Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.13 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
PHẦN

TRANG

A. Mở đầu

2

I. Lí do chọn đề tài

2

II. Mục đích nghiên cứu

2

III. Đối tượng nghiên cứu

3

IV. Phương pháp nghiên cứu

3

B. Nội dung

4

I. Cơ sở lí luận


4

II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN

4

1. Về giáo viên

4

2. Về học sinh

4

III. Các biện pháp đã thực hiện

5

Biện pháp 1

5

Biện pháp 2

10

Biện pháp 3

11


IV. Hiệu quả của SKKN

15

C. Kết luận và kiến nghị

18

I. Kết luận

18

II. Kiến nghị

19

Tài liệu tham khảo

20

1


A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
Tập làm văn là một phân môn quan trọng của môn Tiếng Việt. Nó giúp học
sinh có năng lực sử dụng tiếng Việt để học tập, giao tiếp. Trau dồi những ứng xử
có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm
lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
Để làm được một bài Tập làm văn, học sinh cần phải huy động các kiến thức

về Tập đọc, Luyện từ và câu, các hiểu biết về môi trường xung quanh cuộc
sống ...
Nói chung phân môn Tập làm văn đòi hỏi học sinh phải vận dụng những
kiến thức tổng hợp từ các phân môn khác của môn Tiếng Việt. Bởi vậy, Tập làm
văn mang tính thực hành toàn diện, tổng hợp.
Ngoài ra phân môn Tập làm văn còn mang tính sáng tạo vì một bài Tập làm văn
thể hiện sự suy nghĩ, tư duy của cá nhân, là tác phẩm không trùng lặp của mỗi
học sinh.
Các em học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về tiếng Việt còn rất
sơ sài, chưa định rõ được giao tiếp. Cụ thể như: các em viết câu rời rạc, chưa
liên kết, thiếu logic hoặc các câu đã có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh, các từ ngữ
được dùng về nghĩa chưa rõ ràng, việc trình bày diễn đạt ý của các em có mức
độ rất sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả. Mặt khác tính sáng tạo thực hành
trong văn bản chưa cao, thể hiện ở bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng hình
ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy Tập làm văn là phân môn khó trong các
phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với mục
tiêu cụ thể là: Hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản
(nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau. Trong quá trình tham gia vào các hoạt
động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói.
Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó,
giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao.
Chính vì lí do trên, khi dạy bài Tập làm văn ở lớp 2, giáo viên hay gặp khó
khăn là học sinh thụ động, ít phát biểu, có chăng cũng chỉ là những học sinh có
năng lực là hoạt động, các em chỉ trả lời câu hỏi mà không có sự liên kết thành
đoạn, diễn đạt lủng củng, ý tưởng nghèo nàn,... Nói đã khó, viết càng khó hơn.
Điều đó đã làm cho các em chán nản, lo sợ khi học phân môn Tập làm văn. Vì
thế yêu cầu đặt ra của tôi là làm thế nào để các em hứng thú, tích cực khi học
phân môn Tập làm văn. Đó là câu hỏi đặt ra cho không ít giáo viên giảng dạy
lớp 2. Câu hỏi đó luôn thôi thúc tôi nghiên cứu, tìm các biện pháp để nâng cao

hiệu quả khi dạy phân môn Tập làm văn. Qua 2 năm áp dụng, tôi xin mạnh dạn
trình bày một số biện pháp "Giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm
văn".
II. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu việc dạy, học phân môn Tập làm văn nhằm phát hiện những
khó khăn, hạn chế còn tồn tại cả về nội dung và phương pháp trong dạy học
2


phân môn này. Từ đó có những đóng góp và bổ sung, điều chỉnh cách hướng
dẫn học sinh và đưa ra những biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn
Tập làm văn.
III. Đối tượng nghiên cứu:
- Những kinh nghiệm, giải pháp theo định hướng đổi mới
nhằm giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn. Học sinh biết thực hành
về các nghi thức lời nói và biết viết được đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu theo đúng
yêu cầu của đề bài, đủ ý tiến tới viết được đoạn văn hay.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
1. Nghiên cứu cơ sở lí luận:
Đọc và nghiên cứu các tài liệu môn Tiếng Việt có liên quan đến dạy phân
môn Tập làm văn để rút ra những nhận xét, đánh giá và đưa ra quan điểm của
bản thân hoặc quan điểm mà bản thân tán thành. Đó là dạy cho học sinh biết
cách phân tích và ứng dụng khi làm các bài tập khác nhau thuộc các dạng bài
khác nhau trong quá trình học tập phân môn Tập làm văn.
2. Nghiên cứu thực tiễn:
- Thông qua dự giờ, quan sát các giờ học của học sinh, trao đổi ý kiến với
giáo viên và học sinh.
- Khảo sát chất lượng học sinh.
- Kiểm nghiệm hiệu quả và tính khả thi của biện pháp bản thân áp dụng.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.


3


B. NỘI DUNG

I. Cơ sở lý luận:
Ngôn ngữ dưới dạng viết giữ vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển
của xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn học sinh học tốt phân môn Tập làm văn là hết
sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn
Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
Như chúng ta đã biết, Tập làm văn có tầm quan trọng đặc biệt ở bậc tiểu học.
Nếu học sinh biết thực hành tốt về các nghi thức lời nói và biết viết tốt bài văn, đủ số
lượng câu, đủ ý, diễn đạt rõ ràng, hấp dẫn người đọc thì học sinh đó có điều kiện
học tốt hơn môn Tiếng Việt và nhờ vậy mà kết quả học tập sẽ đạt cao hơn. Vì vậy
cần xây dựng cho các em nền móng vững chắc để tạo hứng thú cho học sinh và
giúp các em học tốt phân môn Tập làm văn các lớp sau này. Hơn thế nữa học tốt
phân môn Tập làm văn sẽ học tốt hơn môn Tiếng Việt. Đó cũng chính là rèn cho
các em sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ,
các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nên nhân cách con người. Đồng thời học tốt
phân môn Tập làm văn chính là cơ sở, là nền tảng để học tốt các môn học khác
nhằm thực hiện đúng mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra.
II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng SKKN:
1. Về giáo viên:
Qua tìm hiểu tôi thấy đa số giáo viên đã nắm bắt được tầm quan trọng của
việc dạy cho học sinh học văn và có sự đầu tư nghiên cứu đổi mới phương pháp
giảng dạy bước đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn
khi dạy Tập làm văn. Quỹ thời gian dành cho phân môn còn hạn chế. Qua thực
tế tôi thấy việc rèn cho học sinh thực hiện đúng về nghi thức lời nói cũng như
đoạn văn tốt chưa được giáo viên chú tâm nhiều. Một số giáo viên chưa nắm rõ ý

đồ, nội dung các bài tập đưa ra, phương pháp dạy học còn đơn điệu, rập khuôn
máy móc theo sách giáo viên, hầu như ít sáng tạo, chưa linh hoạt, chưa cuốn hút
được học sinh. Giáo viên chưa quan tâm đến sửa câu, cách dùng từ đặt câu.
Từ đó dẫn đến học sinh tiếp thu bài một cách thụ động, ít sáng tạo.
2. Về học sinh:
Trong nhiều năm qua tôi luôn được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp
2. Trong quá trình dạy phân môn Tập làm văn, tôi nhận thấy đa số học sinh có
hứng thú trong giờ học, song chủ yếu tập trung vào các bài tập làm miệng với
các yêu cầu nói lời cảm ơn, xin lỗi, đáp lời khẳng định, phủ định... Học sinh
thích thú nói về các con vật, người, quang cảnh và những gì diễn ra xung quanh.
Do vốn từ của các em chưa nhiều, kĩ năng diễn đạt bằng ngôn ngữ nói và viết
của học sinh còn hạn chế nên đôi khi các em chưa nhận ra được sự khác biệt
giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
- Do đặc điểm tình hình địa phương là vùng nông thôn nên các em học sinh
có vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong
giao tiếp. Vì vậy khi các em nói và viết câu văn chưa được rõ ràng, mạch lạc hoặc
câu có thể đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa còn chưa
rõ ràng. Việc trình bày diễn đạt ý còn ở mức độ rất sơ lược. Bên cạnh đó, nhiều
4


học sinh khi làm bài còn nói hoặc viết bừa, không đúng yêu cầu, nói hoặc viết
lan man, sai ý, trình bày ý lộn xộn, thiếu tự nhiên,... Hơn thế nữa, một số em
thiếu tự tin trong giờ Tập làm văn dễ dẫn đến các em chán nản, thiếu quyết tâm
trong học tập.
Để có cơ sở so sánh kết quả học tập của học sinh qua từng thời điểm, tôi đã
tiến hành khảo sát chất lượng phân môn Tập làm văn lớp 2, vào tuần 8 trong hai
năm học (2015 - 2016; 2016 - 2017) với cùng 1 đề bài sau;
Đề bài:
1. Viết lời mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị đối với bạn:

a) Bạn đến chơi nhà em. Em rót nước mời bạn uống.
b) Em thích một bài thơ mà bạn đã thuộc. Em nhờ bạn chép lại.
c) Bạn ngồi bên cạnh nói chuyện trong giờ học. Em yêu cầu (đề nghị)
bạn giữ trật tự để nghe cô giáo giảng bài.
2. Em hãy viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cô giáo lớp 1 của em.
Tôi tiến hành chấm và nhận xét bài làm của học sinh trong lớp và tổng
hợp kết quả như sau.
Kết quả khảo sát chất lượng phân môn Tập làm văn
Năm học 2015 - 2016
Tổng số
Hoàn thành
HS
Số lượng
Tỉ lệ
25
18
72%

Chưa hoàn thành
Số lượng
Tỉ lệ
7
28%

Ghi
chú

Kết quả khảo sát chất lượng phân môn Tập làm văn
Năm học 2016 - 2017
Tổng số

Hoàn thành
HS
Số lượng
Tỉ lệ
33
25
75,8%

Chưa hoàn thành
Số lượng
Tỉ lệ
8
24,2%

Ghi
chú

Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết diễn đạt câu văn có hình ảnh,
vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, do vậy chất lượng bài làm chưa
cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng.
Từ thực tế giảng dạy, để khắc phục tình trạng trên tôi xin trình bày một
số biện pháp cụ thể nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học
Tập làm văn.
III. Các biện pháp đã thực hiện:
Biện pháp1: Hướng dẫn học sinh thực hành tốt về các nghi thức lời nói.
Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàng ngày.
Tuy nhiên, có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ít nói.
Bởi vậy giáo viên phải dùng những biện pháp tích cực để các em nói ra
những điều mà các em suy nghĩ trong đầu. Có thể tổ chức trò chơi sắm vai
5



với những tình huống cụ thể để mỗi học sinh được tự do bộc lộ suy nghĩ,
cách diễn đạt của mình. Ngoài ra, giáo viên nên lưu ý thái độ của học sinh
khi nói với từng đối tượng là lớn hơn mình, bằng mình hay nhỏ hơn mình thì
có những đại từ xưng hô khác nhau và những cử chỉ thể hiện cũng khác, tùy
tình huống vui hay buồn.
Khi nói và viết lưu ý học sinh nên thêm những từ chỉ tình cảm để câu
văn thể hiện sự lễ phép, lịch sự như: nhé, ạ...
Mặt khác giáo viên không chỉ dạy cho học sinh thực hành giao tiếp
trong tiết học mà còn phải giáo dục các em mọi lúc, mọi nơi trong cuộc sống
hàng ngày với một thời gian dài.
Điều quan trọng hơn nữa là giáo viên cần cho các em nắm rõ tình
huống vì khi viết các em hay lầm lẫn giữa lời đáp và lời nói.
Ví dụ: Em nói thế nào khi bạn xin lỗi em vì bạn đã làm bẩn áo em.
Các em có thể bị lầm và nói là: - Xin lỗi bạn vì tớ lỡ làm bẩn áo bạn. Nguyên
nhân là do các em chưa đọc kĩ đề, sự suy xét của các em còn non nớt. Bởi
vậy, giáo viên cần tập cho các em đọc kĩ đề bài. Đặt mình vào tình huống
của đề bài, cùng sắm vai theo tình huống đó. Có vậy các em mới không bị
lầm lẫn. Và em có thể đáp lại lời xin lỗi của bạn là: "Không sao đâu, tớ sẽ
nhờ mẹ tớ giặt là sạch ngay thôi mà."
Với dạng bài nói và đáp lời khẳng định, phủ định có lẽ tương đối dễ
với các em, các em chỉ cần nói có hoặc không. Tuy nhiên, giáo viên cần giải
thích cho các em thuật ngữ khẳng định, phủ định. Vì nếu không giải thích,
các em chỉ làm theo mẫu trong sách giáo khoa thì không thể phát huy được
tính tích cực, chủ động của học sinh. Còn nếu ta giải thích thì khi vừa gặp
dạng bài tập này các em sẽ tự giác hiểu và làm bài tốt. Bởi vậy giáo viên cần
cho các em thực hành sắm vai và cần lưu ý tình cảm thể hiện qua thái độ.
Ví dụ: Khi đáp lời khẳng định thì thể hiện sự vui mừng, đáp lời phủ
định thể hiện sự tiếc nuối. Có thế thì người nghe mới hiểu được tình cảm của

mình.
Khi hướng dẫn học sinh thực hành về các nghi thức lời nói phải kết
hợp cả cử chỉ, thái độ, tình cảm. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi
đã phân ra từng dạng bài theo từng trường hợp cụ thể. Từ đó tôi hướng dẫn
cho các em thực hành về các nghi thức lời nói kết hợp cả cử chỉ, thái độ,
tình cảm.
Trường hợp 1: Dạng bài chào hỏi hoặc tự giới thiệu; Đáp lại lời chào:
Tôi hướng dẫn các em khi chào hỏi hoặc tự giới thiệu lời nói, giọng nói, vẻ
mặt, ánh mắt, nụ cười,...phải tùy từng đối tượng mình gặp gỡ và những điều
này cũng chứa đựng nội dung tiếp xúc. Cách chào hỏi, cách xưng hô phải
phù hợp với từng người, từng hoàn cảnh cụ thể. Lời chào hỏi cần tự nhiên,
lịch sự, cử chỉ thân mật. Khi đáp lại lời chào, Tôi hướng cho học sinh cần nói
thế nào để tỏ thái độ lịch sự, thân mật. Khi đáp lại lời tự giới thiệu cần nói thế
nào để tỏ thái độ vui vẻ, phấn khởi, đón chào.
6


Trường hợp 2: Dạng bài nói lời cảm ơn hay xin lỗi; đáp lại lời cảm
ơn, xin lỗi. Tôi hướng dẫn các em khi nói lời cảm ơn hay xin lỗi lời nói phải
chân thành, lịch sự, lễ phép và đi liền với cách biểu hiện tình cảm, thái độ
của mình khiến mọi người thông cảm, bỏ qua cho lỗi của em. Đối với dạng
bài đáp lời cảm ơn hay đáp lời xin lỗi tôi đã gợi ý để các em biết được:
+ Đáp lời cảm ơn các em cần chú ý ngữ điệu, cách xưng hô:
- Lời người lớn tuổi: chân tình
- Lời bạn bè: lễ phép, khiêm tốn.
- Với bạn bè thân quen lời đáp cần thể hiện thái độ gần gũi, quan tâm.
- Với người lạ (khách) lời đáp cần thể hiện thái độ lịch sự, lễ phép.
+ Đáp lời xin lỗi:
- Với những sự việc nhỏ, không đáng kể thì lời đáp cần thể hiện thái độ
nhẹ nhàng, vui vẻ, sẵn sàng bỏ qua.

- Với những việc đáng buồn hay đáng tiếc xảy ra, lời đáp cần thể hiện thái
độ lịch sự, nhẹ nhàng nhưng cũng có thể kèm theo ý nhắc nhở để lần sau họ
không mắc lỗi như vậy nữa.
Trường hợp 3: Dạng bài Nói lời mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị; Nói lời
đồng ý hay lời từ chối:
Khi dạy bài "Nói lời mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị" tôi cho học sinh thực
hành lời nói kết hợp với cử chỉ, nét mặt, giọng nói. Vì vậy khi nói các em
cần có cử chỉ, giọng điệu cho phù hợp. Nói lời đồng ý hay lời từ chối tôi gợi ý
cho các em khi nói lời nói phải phù hợp với người đưa ra đề nghị và phải phù
hợp với hoàn cảnh cụ thể. Nói lời từ chối cần nhẹ nhàng, khéo léo, không làm
mất lòng người khác. Nói lời đồng ý cần thể hiện sự sẵn sàng vui vẻ.
Trường hợp 4: Dạng bài nói, đáp lời chúc mừng (chia vui), chia buồn,
an ủi:
- Khi nói lời chia vui hướng dẫn các em cần chú ý: người mình chia
vui là ai? Chia vui về chuyện gì? Tình cảm, thái độ, cử chỉ khi nói phải như
thế nào cho phù hợp.
Hướng dẫn học sinh cần nói với thái độ chân thành, tự nhiên, vui vẻ
nhằm thể hiện sự chia vui hay khâm phục, tự hào, phấn khởi.
- Đáp lời chúc mừng (chia vui) cần nói thế nào để bày tỏ niềm vui của
mình và sự biết ơn đối với bạn.
Ví dụ: Mình rất vui và cảm ơn bạn nhé!
- Khi nói lời chia buồn, an ủi cần bày tỏ tình thương yêu, sự quan tâm,
thông cảm với nhau.
Chú ý giọng hỏi thăm phải nhẹ nhàng, tình cảm. Khi nói lời an ủi với
người trên, em cần tỏ thái độ ân cần nhưng lễ phép (thể hiện qua giọng nói
và cách xưng hô)
Lời an ủi thể hiện sự động viên và lời đáp lại phải thể hiện sự chân thành,
làm cho con người thêm thông cảm, gần gũi nhau hơn.
7



Chú ý: Khi nói hay trả lời, cần nhìn vào người hỏi chuyện, nói to đủ nghe
với thái độ tự nhiên, nét mặt tươi vui.
Ví dụ: Khi cây hoa do ông (bà) trồng bị chết. Em có thể nói lời an ủi ông
(bà) như sau:
- Bà ơi! Bà đừng buồn. Cháu sẽ cùng bà trồng lại cây khác, bà nhé!
- Bà đừng buồn nữa, cháu sẽ nhờ bố tìm cây khác trồng lại để bà vui.
Trường hợp 5: Dạng bài nói lời khen ngợi; Đáp lời khen ngợi:
- Khi nói lời khen ngợi, tôi nhấn mạnh để các em nhớ trong câu
thường dùng các từ rất, quá, thật, làm sao,và khi viết thường dùng dấu chấm
than ở cuối câu.
- Khi đáp lại lời khen ngợi cần thể hiện sự biết ơn, khiêm tốn và tùy
từng trường hợp có thể thêm lời hứa cố gắng hơn nữa.
Ví dụ: Em mặc áo đẹp được các bạn khen:
- Bạn mặc cái áo này đẹp quá!
Em đáp lại:
- Thế à? Mình cảm ơn các bạn.
Để tăng cường rèn luyện các kiến thức đã học và giúp các em tham gia
tích cực hơn trong giờ Tập làm văn, từ đó các em sẽ vận dụng trong giao
tiếp hàng ngày, tôi đã áp dụng một số trò chơi sắm vai vào trong từng thời
điểm thích hợp. Cụ thể như sau:
a. Trò chơi: Phỏng vấn
Trò chơi này có thể áp dụng vào bài tập 1, tuần 1: Tự giới thiệu: Câu và
bài.
* Mục đích:
- Luyện tập cách giới thiệu về mình và về người khác với thầy cô, bạn
bè hoặc người xung quanh.
- Phân công: 1 học sinh đóng vai phóng viên truyền hình, còn 1 học sinh
đóng vai chị phụ trách, 1 học sinh đóng vai đội viên Sao Nhi Đồng... sau đó đổi vai.
- Học sinh có thể chơi trò chơi này theo nhóm hoặc cả lớp.

- Để tất cả các em nắm được cách chơi, trước khi giao việc cho từng
em, giáo viên cần tổ chức cho một hoặc hai cặp học sinh làm mẫu trước lớp.
* Cách chơi: - Một học sinh giới thiệu về mình (tên, quê quán, học
lớp, trường, thích môn học nào, thích làm việc gì?...)
- Sau khi nghe bạn giới thiệu xong về mình, phóng viên phải giới thiệu lại
từng bạn với cả lớp (hoặc nhóm). Nội dung phải chính xác; cách giới thiệu càng
rõ ràng, mạch lạc, hấp dẫn càng tốt. Cho nhiều học sinh tập làm phóng viên.
- Cuối cùng cho lớp bình chọn phóng viên giỏi nhất.
b. Trò chơi: Chọn lời nói đúng
Trò chơi này có thể áp dụng vào các dạng bài: Cảm ơn, xin lỗi - Tuần 4;
Đáp lời cảm ơn - Tuần 21; Đáp lời xin lỗi - Tuần 22; ...
* Mục đích:
Luyện tập cách nói lịch sự khi cần cảm ơn người khác và đáp lại lời
cảm ơn của người khác, khi họ cảm ơn với mình.
8


Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và sinh hoạt hằng ngày; tập cảm
ơn và xin lỗi bằng những lời khác nhau.
* Chuẩn bị:
- 4 tranh minh họa (4 băng giấy ghi 4 tình huống khác nhau có xuất
hiện lời cảm ơn và lời đáp lại lời cảm ơn)
+ Một bạn trai tới xách giúp một vật nặng cho một bạn gái.
+ Một bạn bị vấp ngã được một bạn khác đỡ dậy.
+ Trong giờ vẽ, bạn nữ cho bạn nam mượn bút chì.
+ Trên đường đi học về, bạn nam đưa cho bạn nữ chai nước uống.
- Chia nhóm: 8 HS/nhóm.
- 1 túi sách to dựng một số đồ vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước
uống.
- Cử 2 HS giúp việc cho giáo viên.

* Cách tiến hành: - Mỗi nhóm cử 2 học sinh tham gia trò chơi ở tình
huống 1 lên trước bảng lớp để học sinh khác theo dõi.
- Học sinh đại diện của từng nhóm lần lượt lên chơi trò chơi đóng vai
ở mỗi tình huống đã cho trong khoảng 1 phút.
Ví dụ: 2 học sinh đại diện cho 1 nhóm tham gia chơi. Một em đóng vai
bạn gái đang xách một chiếc túi to, bước đi chậm chạp và nặng nhọc. Một
học sinh đóng vai bạn trai đến bên cạnh bạn gái và nói: "Bạn để mình xách
đỡ cho nào!" rồi đỡ lấy chiếc túi từ tay bạn gái. Bạn gái nói: "Cảm ơn bạn,
bạn tốt quá!" Bạn trai cười tươi và nói: "Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà!"
- Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, Giáo
viên yêu cầu 2 học sinh giúp việc đọc to lời của hai vai trong từng nhóm để
cả lớp cùng nghe lại và bình chọn lời nói đúng.
- Học sinh tiếp tục chơi ở các tình huống khác theo gợi ý nói trên.
Chú ý: 2 học sinh giúp việc giáo viên ghi lại câu nói của hai bạn tham
gia chơi ở từng tình huống, mỗi học sinh giúp việc cho giáo viên chỉ chuyên
ghi lại lời nói của một vai (vai "cảm ơn" hoặc vai "đáp lại lời cảm ơn").
c. Trò chơi: Nhận lại đồ dùng
Trò chơi này có thể áp dụng vào bài tập 1, tuần 6: (Dạng bài: Khẳng định,
phủ định); bài tập 1, tuần 8: (Dạng bài: Mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị.)
* Mục đích:
- Cung cấp một số cách nói lịch sự trong giao tiếp; phục vụ các bài
dạy về nghi thức lời nói (phủ định, nhờ cậy, yêu cầu, đề nghị).
- Rèn thói quen dùng lời nói lịch sự khi cần đề nghị trong giao tiếp và
trong sinh hoạt hằng ngày.
* Chuẩn bị:
- Khoảng 20 đồ dùng thông thường của học sinh : mũ, sách, vở, bút, ...
Mỗi đồ dùng có gắn tên chủ ở phía trong (phía khuất) của đồ vật.
9



- Một bàn đặt các đồ vật. Cạnh bàn có một học sinh ngồi làm nhiệm
vụ trả đồ dùng cho chủ nhân của nó khi tan học.
- 3 học sinh giúp việc cho giáo viên.
- Khoảng 20 lá cờ nhỏ để trao cho người đạt yêu cầu trong trò chơi.
* Cách tiến hành:
- Nêu cách chơi: Một nhóm khoảng 8 đến 10 học sinh làm động tác
đứng dậy ra về khi tan học (đứng theo thứ tự để chờ lấy đồ dùng cá nhân).
Từng học sinh đến lượt mình thì nói lời đề nghị.
Ví dụ: - Cho tôi xin cái cặp (mũ, bút,...)
Học sinh làm nhiệm vụ trả đồ dùng, cố ý trao nhầm số đồ dùng cho từng
bạn.
Học sinh nhận đồ dùng, xem lại tên chủ nhân (ghi ở đồ dùng) và nói
hai câu: Một câu có nội dung "phủ định" đó không phải là đồ dùng của
mình; Một câu có nội dung "đề nghị" bạn trả lại đồ dùng cho mình.
Ví dụ: - Cái bút này không phải của tôi. Cho tôi xin cái bút màu xanh
ở đằng kia!
Hoặc: - Xin lỗi cậu! Cái bút này không phải của mình. Cậu lấy giúp
mình cái bút màu xanh nằm ở góc trong kia kìa!
- Học sinh nói đúng một câu được nhận một lá cờ.
- Từng học sinh trong nhóm lên nhận đồ vật từ tay người trả đồ vật và
nói 2 câu theo quy định của trò chơi. Giáo viên và học sinh cả lớp xác nhận
kết quả và trao cờ cho người nói đúng.
- Những học sinh được cờ đứng sang một bên, những học sinh không
được cờ đứng sang một bên. Cuối cùng giáo viên khen thưởng cho học sinh
được cờ và yêu cầu học sinh được cờ lần lượt bắt tay các bạn chưa được cờ
để động viên.
Biện pháp2: Hướng dẫn học sinh thực hành các kĩ năng phục vụ
học tập và đời sống hàng ngày.
Mặc dù đây là những kĩ năng phục vụ cho học tập và đời sống hàng ngày
nhưng các em lại ít được tiếp xúc. Bởi vậy, giáo viên cần cho các em thấy một

cách trực quan, thật rõ ràng. Khi dạy bản khai tự thuật, danh sách học sinh, mục
lục sách, thời khóa biểu, thời gian biểu... Giáo viên phải có một bản mẫu thật to
để các em được nhìn và nghiên cứu. Giáo viên phải chỉ rõ cách xem, cách lập, từ
đó các em mới biết cách sử dụng những kiến thức đã học được mà áp dụng vào
cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ: Dạy bài "Lập thời gian biểu" (Bài tập 3 - tuần 17)
Giáo viên cho các em đọc kĩ yêu cầu của bài. Đọc đoạn văn kể về những
việc làm trong buổi sáng chủ nhật của Hà. Giáo viên có thể cho các em xem mẫu
thời gian biểu của một người khác đã được phóng to. Từ đó giáo viên gợi ý,
hướng dẫn học sinh vận dụng để làm bài tập vào vở theo yêu cầu. Có thể cho 2,
3 học sinh làm vào giấy khổ to sau đó dán lên bảng lớp. Cả lớp và giáo viên
nhận xét, chốt lại lời giải đúng.
10


THỜI GIAN BIỂU SÁNG CHỦ NHẬT CỦA HÀ

6 giờ 30 - 7 giờ
Ngủ dậy, tập thể dục, đánh răng, rửa mặt
7 giờ
- 7 giờ 15
Ăn sáng
7 giờ 15 - 7 giờ 30
Mặc quần áo
7 giờ 30
Tới trường dự lễ sơ kết học kì
10 giờ
Về nhà, sang thăm ông bà
Sau bài học giáo viên nên cho các em vận dụng lập thời gian biểu của
chính mình vào buổi hai. Hướng dẫn học sinh có thói quen học tập, sinh hoạt và

làm việc theo thời gian biểu. Có như vậy mới khắc sâu được kiến thức cho học
sinh và giúp các em có kĩ năng phục vụ cho học tập và đời sống hàng ngày.
Biện pháp3: Hướng dẫn học sinh thực hành rèn luyện về kỹ năng
diễn đạt (nói, viết)
Đây là dạng bài nòng cốt trong môn Tập làm văn. Nó đòi hỏi ở người
học sinh có vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi mắt quan sát tinh
tường, óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy, khi dạy dạng bài này
giáo viên cần nắm rõ tâm lý lứa tuổi học sinh. Ở lứa tuổi này học sinh nhìn
nhận sự vật thế nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có em rất tỉ mỉ
quan sát, có em rất hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh khi học sinh muốn
tả bất cứ cái gì thì các em phải hiểu rõ về cái đó. Các em phải tìm hiểu thông
tin về cái đó. Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cô hay quan sát thực tế qua
môn Tự nhiên và Xã hội, qua đọc sách, đọc báo,... Giáo viên cần phối hợp
nhiều phương pháp và hình thức dạy sao cho bảo đảm với mục tiêu.
Giáo viên yêu cầu và hướng dẫn học sinh có thói quen quan sát những
sự vật hiện tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết.
Ngoài ra giáo viên cần sưu tầm những hình ảnh để các em quan sát hoặc có
thể trình chiếu, cho các em quan sát vật thật, tham quan dã ngoại...
Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ
ngữ phong phú mà vốn từ đó các em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận
dụng. Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người
cung cấp. Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều vốn từ ngữ phong phú
mà các em có thể tham khảo, vận dụng. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì
phân môn Tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ đề dó.
Ví dụ: Khi dạy tả về một loài chim thì giáo viên cho học sinh đọc kĩ bài
văn Chim chích bông (SGK, tập hai, trang 30) và bài văn tả con chim gáy (tiết
Tập làm văn tuần 22) để giúp học sinh tả về con chim được sinh động hơn.
- Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ ý
và chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết Tập làm văn. Từ đó học
sinh có thể rút ra những câu văn hay, hình ảnh đẹp và ghi nhớ sau này vận dụng.

Ví dụ: Qua bài "Tôm Càng và Cá Con" học sinh rút ra được đoạn
văn tả về chú Cá Con trong bài "Con vật thân dẹt, trên đầu có đôi mắt tròn
xoe, toàn thân phủ một lớp vẩy bạc óng ánh".
11


Để dạy tốt bài Tập làm văn dạng viết một đoạn văn ngắn kể về người
thân, con vật, loài vật, cây cối...giáo viên cần tạo cho các em thói quen làm
văn phải có bố cục 3 phần: mở bài (giới thiệu), thân bài (nội dung), kết luận
(tình cảm); nói, viết phải thành câu rõ ý, đúng ngữ pháp. Khi viết xong các
em đọc lại toàn bộ, gắn bó các câu với nhau để ý sau, ý trước nối tiếp thành
đoạn văn, bài văn xuôi nghĩa.
- Hoặc có thể hình thành một đoạn văn qua trò chơi "tiếp sức, sắm vai
người thân"... để tạo sự hứng khởi trong học tập cho học sinh đồng thời tiếp
thu kiến thức một cách tự giác. Thông qua trò chơi, học sinh còn được phát
triển cả về thể lực và nhân cách, giúp cho học sinh học Tiếng Việt một cách
nhẹ nhàng hơn và tạo sự thân thiết giữa thầy trò với nhau. Khuyến khích học
sinh lồng cảm xúc vào bài.
Ví dụ: Khi tả một chú gà, giáo viên cho 2 em lên sắm vai, một em là "chú
gà", một em là "người tả". Cùng lúc đó, giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở
nháp.
- "Người tả" sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà "Nhà em có nuôi một
chú gà"
- Còn "chú gà" thì vừa nói vừa diễn tả: "Tôi có bộ lông nhiều màu
sắc. Tôi có cái mào trên đầu. Tôi gáy rất to..."
- "Người tả" lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà: "Em
thường rải thóc cho gà ăn..."
- Khuyến khích học sinh diễn đạt tự do, suy nghĩ chân thật, thể hiện thoải
mái. Sau đó mới dần dần uốn nắn thì cách hành văn của các em mới tự nhiên.
Ví dụ: Khi các em nói về hoạt động của chú gà trống như sau: "Nó

đập cánh và gáy rất to." Ta có thể khuyến khích các em là tả đúng rồi
nhưng nếu sử dụng một số từ gợi tả hơn thì chắc chắn câu văn sẽ hay hơn
nhiều như "Nó vỗ cánh phành phạch và rướn cổ gáy vang Ò...ó...o...o."
Sau khi quan sát và nghe tả giáo viên gợi ý, hướng dẫn học sinh lập sơ đồ:
Ở nhà em
Mào đỏ

Gáy to
Con gà
Ăn thóc

Lông nhiều màu
Em yêu mến chú gà

Từ đó các em đã nắm được đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển thành
một đoạn văn. Hoặc ta có thể cho các em hình thành một đoạn văn qua trò chơi
"tiếp sức''. Từ sơ đồ đã thành lập ở trên, yêu cầu học sinh tạo thành câu. Cứ thế
nối tiếp nhau lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo viên có thể ghi lại trên bảng.
Thế là đã có những đoạn văn mẫu. Có thể câu văn lúc ấy còn lủng củng nhưng ta
có thể sửa chữa sau.
12


Ngoài ra, để có kĩ năng viết đoạn văn tốt giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ
năng nói gãy gọn, trọn vẹn ý, không nói câu cụt.
Ví dụ: Khi tả về con chim mà em yêu thích có học sinh nói: ''Chim chích chòe
cứ sáng sớm, trên cây dừa nhà em nó đậu rồi nó hót.''. Với câu này giáo viên cần
phân tích cho học sinh: Ý của em nói ''Cứ vào thời điểm buổi sáng, ở trên cây dừa
nhà em có một con chim chích chòe đến và hót". Vậy em cần nói cho gãy gọn và
hay hơn ''Sáng nào cũng vậy, chích chòe lại bay đến đậu trên cây dừa nhà em, cất

tiếng hót líu lo''.
Giáo viên cần nhắc nhở học sinh lưu ý giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Khi viết đoạn văn dẫn lời nói của người khác em phải dùng dấu ngoặc kép.
Ví dụ : Mỗi khi có khách đến chơi, chú Vẹt lại nhanh nhảu: ''Có khách!
Có khách!''
Việc rèn cho học sinh viết đoạn văn cần tạo điều kiện phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh, phải làm sao cho mỗi đoạn văn là một cơ hội sáng tạo để
học sinh thâm nhập, quan sát, phân tích từ thực tế. Giáo viên cần hướng dẫn học
sinh chuẩn bị trước thật tốt bài học, tiết học hôm sau.
Ví dụ: Quan sát kĩ con vật định kể, cụ thể là các bộ phận, hoạt động của nó
trước khi học bài kể ngắn về con vật - Tuần 16. Hay hỏi cha mẹ về nghề nghiệp
của người thân trong gia đình, công việc đó là làm gì? Công việc đó có ích gì? để
chuẩn bị cho bài viết đoạn văn kể về nghề nghiệp của một người thân trong gia
đình - Tuần 34.
*Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà nên thay những từ
ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự.
Ví dụ: Trong bài tả ngắn về Bác Hồ - Tuần 31; Khi nói hoặc viết bài các em
có thể thay từ Bác Hồ bằng từ Bác, Người...
* Khi dạy các bài Tập làm văn tả ngắn về bốn mùa, kể về con vật (thú,
chim...), cây cối, ... tôi đã sưu tầm những tranh ảnh hoặc băng hình về các chủ
đề này cho học sinh xem nhằm giúp học sinh nắm rõ hơn về các hình ảnh của
các sự vật. Từ đó giúp các em hào hứng học tập và kể sinh động, chính xác.
Khi học sinh kể chú ý hướng dẫn các em dùng những từ ngữ có hình ảnh, màu
sắc để kể nhằm làm cho bài văn thêm sinh động.
* Hướng dẫn học sinh viết đoạn văn ngắn là cả một quá trình nghệ thuật.
Sách giáo viên chỉ hướng dẫn chung chung, sơ sài dẫn đến giáo viên gặp nhiều khó
khăn khi giảng dạy. Bài tập viết đoạn văn ngắn là loại bài sản sinh lời nói. Học sinh
viết đoạn văn là tập sản sinh lời nói, văn bản. Để hướng dẫn các em viết được đoạn
văn tôi đã nghiên cứu kĩ các phương pháp và đưa ra các bước tiến hành như sau:
Bước 1: Xác định yêu cầu của bài.

- Học sinh nêu yêu cầu bài tập.
- Giáo viên phân tích yêu cầu.
- Định hướng cho học sinh viết.
+ Tả (kể) về ai (cái gì)?
+ Viết mấy câu.
+ Viết với tình cảm như thế nào?
13


- Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
Dù mới là học sinh lớp hai, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một bài văn
như lớp 4, lớp 5, cũng chưa có khái niệm lập dàn ý. Song với đoạn viết từ 3 đến 5
câu có 2 đến 3 ý cũng cần sự sắp xếp ý. Ở học kì I, học sinh được kể về những
người thân thiết với mình như: Cô giáo, thầy giáo, ông, bà, anh, chị, em...Do
đó giáo viên cần gợi ý học sinh trước tiên cần giới thiệu về người đó (Tên là
gì?, mối quan hệ với bản thân.) Tiếp đó là hình dáng, tính cách, công việc hoặc ý
thích của người kể và cuối cùng là tình cảm của bản thân đối với người mình kể.
Sang học kì II, học sinh được tả về một số con vật, cảnh vật xung quanh mình.
Giáo viên cần gợi mở cho học sinh giới thiệu về vật (cảnh vật) định tả. Chi tiết nổi
bật của cảnh vật đó. Cuối cùng là tình cảm của bản thân đối với cảnh vật và con
vật đó.
- Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn.
Ở khâu này, học sinh bộc lộ rất rõ nhược điểm về tư duy, cách viết câu, sử
dụng từ. Giáo viên không nên làm thay cho học sinh mà nên trang bị một số tình
huống, một số cách dùng từ, một số cách liên kết từ phù hợp với nội dung đoạn
viết để học sinh vận dụng viết bài.
Bước 2: Học sinh viết bài vào vở. Trước khi viết bài vào vở cần cho học sinh
nêu miệng đoạn văn.
Bước 3: Chấm bài, nhận xét và sửa lỗi.
- Học sinh đổi chéo vở đọc bài, sửa câu từ, nhận xét bài lẫn cho nhau.

- Yêu cầu một số học sinh đọc bài viết của mình và đọc bài viết đã được
bạn sửa (câu, từ) trước lớp. Các bạn khác nhận xét sửa chữa bổ sung.
- Giáo viên nhận xét và sửa một số lỗi cơ bản. (từ, câu, ý)
- Giáo viên đọc đoạn văn mẫu đã chuẩn bị để học sinh tham khảo.
Ví dụ minh họa cụ thể:
Khi dạy bài viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè (tuần 20) giáo
viên hướng dẫn theo các bước như sau:
Bước 1: Xác định yêu cầu bài:
- Học sinh đọc yêu cầu: ''Hãy viết từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè.''
- Giáo viên phân tích yêu cầu
- Hướng dẫn học sinh định hướng viết.
+ Viết đoạn gồm mấy câu? ( Viết đoạn từ 3 đến 5 câu).
+ Viết về cái gì? (mùa hè)
- Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
+ Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm? (Mùa hè bắt đầu từ tháng 4
trong năm).
+ Mặt trời mùa hè như thế nào? (Mặt trời mùa hè rất chói chang).
+ Cả hai câu trên cho em biết về thời điểm và nét tiêu biểu của mùa nào?
(Đó là mùa hè).
Giáo viên khẳng định đây là ý 1 của bài.
14


+ Bà Đất nói về mùa hè như thế nào? (Mùa hè cho trái ngọt hoa thơm.)
+ Vậy câu nói của bà Đất có thể trả lời được cho câu hỏi nào trong bài? (Trái
cây trong vườn như thế nào?)
Đây chính là ý 2 của đoạn văn.
+ Em có thích mùa hè không? (Em rất thích mùa hè.)
+ Vì sao? (Vì mùa hè em không phải đi học mà được nghỉ hè).
+ Học sinh thường làm gì vào dịp nghỉ hè? (Học sinh được đi tham quan,

thăm ông bà...)
Đây chính là ý 3 của đoạn văn.
+ Vậy đoạn văn có mấy ý ? ( 3 ý )
Giáo viên giảng: mùa hè đến khiến cho cây tươi tốt, trái trĩu cành và học sinh
được nghỉ hè.
+ Ý nào là kết quả của ý nào đem tới? ( ý 2 và ý 3 là kết quả của ý 1 đem tới.)
Vậy đoạn văn có thể viết: Ý1 Ý2 Ý3 hoặc: Ý1 Ý3 Ý2 hoặc: Ý1 Ý3
lồng Ý2.
- Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn.
Với 3 ý này học sinh có thể phát triển mỗi ý thành 1 hoặc 2 câu. Từ câu
này sang câu khác phải có sự liên kết.
Giáo viên gợi ý: Với ý 1 nói về thời điểm và đặc điểm tiêu biểu về mùa hè
các em cần lưu ý không nên lặp lại từ mùa hè trong 2 câu liên tiếp. Khi viết về ánh
nắng mặt trời nên dùng cách so sánh như: Nắng như thiêu như đốt; nắng cháy
da cháy thịt; nắng chói chang; nắng rát cả mặt...
+ Ánh nắng mùa hè, hương vị của hoa quả, em đã cảm nhận được bằng những
giác quan nào? (Bằng mắt, da,mũi, lưỡi ....)
Tóm lại, không nhất thiết cứ mỗi câu hỏi viết được một câu trong đoạn văn.
Cần viết với sự cảm nhận bằng nhiều cách: nhìn, ngửi, ăn... xen lồng với tình cảm
của bản thân về mùa hè.
Bước 2: Học sinh làm bài vào vở
- Giáo viên hướng dẫn cách trình bày một văn bản. Khi bắt đầu viết đoạn
cách lề một ô, viết hết câu này tiếp sang câu khác, ý này tiếp sang ý kia, viết hết đoạn
mới xuống dòng. Khi học sinh làm bài giáo viên cần quan sát giúp đỡ những học
sinh còn lúng túng...
Bước 3: Chấm bài, sửa lỗi.
- Học sinh đổi chéo bài, đọc bài viết của bạn sau đó nhận xét về cách trình bày,
sửa câu, từ sai có trong đoạn văn.
- Một học sinh đọc bài viết của mình, đọc câu bạn đã sửa giúp. Các bạn khác
góp ý bổ sung.

- Giáo viên nhận xét một số bài, sửa một số lỗi cơ bản ( từ, câu, ý ).
- Giáo viên đọc một số đoạn văn mẫu đã chuẩn bị cho học sinh tham khảo.
IV. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp
và nhà trường:
Nhờ áp dụng các biện pháp đã nêu trên, với tinh thần trách nhiệm
khắc phục khó khăn của bản thân, đồng thời với sự trợ giúp của các đồng
15


nghiệp, sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường, sự ủng hộ của phụ huynh
học sinh, kết quả học tập phân môn Tập làm văn của học sinh lớp tôi phụ
trách trong những năm học qua đã có sự tiến bộ rõ rệt. Với phương châm
"Mưa dầm thấm lâu", sau mỗi bài dạy, sau mỗi dạng bài, tôi thường ra một
số bài tập có liên quan để rèn luyện kĩ năng cho học sinh vào các buổi
hai/ngày. Kết quả kiểm tra qua mỗi dạng bài trong phân môn Tập làm văn đa
số các em làm bài đạt yêu cầu trở lên. Cuối mỗi năm học tôi đều kiểm tra,
đánh giá chất lượng của phân môn Tập làm văn vào tuần học thứ 34 với nội
dung khảo sát như sau:
Đề bài:
1. Nói lời đáp của em trong mỗi trường hợp sau:
a)Khi các bạn trong lớp tặng quà chúc mừng sinh nhật em.
b)Bà đến chơi, em bật ti vi cho bà xem. Bà khen: "Cháu bà giỏi quá!"
c) Em ngã đau. Bạn chạy đến đỡ em dậy, vừa xoa chỗ đau cho em vừa
nói: "Bạn đau lắm phải không?"
2. Em hãy viết một đoạn văn ngắn (khoản 4,5 câu) nói về một loài
cây mà em thích.
Tôi tiến hành chấm và nhận xét bài làm của học sinh trong lớp và tổng hợp
kết quả như sau.
Kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng phân môn Tập làm văn
Cuối năm học 2015 - 2016

Tổng số
Hoàn thành
HS
Số lượng
Tỉ lệ
25

25

100%

Chưa hoàn thành
Số
Tỉ lệ
lượng
0
0%

Ghi
chú

Kết quả kiểm tra đánh giá chất lượng phân môn Tập làm văn
Cuối năm 2016 - 2017
Tổng số
Hoàn thành
HS
Số lượng
Tỉ lệ
33


33

100%

Chưa hoàn thành
Số
Tỉ lệ
lượng
0
0%

Ghi
chú

Với kết quả đạt được trong mỗi năm học, tôi nhận thấy mình đã tìm được
hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy phân
môn Tập làm văn. Tôi đã mạnh dạn thực hiện những biện pháp kinh nghiệm của
mình trong các tiết dạy Tập làm văn. Đầu năm học, khi mới bước vào học phân
môn Tập làm văn có không ít học sinh lớp tôi rất "sợ" học phân môn này. Nhưng
với sự động viên, dìu dắt của giáo viên, dần dần số lượng các em sợ học phân
môn Tập làm văn càng giảm. Thay vào đó học sinh rất mong muốn, phấn khởi
chờ đón tiết học Tập làm văn. Các em đã có ý thức hơn trong các giờ học, đã tự
16


tin và hứng thú học tập. Chất lượng học tập phân môn Tập làm văn có chuyển
biến rõ rệt. Nội dung các bài viết phong phú hơn, học sinh được tự do diễn đạt
bằng sự lựa chọn từ ngữ, mô hình câu của riêng mình. Giờ học sinh động hơn
bởi vì học sinh có thể nói, viết ra điều mình thấy, mình cảm nhận được.
Đó chính là động lực thúc đẩy tôi ngày càng nổ lực phấn đấu hơn nữa trong

sự nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này.

C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
17


I. Kết luận
Những biện pháp trên đây tôi sử dụng trong các tiết Tập làm văn. Tôi nhận
thấy rằng học sinh ham thích môn Tập làm văn, tham gia học tập sôi nổi, hào
hứng, không còn rụt rè như trước kia nữa. Trong giờ học các em mạnh dạn tham
gia vào các hoạt động, hăng hái phát biểu ý kiến. Nhất là thông qua trò chơi sắm
vai, các tranh ảnh sinh động, phong phú, các tiết dạy bằng giáo án điện tử ... đã
giúp học sinh nắm và vận dụng tốt hơn các kiến thức, kĩ năng sống, kĩ năng
Tiếng Việt vào phân môn Tập làm văn. Đánh giá lại tình hình học tập của học
sinh, tôi nhận thấy chất lượng học tập phân môn Tập làm văn của học sinh lớp
tôi dạy đạt khá cao. Các em đã biết sử dụng nghi thức lời nói rõ ràng, đúng thái
độ và thể hiện một cách mạnh dạn, tự tin. Không những thế các em đã biết cách
trình bày một bài văn hợp lý về bố cục; diễn đạt ý trọn vẹn; vốn từ phong phú;
câu văn gãy gọn, giàu hình ảnh. Một số em thời gian đầu của năm học chưa đạt
bước sang học kì 2 của năm học đã diễn đạt khá tốt ý của mình, làm cho bài văn
trở nên sinh động hơn.
* Theo kinh nghiệm của bản thân và qua trao đổi với đồng nghiệp, tôi
muốn nhấn mạnh một số biện pháp khi dạy phân môn Tập làm văn ở lớp 2 mà
người giáo viên cần chú ý:
- Trước hết người thầy phải tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi, phải thật sự
chịu khó, yêu nghề, yêu thích công việc thì mới đạt hiệu quả cao trong công cuộc
trồng người.
- Nắm chắc, hiểu rõ những vấn đề kiến thức của phân môn. Từ đó có những
sáng tạo, cải tiến về phương pháp sao cho phù hợp với từng bài dạy cụ thể,
từng đối tượng học sinh.

- Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, đồ dùng dạy học. Sử dụng triệt để các đồ
dùng có sẵn như tranh minh họa trong sách giáo khoa, cảnh tự nhiên xung quanh trẻ...
- Dạy học bằng phương pháp khơi dậy hứng thú và lòng say mê ham học hỏi
của học sinh. Cần làm cho học sinh cảm thấy mỗi giờ học như một buổi đi tham
quan khám phá những điều mới lạ có trong cuộc sống xung quanh. Không gò ép
theo một khuôn thước nhất định mà cần phát huy tính sáng tạo, chủ động của học
sinh.
- Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi
giảng dạy bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh khi các em phát biểu để
tìm ra ưu khuyết điểm chính của các em, sau đó nhận xét sửa chữa, góp ý đánh
giá.
- Khi chấm bài giáo viên cũng cần có sự nhận xét cụ thể về những lỗi sai
của học sinh để định hướng cho học sinh khắc phục trong lần sau.
- Nên tập cho các em có thói quen học tập các ý hay, các đoạn văn hay
hoặc từ bài làm của bạn, từ sách báo tham khảo và tạo thói quen ghi chép lại
trong sổ tay văn học của mình.
- Sưu tầm tranh ảnh, phim tư liệu, vật thật có liên quan đến bài dạy.
18


- Dạy Tập làm văn theo phương pháp "tích hợp - lồng ghép" các phân
môn trong môn Tiếng Việt.
- Biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ, giọng
kể, lời nhân vật, nói - viết thành câu.
- Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự
tìm tòi.
- Tích cực soạn và dạy học bằng giáo án điện tử.
II. Kiến nghị:
a) Đối với Ban giám hiệu:
- Thường xuyên dự giờ, góp ý để giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn,

đặc biệt là trong dạy phân môn Tập làm văn.
- Tổ chức sinh hoạt chuyên môn thường xuyên và chất lượng để giáo viên
học tập kinh nghiệm lẫn nhau về phương pháp dạy học, đặc biệt là phương pháp
dạy học phân môn Tập làm văn.
b) Đối với các cấp lãnh đạo khác:
- Trang bị thêm một số tài liệu tham khảo cho giáo viên và học sinh.
- Tổ chức hội thảo đối với những SKKN hay, thiết thực về phân môn Tập
làm văn để giáo viên học hỏi và vận dụng trong dạy học.
Trên đây là những kinh nghiệm tôi đã đúc kết trong nhiều năm, từ thực
trạng học sinh học phân môn Tập làm văn lớp 2 trong nhà trường tôi nói chung
và lớp tôi chủ nhiệm nói riêng như đã nêu trên, đã được bổ sung và áp dụng có
hiệu quả trong công tác giảng dạy.
Tuy nhiên để thành công hơn nữa, tôi mong nhận được những góp ý chân
thành từ đồng nghiệp, hội đồng khoa học các cấp để sáng kiến này được áp dụng
rộng rãi và thực sự có hiệu quả.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Lê Văn Trường

Thanh Hóa, ngày 16 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Người thực hiện
Hoàng Thị Anh

TÀI LIỆU THAM KHẢO
19



1. Yêu cầu cơ bản về kiến thức kĩ năng các lớp 1, 2, 3, 4.
Bộ Giáo dục - Đào tạo
2. Giải đáp 88 câu hỏi về Giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học.
Lê Hữu Tỉnh - Trần Mạnh Hưởng - NXBGD
3. Hỏi - Đáp về dạy Tiếng Việt 2.
Nguyễn Minh Thuyết - NXBGD
4. Một số lưu ý khi dạy Tiếng Việt ở Tiểu học.
Sở Giáo dục Hà Nội
5. Thế giới trong ta.
Hội Tâm lý - Giáo dục học Việt Nam
6. Thực hành Tập làm văn 2.
Trần Mạnh Hưởng - Phan Phương Dung NXBGD
7. Tập làm văn 2.
Đặng Mạnh Thường - NXBGD
8. Trò chơi học tập Tiếng Việt 2.
Trần Mạnh Hưởng - Nguyễn Thị Hạnh - Lê Phương Nga- NXBGD

20



×