyên thì kết quả đọc sẽ nâng lên rõ rệt. Rèn học sinh đọc đúng, đọc hay
cho học sinh phải đạt được các yêu cầu cụ thể đề ra:
Đọc phát âm đúng, phát âm không lẫn lộn.
Đọc ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấy phẩy giữa các cụm từ ở những câu dài.
Đọc to rõ ràng, lưu loát.
Đọc ngắt nhịp đúng các nhịp thơ.
Biết đọc nhấn giọng, thay đổi sắc thái giọng đọc phù hợp với văn cảnh và
lời nhân vật.
2.3.6. Luyện đọc nhanh:
Đọc nhanh là đọc không ê a, ngắc ngứ, không vừa đọc vừa đánh vần. Đọc
nhanh thực sự có ích khi nó không tách rời việc hiểu rõ điều được đọc. Khi đọc
phải xác định được tốc độ đọc nhanh nhưng để cho người nghe hiểu kịp được.
Biện pháp luyện đọc nhanh: Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ
đọc bằng cách đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị đọc nhanh
là cụm từ, câu, đoạn, bài. Ngoài ra còn biện pháp đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm
có sự kiểm tra của giáo viên, của bạn bè để điều chỉnh tốc độ đọc. Giáo viên nêu
yêu cầu tốc độ đọc cho phù hợp với từng thời điểm trong năm học phù hợp với
chuẩn kiến thức kĩ năng của Bộ giáo dục và đào tạo. Giáo viên đo tốc độ đọc
bằng cách chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự định sẽ đọc trong bao nhiêu
phút. Ví dụ như đến cuối học kì I thì phải đọc với tốc độ khoảng 80 - 90 tiếng
trên một phút. Nhưng với những bài có nhiều từ khó giáo viên có thể điều chỉnh
tốc độ để nhiều học sinh trong lớp đọc đạt yêu cầu.
2.3.7. Tổ chức dạy đọc thầm:
Đọc thầm là yêu cầu cao, đọc thầm với tốc độ nhanh và hiệu quả hơn
(nắm bắt đầy đủ thông tin cảm thụ tốt văn bản nghệ thuật).
Chuẩn bị cho việc đọc thầm: Về tư thế ngồi đọc như tư thế ngồi đọc tiếng.
Quá trình đọc thầm: Kỹ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài
vào trong, từ đọc to đến đọc nhỏ, đến đọc mấp máy môi (không thành tiếng),
đến đọc hoàn toàn bằng mắt, không mấp máy môi (đọc thầm).

Giáo viên cần kiểm soát quá trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định
thời gian đọc thầm cho từng đoạn và bài. Học sinh đọc xong báo cáo cho giáo
viên biết, từ đó giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc thầm.
Hướng dẫn học sinh đọc thầm tôi giao nhiệm vụ cụ thể để định hướng rõ
yêu cầu đọc thầm cho học sinh (đọc câu nào, đoạn nào; đọc để trả lời câu hỏi
hay để ghi nhớ, hoặc học thuộc lòng).
Giới hạn thời gian để tăng dần tốc độ đọc thầm cho học sinh. Cách thực
hiện biện pháp này là từng bước rút ngắn thời gian đọc của học sinh và tăng dần
độ khó của nhiệm vụ. Thông thường tôi sử dụng đọc thầm cho học sinh tìm bài
văn có mấy đoạn, hoặc đọc thầm để suy nghĩ trả lời những câu hỏi trong sách
giáo khoa. Khi đọc thầm giáo viên phải giao nhiệm vụ cụ thể, nhằm định hướng
việc đọc - hiểu.
11


+ Ví dụ: Trong bài “Một chuyên gia máy xúc”
- Học sinh đọc thầm đoạn một trả lời câu hỏi:
Hỏi: Anh Thuỷ gặp anh A-lếch - xây ở đâu?
Học sinh trả lời: “Hai người gặp nhau ở công trường xây dựng”.
Hỏi: Dáng vẻ của A- lếch- xây có gì đặc biệt khiến anh Thủy chú ý?
- Gọi học sinh trả lời, bạn nhận xét bổ xung, giáo viên chốt lại cuối cùng
- Đọc kết hợp với tìm hiểu nội dung nghệ thuật của văn bản trau dồi kỹ năng
đọc hiểu, nắm bắt thông tin bước đầu qua đọc, các em cảm thụ được cái hay cái đẹp
của bài văn, bài thơ để tạo điều kiện cho các em đọc diễn cảm cả bài.
- Ngoài việc rèn đọc đúng (phải luyện đọc) cần giúp học sinh hiểu nghĩa
của từ ngữ thông qua đọc và trả lời những câu hỏi thông qua từ ngữ để học sinh
hiểu được nội dung bài đọc. Tôi có thể giao nhiệm vụ bài tập cụ thể ở từng đoạn
cho học sinh trả lời nhận xét, trao đổi báo cáo kết quả để nhận xét, Khi tổ chức
lớp học tôi cho các em hoạt động càng nhiều càng tốt.
- Luôn luôn cố gắng phối hợp đàm thoại cô- trò với đàm thoại trò- trò.

Ngoài hình thức cả lớp cùng tìm hiểu dưới sự hướng dẫn của giáo viên tôi còn
chọn thêm những hình thức khác như:
+ Chia lớp thành các nhóm để học sinh cùng nhau trao đổi câu hỏi. Sau
đó, đại diện các nhóm trả lời câu hỏi trước lớp. Giáo viên điều khiển
lớp đối thoại, nêu nhận xét thảo luận tổng kết.
+ Chỉ định 1 đến 2 em điều khiển lớp trao đổi về bài đọc dựa theo các câu
hỏi trong sách giáo khoa. Học sinh điều khiển lớp có thể bổ sung câu hỏi như: “
Bạn cho mình biết ….”
Giáo viên chỉ nói những điều cần thiết để điều chỉnh, khắc sâu, gây ấn tượng
về những gì học sinh trao đổi, thu lượm được. Giáo viên là người chốt lại cuối cùng
hoặc nhất trí trả lời của các em. Trong khi học sinh trả lời, tôi chú ý cách diễn đạt
cách dùng từ ngữ, của các em để các em vận dụng ở các môn học khác.
2.3.8. Đọc hiểu:
Kết quả của đọc thầm là học sinh phải hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu,
đoạn, bài. Tức là toàn bộ những gì được đọc. Với yêu cầu này giáo viên phải
chuẩn bị cho mình về vốn từ Tiếng Việt để chọn từ giải thích cho phù hợp, đồng
thời phải chuẩn bị để sẵn sàng giải đáp cho học sinh về bất cứ từ nào trong bài
mà các em yêu cầu bằng cách tham khảo từ điển Tiếng Việt. Cần có biện pháp
giúp học sinh phát hiện ra những từ có tín hiệu nghệ thuật. Đó là những từ giàu
màu sắc biểu cảm như các từ láy, các từ đa nghĩa, những từ mang nghĩa bóng. Ví
dụ Tính đa nghĩa của từ “sáng” là chỗ làm nên cái hay của hai câu thơ:
Cửa vuông mở rộng khung trời
Giữa đêm mà vẫn thấy đời sáng sao!
Cần giúp học sinh phát hiện ra câu quan trọng của bài, những câu nêu ý
chung của bài. Cần tìm được mối liên hệ bên trong của bài để học sinh thấy
được ý nghĩa hàm ẩn của nó chứ không phải chỉ có ý nghĩa biểu hiện.
Để đạt kết quả cao, ngoài việc thực hiện các biện pháp trên, tôi còn thực
hiện thêm một số biện pháp dưới đây:
12



* Ở lớp học :
- Trên lớp, trong giờ tập đọc, tôi thường giáo dục cho học sinh nói – đọc
đúng từ ngữ, nói - đọc bài cần ngắt nghĩ đúng ở các dấu câu.
- Giáo dục học sinh khi đọc cần thể hiện giọng đọc phù hợp lời nhân vật và thể
loại văn bản (giọng cao, giọng thấp, giọng trầm, ôn tồn, hồn nhiên, nhấn giọng, …)
- Luyện cho học sinh làm chủ tốc độ, cường độ (nhanh-chậm; cao - thấp)
- Luyện cho học sinh làm chủ ngữ điệu (cao giọng, lên giọng hay hạ giọng).
-Tôi còn truyền thụ kỹ nội dung bài để từ đó học sinh định hướng cách
đọc cho phù hợp với nội dung bài học.
- Nhắc học trao đổi, học tập kinh nghiệm từ bạn bè.
* Kết hợp với gia đình: Ở nhà các thành viên trong gia đình, khi giao tiếp
cần giao tiếp nói bằng tiếng Kinh nhiều và nhắc học sinh nói nhiều. Nhắc nhở
học sinh thường xuyên luyện đọc để nâng cao khả năng đọc của cá nhân.
- Giúp học sinh xây dựng thời gian biểu có khoa học.
- Nhắc học sinh dành thêm thời gian luyện đọc, báo, truyện ở nhà.
- Nhắc học sinh trao đổi học tập kinh nghiệm từ bạn bè, anh chị.
* Đối với bản thân học sinh: Đối với bản thân học sinh, đều quan trọng là
cố gắng, khắc phục mọi khó khăn, năng nỗ luyện tập và thực hiện đầy đủ yêu
cầu của giáo viên.
* Đối với giáo viên :
- Giáo viên là trung tâm để giúp học sinh học tập, diễn đạt có kết quả cao,
nên giáo viên cần đọc đúng, đọc chính xác, đọc rõ ràng để giúp học sinh định
hướng học tập.
- Bằng kinh nghiệm giáo viên truyền thụ nội dung bài chính xác, ngắn
gọn, dễ hiểu, dể nhớ giúp học sinh dễ dàng vận dụng vào khâu luyện đọc diễn
cảm.
- Giáo viên cần xây dựng quy trình dạy học đặc biệt là đọc diễn cảm rõ
rang, cụ thể, chính xác theo qui định mới về phương pháp giáo dục của Bộ Giáo
dục và Đào tạo.

- Thực hiện đúng quy trình dạy học đã xây dựng.
* Tôi đã xây dựng quy trình dạy đọc diễn cảm sau:
Bước 1: Gọi học sinh đọc bài (tùy nội dung bài ngắn hoặc dài mà số
lượng học sinh có thể từ : 2, 3, 4 … em).
- Tổ chức cho học sinh trao đổi nhóm đôi để nhận dạng văn bản, cách đọc hay.
- Giáo viên hướng dẫn điều chỉnh cách đọc hay:
+ Đàm thoại cho học sinh hiểu ý của tác giả: Vì sao phải đọc như thế ?
+ Gọi học sinh đọc để đối chiếu kết luận trên. Có thể đọc phân vai để làm
sống lại nhân vật của tác giả.
Bước 2: Hướng đẫn kĩ cách đọc một đoạn văn:
+ Giáo viên treo bảng phụ có ghi sẵn đoạn văn cần luyện đọc.
+ Giáo viên dung lời nói, lời nói kết hợp ghi bảng, và đồ dùng dạy học để
xác định cách đọc.
+ Giáo viên đọc mẫu.
13


+ Tổ chức cho học sinh luyện đọc theo cặp (2 lượt, thay phiên nhau đọc
trước và sửa chữa cho nhau).
+ Tổ chức thi đọc diễn cảm trước lớp.
+ Gọi đại diện 2 - 4 học sinh đọc bài.
+ Tổ chức cho học sinh nhận xét theo tiêu chí: Đọc đúng, trôi chảy, nhấn
giọng, ngắt nghỉ đúng chỗ, có kết hợp cử chỉ, điệu bộ không?
+ Bình chọn bạn đọc hay.
2.4. Hiệu quả áp dụng.
Qua việc áp dụng các biện pháp trên vào việc dạy học môn Tập đọc, tôi
nhận thấy khả năng đọc của nhiều em tiến bộ hơn, hạn chế rất nhiều về tình
trạng vừa đọc vừa đánh vần và khắc phục được rất nhiều lỗi đọc sai do âm ngữ
địa phương. Nhiều em biết đọc diễn cảm thể hiện nội dung bài đọc.
Học sinh hứng thú trong tiết học tập đọc hơn, kỹ năng đọc của các em tiến

bộ rõ rệt qua các kỳ thi, 100% học sinh đạt từ điểm trung bình trở lên. Qua đó giúp
các em thêm yêu môn Tiếng Việt, yêu thiên nhiên, yêu đất nước, con người. Việc
học tốt phân môn Tập đọc còn giúp các em học tốt các môn học khác.
* Qua thời gian thực hiện bản thân tôi nhận thấy:
+ Kết quả học tập của học sinh nói chung, về đọc; đọc diễn cảm nâng lên rõ rệt.
+ Học sinh học tập tích cực, không học vẹt.
+ Học sinh mạnh dạn tự tin trong học tập.
+ Đa số học sinh thể hiện diễn cảm đúng giọng vui, buồn, giận giữ, trang
nghiêm ... phù hợp ý cơ bản của bài học, phù hợp với các kiểu câu, thể loại, đọc
có cảm xúc, biết nhấn giọng ở từ ngữ biểu cảm, gợi tả, biết phân biệt lời nhân
vật với lời tác giả.
+ Đặc biệt kết quả về phần đọc trong môn tiếng việt của học sinh nâng lên
rõ rệt, cụ thể:

Lớp
5A

Tổng số
học sinh
27

Đọc phát
âm sai
SL
TL%
2
7,4

Đọc ngắt
nghỉ sai

SL
TL%
5
18,5

Đọc đúng
SL
11

TL%
40,7

Đọc diễn cảm
SL
9

TL%
33,3

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Dạy Tập đọc khi mới nghe thì tưởng chừng là đơn giản. Nhưng khi bước
vào giảng dạy thì thật không đơn giản chút nào. Bởi mỗi bài Tập đọc dù thuộc
thể loại văn miêu tả hay kể chuyện dù là kịch hay thơ thì nó đòi hỏi cách đọc,
cách thể hiện, cách thông hiểu riêng. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải tích
cực, sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học để giờ dạy Tập đọc của mình đạt
hiệu quả cao nhất.
Qua thực tế giảng dạy áp dụng một số biện pháp mà tôi nêu trên, bản thân
tôi rút ra bài học sau:
14



3.1.1. Đối với giáo viên:
- Giáo viên phải có giọng đọc thật chuẩn (đối với những giáo viên có
giọng đọc chưa chuẩn trong các tiết dạy phải cố gắng rèn đọc, nói sao cho
chuẩn).
- Thường xuyên quan tâm đến học sinh, nhất là học sinh có hoàn cảnh khó
khăn, khuyết tật…để nắm bắt và phân loại đối tượng học sinh, từ đó có biện pháp
và sắp xếp chỗ ngồi học sinh cho hợp lý và mang lại hiệu quả trong giờ học.
- Hướng dẫn đọc phải cụ thể.
- Sửa sai kịp thời, hướng dẫn sửa sai cụ thể (cách uốn lưỡi, cong lưỡi, bật
hơi…)
- Kết hợp rèn đọc cho học sinh không những trong giờ tập đọc mà trong
tất cả các giờ học khác.
- Giao việc về nhà cho học sinh phải cụ thể (Tìm những từ em hay đọc
sai?, đoạn văn đó em sẽ đọc thế nào? …)
- Phải có sự chuẩn bị bài tốt trước khi lên lớp về giáo án, đồ dùng phục vụ
cho giờ dạy (tranh ảnh, vật thật…). Bảng phụ ghi sẵn câu, đoạn rèn đọc.
- Giáo viên phải khen thưởng kịp thời đối với học sinh có ý thức học tập
tốt, cố gắng vươn lên trong học tập.
3.1.2. Đối với học sinh:
- Chuẩn bị trước bài ở nhà. Đọc bài, trả lời những câu hỏi trong sách giáo
khoa (nếu có thể), chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên.
- Chuẩn bị đồ dùng học tập (khi giáo viên có yêu cầu).
- Có ý thức tốt trong giờ học.
c) Hướng phát triển:
Trong thời gian tới tôi sẽ khắc phục những mặt còn hạn chế để tiết học
thật sự đạt hiệu quả. Đồng thời trong những buổi sinh hoạt chuyên đề của khối
về phân môn Tập đọc, tôi sẽ chia xẻ cùng các bạn trong trong khối để các bạn
đồng nghiệp có thể tham khảo, và để kinh nghiệm nhỏ này của tôi được các bạn

đồng nghiệp có thể sử dụng trong các tiết dạy của mình.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Đối với Phòng giáo dục:
- Nên mở nhiều buổi chuyên đề, hội thảo về phân môn tập Tập đọc.
- Nên nhân rộng những tiết hội giảng (môn Tập đọc) đạt kết quả cao để
giáo viên khác học tập.
3.2.2. Đối với nhà trường:
- Nên mở nhiều buổi chuyên đề, hội thảo đối với phân môn Tập đọc,
- Nên nhân rộng những tiết hội giảng (môn Tập đọc) đạt kết quả cao để
giáo viên khác học tập.
- Nên trang bị thêm sách tham khảo.
- Nên tổ chức các hoạt động nhằm rèn kỹ năng của phân môn Tập đọc
như thi kể chuyện, đọc thơ,…
- Quan tâm bồi dưỡng thường xuyên hơn nữa những giáo viên năng lực
còn hạn chế nhất là khâu đọc của giáo viên.
15


- Hội thảo trao đổi những kinh nghiệm cho đồng nghiệp học tập ở cấp
trường, cấp cụm, cấp huyện.
Trên đây là một số kinh nghiệm và biện pháp giúp học sinh lớp 5A trường
Tiểu học Luận Khê 2 về rèn kĩ năng đọc. Vì thời gian có hạn nên sáng kiến này
sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót.
Rất mong được sự đóng góp của bạn bè đồng nghiệp, Ban giám hiệu và
của các cấp quản lý để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn, góp phần nâng
cao chất lượng học tập của học sinh và nâng cao chất lượng giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
Thanh Hóa, ngày 24 tháng 5 năm 2018
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Cầm Bá Đại

16


MỤC LỤC
Mục lục
1. 1. MỞ ĐẦU

Trang
1

1.1. Lí do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2


2. 2. NỘI DUNG

2

2.1.Cơ sở lí luận

2

2.2.Thực trạng

3

2.3.Các giải pháp để giải quyết vấn đề

5

2.4. Hiệu quả áp dụng

14

3. 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

14

3.1. Kết luận

14

3.2. Kiến nghị


15

17


TÀI LIỆU THAM KHÁO
1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học I. Nhà xuất bản, Đại học
Sư phạm Hà Nội năm 2009 – Lê Phương Nga (Chủ biên) Lê A, Đặng Kim Nga,
Đỗ Xuân Thảo.
2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học II. Nhà xuất bản, Đại học
Sư phạm Hà Nội năm 2009 – Lê Phương Nga (Chủ biên) Lê A, Đặng Kim Nga,
Đỗ Xuân Thảo.
3. Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở tiểu học Nhà xuất bản, Đại học
Sư phạm Hà Nội năm 2011 – Lê Phương Nga.
4. Rèn luyện kĩ năng sử dụng Tiếng Việt; Bộ Giáo dục và đào tạo 2007.
Hoàng Thị Mai (Chủ biên).
5. Những bài văn lớp 5, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội 2005.
Phạm Minh Diệu (Chủ biên).
6. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt 5 Tập 1- Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội
2012; Phạm Thị Thu Hà.
7. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt 5 Tập 2- Nhà xuất bản Hà Nội, Hà Nội
2012; Phạm Thị Thu Hà.
8. Sách giáo viên Tiếng Việt 5 Tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội
2006. Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên), Hoàng Hòa Bình, Trần Mạnh Hưởng,
Trần Thị Hiền Lương, Nguyễn Trí.
9. Sách giáo viên Tiếng Việt 5 Tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội
2006. Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên), Hoàng Hòa Bình, Nguyễn Thị Hạnh.
Nguyễn Thị Ly Kha, Lê Hữu Tỉnh.
10. Tiếng Việt 5 Tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 2006. Nguyễn

Minh Thuyết (Chủ biên), Nguyễn Thị Hạnh. Nguyễn Thị Ly Kha, Lê Hữu Tỉnh.
11. Tiếng Việt 5 Tập 2, Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội 2006. Nguyễn
Minh Thuyết (Chủ biên), Nguyễn Thị Hạnh. Nguyễn Thị Ly Kha, Lê Hữu Tỉnh.
12. Tham khảo sáng kiên kinh nghiệm rèn kĩ năng đọc cho học sinh thông
qua tiết tập đọc của tác giả Trương Thị Nga trường TH Lục Ba, Đại Từ. (Sáng
kiến kinh nghiệm môn tập đọc lớp 5 cực hót giaoan.violet.vn › Tiểu học › Lớp 5)

18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Cầm Bá Đại
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Luận Khê 2.

TT
1.

2.

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Một số biện pháp khi dạy các

yếu tố hình học cho học sinh
Phòng giáo dục
lớp 2 ở trường Tiểu học Luận
Khê 2
Một số kinh nghiệm dạy học
bài “Diện tích hình tam giác”
Phòng giáo dục
cho học sinh lớp 5 ở trường
Tiểu học Luận Khê 2

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

B

2012-2013

C

2014-2015

----------------------------------------------------


19



×