Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Một số giải pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.1 KB, 19 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Nâng cao chất lượng giáo dục là vấn đề cấp thiết đặt ra hơn bao giờ hết.
Chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng khả năng đọc viết của học sinh nói
riêng cũng đang là mối quan tâm của toàn xã hội, của những người có tâm huyết
với thế hệ trẻ. Đặc biệt chữ viết là một dạng của ngôn ngữ được bắt nguồn từ
cuộc sống lao động của con người. Nó đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt
hàng ngày. Chữ viết giúp con người giao tiếp với nhau trong mọi hoàn cảnh.
Chữ viết là ngôn ngữ thể hiện tư duy để ghi lại hình ảnh, sự vật, hiện tượng xảy
ra trong cuộc sống, nhiều khi nó là dòng cảm xúc, những phát minh được ghi lại
thành các văn bản cụ thể, hoàn chỉnh và đầy đủ nhất. Nếu như không có chữ viết
thì con người không thể tái hiện lại tư duy hay một quá trình lịch sử của một đất
nước hay của cả loài người [1].
Như chúng ta đã biết, đối với học sinh tiểu học, việc rèn chữ viết cho các
em “Viết chữ đẹp, chuẩn” là một vấn đề rất quan trọng trong việc giáo dục học
sinh ở bậc tiểu học. Ngoài ra còn nhằm rèn luyện cho học sinh những phẩm chất
tốt như: tính cẩn thận, kiên trì, tính kỉ luật và thẩm mĩ [2].
Chữ viết là một trong những công cụ giao tiếp thuận lợi và quan trọng nhất
của con người. Chưa cần biết nội dung văn bản đó viết như thế nào nhưng nếu
chữ viết rõ ràng, đẹp thường làm cho người đọc có cảm tình ngay. Vì vậy cố thủ
tướng Phạm Văn Đồng khi nói về chữ viết đã có một câu rất ngắn gọn thể hiện
quan điểm của ông : “nét chữ, nết người,” hàm hai ý vấn đề : thứ nhất nét chữ
thể hiện tính cách con người; thứ hai thông qua rèn chữ viết để giáo dục tính
cách con người(5).
Ở tiểu học phân môn tập viết là trong những môn học quan trọng ở bậc
tiểu học. Tập viết có liên quan mật thiết đến chất lượng học tập ở các môn học
khác. Nếu chữ viết rõ ràng thì học sinh có điều kiện ghi bài nhanh hơn nhờ vậy
học tập sẽ tốt hơn.[2]
Hiện nay, qua theo dõi, tình trạng học sinh viết chữ xấu, viết ẩu rất nhiều.
Từ đó, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục ở tiểu học nói chung cũng
như ảnh hưởng đến kết quả các phong trào thi đua “Dạy tốt - Học tốt” của nhà


trường nói riêng.
Hơn ai hết, người làm thầy, làm cô nhất là ở Tiểu học nói chung và lớp 3
nói riêng được giao trọng trách hết sức nặng nề. Họ là người đặt nền móng hình
thành những nét chữ đầu tiên cho các em. Học sinh viết đẹp hay xấu là một phần
trông cậy vào sự chỉ bảo tận tình của thầy cô.
Bản thân tôi đã nhiều năm dạy học, trăn trở muốn tìm ra một giải pháp
tốt nhằm khắc phục tình trạng trên của học sinh, hình thành cho các em có ý
thức về chữ viết của mình. Qua quá trình tìm tòi, suy nghĩ và được sự đồng tình
của các lãnh đạo, Hội đồng sư phạm Trường Tiểu học Quảng Lợi, tôi đã xây
dựng và thực hiện sáng kiến kinh nghiệm “ Một số giải pháp rèn chữ viết cho
học sinh lớp 3” để nhằm góp một chút ít kinh nghiệm của mình cho việc nâng
cao chất lượng phân môn Tập viết cho học sinh lớp 3.
1


1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn và quá trình dạy Tập viết cho
học sinh lớp 3 để nhằm đưa ra một số giải pháp cụ thể, nhằm nâng cao chất
lượng chữ viết cho học sinh lớp 3. Đồng thời hình thành cho học sinh kỹ năng
viết đúng, viết rõ ràng và viết nhanh, viết đẹp.
Yêu cầu về việc viết chữ đối với học sinh trong nhà trường trước hết là
viết đúng, sau đó là viết đẹp và tiến thêm một bước nữa là viết vừa đẹp lại vừa
viết nhanh .
Tập viết trang bị cho học sinh bộ chữ cái Tiếng Việt và những yêu cầu kỹ
thuật để sử dụng bộ chữ cái đó trong học tập và giao tiếp. Với ý nghĩa này, Tiếng
Việt không những có quan hệ mật thiết tới chất lượng học tập ở các môn học
khác mà còn góp phần rèn luyện một trong những kỹ năng hàng đầu của việc
học Tiếng Việt trong nhà trường - kỹ năng viết chữ. Nếu viết chữ đúng mẫu, rõ
ràng, tốc độ nhanh thì học sinh có điều kiện ghi chép bài học tốt, nhờ vậy kết
quả học tập sẽ cao hơn. Viết xấu, tốc độ chậm sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất

lượng học tập[3].
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh lớp 3C trường Tiểu học Quảng Lợi, huyện Quảng Xương
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài này tôi sử dụng phối kết hợp các nhóm phương pháp dạy
học như sau:
+ Phương pháp trực quan.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp.
+ Phương pháp hỏi đáp
+ Phương pháp luyện tập thực hành.
+ Phương pháp sử dụng trò chơi học tập.

2


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận:
Sau những năm trực tiếp giảng dạy trên lớp, tôi đã rút ra bài học cho bản
thân rằng Muốn rèn chữ viết cho học sinh đạt kết quả cao, thì trước hết bản thân
người giáo viên phải thật sự là tấm gương sáng để học sinh noi theo về mọi mặt
nhất là chữ viết của giáo viên khi trình bày bài viết trên bảng lớp phải hết sức
thận trọng. Các em học sinh lớp 3 tuy đã học hai năm ở trường, song các em
cũng rất dễ bắt chước người lớn. Nếu cô giáo, thầy giáo cẩn thận từ cách cầm
phấn, gạch lề, viết chữ thì các em cũng học tập theo tính cách đó. Vậy như thế
nào là “ Rèn chữ viết cho học sinh”.
1- Chữ viết tương đối đúng mẫu ( chữ hoa và chữ thường ).
2- Nét chữ tương đối đều.
3- Dòng viết thẳng hàng, thế chữ ngay ngắn.[4]
Nói chung nhìn toàn vở sạch sẽ, trình bày khoa học, khoảng cách chữ viết
nọ đến chữ viết kia là một chữ O. Biết viết hoa tên người, tên địa danh theo

đúng luật chính tả dưới sự hướng dẫn của cô giáo.
Từ những suy nghĩ trên, muốn đạt được kết quả cao trong việc rèn luyện
chữ viết cho học sinh. Người giáo viên cần nắm vững những vấn đề sau:
1- Về kiến thức: Củng cố, hoàn thiện biểu tượng về các chữ cái viết
thường, chữ số, nắm vững quy trình viết chữ cái, chữ số, yêu cầu cơ bản ở học
sinh lớp 3 là học sinh nắm được hình dáng và viết đúng các chữ viết hoa, đồng
thời nâng cao kỹ năng viết liền mạch giữa các chữ cái viết thường với nhau và
giữa chữ viết hoa với chữ viết thường.
2 - Về kỹ năng: Viết đúng mẫu chữ cái viết hoa, thể hiện rõ đặc điểm,
thống nhất ở các nét cơ bản trong từng nhóm chữ hoa. Kỹ thuật viết liền mạch
giữa các chữ cái được thể hiện rõ, đều, học sinh biết điều chỉnh về khoảng cách
khi viết các chữ cái đứng sau chữ viết hoa không có nét móc.
Thời đại khoa học công nghệ tiến nhanh như vũ bão, có người cho rằng:
"Chữ viết và các công việc khác cần phải làm nhanh, làm nhiều, cần gì đến việc
"viết chữ đẹp" mà ngồi viết cho đẹp thì mất nhiều thời gian".
Bản thân tôi suy nghỉ rằng nếu quan niện và phát biểu như vậy là sai lầm.
Vì từ xưa ông cha ta đã dạy "nét chữ - nét người". Quả là không sai trong quá
trình giảng dạy qua nhiều thế hệ học sinh đã chứng minh điều đó, chữ viết thể
hiện đức tính mỗi con người đó là tính cẩn thận, chu đáo hay cẩu thả. Nếu người
có tính cẩn thận , chu đáo có lương tâm thì làm nghề gì ở đâu, bất kỳ lúc nào khi
cầm bút họ có trách nhiệm với chính mình, đó là khi viết phải viết thế nào để
người khác đọc được, xem được. Và ngược lại những người cẩu thả, không chịu
rèn luyện thì chữ viết cũng rất khó đọc.
Rèn luyện vở sạch, chữ đẹp là rèn cho học sinh ý thức cẩn thận, tính kỷ
luật, lòng tự trọng góp phần hình thành nhân cách con người mới.
Chữ viết là một trong những kỹ năng hàng đầu của việc học tiếng việt
trong nhà trường. Chữ viết của học sinh có ảnh hưởng lớn đến chất lượng học
tập ở tất cả các môn học.
3



Vở sạch, chữ đẹp là yêu cầu không thể thiếu được đối với học sinh tiểu học
đặc biệt là học sinh ở các lớp đầu cấp. Vì chữ viết của mỗi người sau này ra sao
tất cả phụ thuộc vào nét chữ của những ngày đầu đi học được thầy cô uốn nắn.
Rèn luyện vở sạch, chữ đẹp cho học sinh là giáo viên phải hướng cho học
sinh biết cách giữ gìn quyển vở sao cho sạch đẹp. Chữ viết phải đẹp, viết đúng
kích cỡ, mẫu quy định, trình bày khoa học, chính xác.
- Với bậc học tiểu học là cái móng của nền giáo dục phổ thông.
Muốn xây dựng vững chắc cái móng đó, người giáo viên phải xác định
rõ vai trò trách nhiệm của mình trong việc rèn luyện chữ viết cho học sinh.
Qua đó thấy rõ việc dạy chữ, dạy người cho trẻ thơ. Với các em, không chỉ
có tư tưởng đạo đức tốt mà quan trọng thứ hai là phải nắm chắc, nhớ kĩ và
nhận biết từng âm vần, từng nét cơ bản ban đầu: nét xiên trái, xiên phải, nét
ngang, nét sổ thẳng,... để các em đọc, viết một cách chắc chắn qua các bài
học một cách cụ thể, cũng như viết được nhiều kiểu chữ trên sách, báo,...
Hơn nữa, rèn chữ viết cho học sinh đặc biết là từ tiểu học mà lớp 3 là cơ
bản, chính là bước đi ban đầu của người học. Do đó mỗi thầy giáo, cô giáo
chúng ta ngoài việc soạn, giảng cho tốt thì việc rèn chữ viết cho học sinh là quan
trọng, song để rèn cho học sinh viết đẹp thì đội ngũ cán bộ, giáo viên phải rèn
cho chính mình trước để học sinh noi theo
- Là người giáo viên phải có trách nhiệm với học sinh thì mới có sơ sở để
rèn chữ viết cho học sinh trong cả năm học. Với mục đích rèn chữ viết cho học
sinh đẹp hơn để sau này khi bước vào đời các em có tinh thần trách nhiệm, có
tâm hồn, tư tưởng cao đẹp để xây dựng quê hương, đất nước.Làm tốt được
phong trào này sẽ góp một phần lớn hoàn thành mục tiêu giáo dục con người
mới phát triển toàn diện
2. 2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dựng sáng kiến kinh nghiệm.
* Tình hình nhà trường, địa phương:
Xã Quảng Lợi có bề dày lịch sử là địa phương có truyền thống học sinh
hiếu học. Để phát huy truyền thống hiếu học đó, trường được sự quan tâm của

địa phương cũng như sự quan tâm của các cấp lãnh đạo cấp trên đã xây dựng
cho con em Quảng Lợi ngôi trường khang trang sạch sẽ.
Học sinh chăm học và có ý thức hơn trong việc rèn nề nếp giữ vở sạch,
luyện viết chữ đẹp.
Mấy năm trở về đây nhà trường chúng tôi rất quan tâm chú trọng đến
chất lượng học tập của học sinh trong đó có chất lượng chữ viết của giáo viên và
học sinh . Hàng năm nhà trường tổ chức cho thi viết chữ đẹp cho giáo viên và
học sinh để tìm ra người có giải cao dự thi cấp huyện, tỉnh. Qua đó đã động viên
khích lệ học sinh viết chữ đẹp bằng những hình thức khen trước lớp, trường. gần
đây được sự quan tâm của cấp trên nhà trường được cấp các thiết bị và đồ dùng
dạy học tương đối đầy đủ nên đã góp phần không nhỏ cho việc dạy học của giáo
viên và việc học của học sinh ngày càng tốt hơn. Đặc biệt là phân môn tập viết
tương đối đầy đủ về chữ mẫu (chữ hoa, chữ thường) phục vụ tốt cho việc luyện
viết cho các em lớp 3 nói riêng và các lớp toàn trường nói chung.
4


* Thực trạng việc dạy và học phân môn tập viết ở lớp 3C
Trường Tiểu học nơi tôi công tác, năm học 2018 – 2019 có 03 lớp 3. Trong
đó lớp 3C do tôi chủ nhiệm.
Tổng số học sinh là 35 em.
Trong đó có: 23 học sinh nam và 12 học sinh nữ.
Con cán bộ: 01em.
Con có bố mẹ làm nông nghiệp, đánh cá: 34em.
* Thuận lợi:
- Học sinh chăm học, có ý thức trong việc rèn nề nếp giữ vở sạch và
luyện viết chữ đẹp.
- Hầu hết các học sinh đã nắm được quy trình viết, biết cách viết chữ ghi
âm tiếng việt, viết đúng mẫu, đúng cỡ chữ quy định. Phần đông phụ huynh quan
tâm và chăm lo việc học tập của con cái. Nhiều phụ huynh còn giành thời gian

hướng dẫn con cái học ở nhà.
- Nhà trường có đầy đủ giáo viên, đội ngũ giáo viên được trẻ hóa, có trình
độ đạt chuẩn trở lên. Nhà trường đã nhiều năm được công nhận là trường tiên
tiến, có giáo viên và học sinh đạt giải thi viết chữ đẹp cấp Huyện, cấp Tỉnh. Ban
giám hiệu, các tổ chức chính trị, các đoàn thể tổ chức trong nhà trường trong
những năm gần đây đã quan tâm đến phong trào chữ viết đẹp của giáo viên và
học sinh.
* Khó khăn:
- Có một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ chưa đúng mẫu, cỡ chữ (độ
cao, rộng, khoảng cách giữa các con chữ và giữa các chữ thường quá hẹp hoặc
quá rộng); ghi dấu thanh không đúng vị trí như em Lê Minh Nhật, Nguyễn Văn
Bình
- Trình độ năng lực của giáo viên được phát triển lên rất nhiều qua quá
trình được bồi dưỡng, học tập, song những kinh nghiệm được đúc kết còn hạn
chế; bị ảnh hưởng nhiều bởi phương pháp cổ truyền, việc đầu tư thời gian và
công sức cho việc rèn chữ viết của học sinh chưa mang lại hiệu quả cao.
- Đa số các em thuộc diện có bố mẹ làm nông nghiệp, đánh bắt thủy hải
sản. Các em chưa có tính hiếu học, khả năng tập trung sự chú ý của các em chưa
cao, tư duy chưa phát triển. Bố mẹ ở nhà lại bận bịu với công việc đồng ruộng,
công việc đánh bắt cá hoặc để con ở nhà với ông (bà) đi miền Nam làm ăn,
không để ý đến việc dạy đọc, dạy viết cho các em.
* Khảo sát chất lượng môn Tiếng việt khối lớp 3 đầu năm, năm học
2018 - 2019.

5


Lớp



số

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

TL

SL

TL

3A

36

34

94,4

2

5,6

3B

34


32

94,1

2

5,9

3C

35

33

94,3

2

5,7

Tổng

105

99

94,3

6


5,7

Cụ thể lớp 3C các em chưa hoàn thành môn Tiếng việt chiếm 5,7%. Chữ
viết nhiều em còn chưa đẹp, chưa biết cách trình bày bài viết của mình.
Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi sự tập trung chú ý của học sinh lớp 1, 2, 3 còn
yếu thiếu bền vững. Các em mau quên lại chóng chán. Chính vì vậy một số
không ít học sinh còn có thái độ tiêu cực: lười biếng, cẩu thả ... khi viết.
- Nhiều học sinh ngồi sai tư thế khi viết, lưng không thẳng, mắt dí sát vào
vở như các em Thuận, em Chiến cả em cầm bút bằng 5 ngón tay như em Hoàng,
em Sâm
- Tốc độ viết rất chậm như: Em Bình
- Chữ viết chưa đạt yêu cầu thể hiện ở một số điểm
+ Chưa đúng hình dáng, cấu tạo chữ cái
+ Không viết đúng quy trình viết chữ cái (điểm đặt bút chưa đúng ).
+ Không viết đúng độ cao các con chữ.
+ Chưa có kĩ năng viết liền mạch, liên kết chữ cái tạo chữ ghi tiếng.
+ Vị trí dấu thanh sai.
Trong khi đó lên lớp 3 các em phải ghi bài nhiều nên phải viết nhanh cũng
làm cho các em dễ có thói quen viết ẩu, xấu. Đó cũng là khó khăn giáo viên gặp
phải, làm thế nào để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh, biện pháp nào
có thể rèn chữ viết cho học sinh đúng và đẹp hơn.
2.3. Các giải pháp đã sử dựng để rèn chữ viết cho học sinh lớp 3.
Với kết quả như trên tôi đã suy nghĩ để tìm ra các biện pháp để rèn chữ viết
cho học sinh như sau:
*Giải pháp 1: Phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ
Ngay từ đầu năm học tôi đã cho kiểm tra chữ viết của các em. Tôi xem xét
kỹ để phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ khác nhau. Từ đó tôi lên
kế hoạch để sửa “tật”cho từng em.
Ví dụ: Những em có điểm đặt bút chưa đúng tôi chỉ bảo cho các em cách
tính dòng kẻ, xác định điểm đặt bút ... Những em viết chưa thẳng tôi có kế hoạch

cho luyện nét sổ thẳng, chữ chưa tròn tập viết nét cong tròn...
- Nhờ vậy các em đã nhớ lại được quy trình viết từng con chữ, biết luyện
dần từng chữ. Dần dần kết quả đã tốt hơn rất nhiều như em Chiến, em Sâm
* Giải pháp 2: Rèn tư thế viết đúng cho học sinh.
6


Tôi nhận thấy khi học sinh ngồi viết đúng tư thế sẽ là điều kiện thuận lợi
cho các em viết đúng, viết đẹp. Mặt khác việc làm đó cũng góp phần để phòng
học sinh mắc bệnh cận thị khi căn bệnh này ngày một gia tăng trong nhà trường
phổ thông hiện nay. Tôi đã hướng dẫn các em như sau:
* Tư thế ngồi viết:
- Ngồi ngay ngắn, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ
25cm - 30cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép
vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải để ở trên mặt bàn
- Cách cầm bút: Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng ba ngón
tay (ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa của bàn tay phải). Đầu ngón trỏ đặt ở phía
trên, đầu ngón cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu
ngón tay giữa.
* Vị trí đặt vở: Vở đặt nghiêng so với mép bàn một góc khoảng 30 độ
nghiêng về phía bên phải.
- Để học sinh có kĩ năng trên, tôi đã làm một số công việc sau:
- Treo tranh mẫu tư thế ngồi viết và cách cầm bút trong phòng học ở lớp,
đồng thời thu nhỏ các hình ảnh này trên một trang giấy, phát cho từng học sinh
kẹp trong vở tập viết của mình để đánh dấu trang cần viết và luôn quan sát được
khi viết.
- Luôn nhắc nhở và uốn nắn tư thế viết ở tất cả giờ học chú trọng đặc biệt
trong giờ tập viết.
- Trao đổi cha mẹ học sinh về việc kiểm tra nhắc nhở con em khi tập viết ở
nhà ngay trong buổi họp Cha mẹ học sinh biết để uốn nắn ở nhà.

Ngoài việc rèn tư thế tập viết đúng tôi còn chú trọng việc phân loại các lỗi
sai của học sinh trong quá trình viết để có thể rèn cho các em.
*Giải pháp 3: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, phương tiện dạy
học
Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 1,2,3 tôi thấy việc sử dụng đồ
dùng trực quan (chữ mẫu) trong mỗi tiết tập viết là cần thiết. Đây cũng là điều
kiện đầu tiên để các em viết đúng.
Chữ mẫu có nhiều hình thức: Chữ mẫu in sẵn, chữ mẫu phóng to trên bảng,
chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu, chữ mẫu của giáo viên ... mỗi loại chữ
mẫu có tác dụng khác nhau. Cụ thể:
+ Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều
kiện cho các em phân tích hình dạng, kích thước và các nét cơ bản cấu tạo chữ
cái cần viết trong bài học.
+ Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng giúp học sinh nắm được thứ tự viết
các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo
yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh.
+ Chữ viết trong hộp chữ giúp các em kết hợp mắt nhìn, tay sờ để phối hợp
các thao tác viết chữ một cách đồng bộ.
+ Chữ của cô khi nhận xét, chữa bài cũng được học sinh quan sát như một
loại chữ mẫu. Vì vậy tôi luôn cố gắng viết đẹp đúng mẫu, rõ ràng.
7


+ Bảng con: Học sinh không viết quá nhỏ, không viết sát mép bảng. Học
sinh giơ bảng bằng 2 tay, khuỷu tay tỳ xuống mặt bàn, phấn dùng viết bảng
không dùng loại cứng hoặc phấn kém phẩm chất, khăn lau bảng phải mềm, dễ
thấm nước, khăn được gấp lại nhiều lần để học sinh có thể cầm lau bảng một
cách thuận lợi.
Tóm lại để hỗ trợ cho việc dạy tập viết đạt hiệu quả cao người giáo viên
cần triệt để sử dụng các hình thức chữ mẫu cũng như nắm vững tác dụng

của mỗi hình thức chữ mẫu đó.
* Giải pháp 4: Rèn kỹ thuật viết chữ.
Đầu tiên phải hướng dẫn học sinh xác định tọa độ chữ và chiều hướng
chữ: Tọa độ chữ được xác định trên đường kẻ ngang (1 dòng đầu đậm và 3 dòng
còn lại được in nhạt hơn). Hướng dẫn học sinh ký hiệu đường kẻ trên là số 1 các
đường khác là 2, 3, 4 kể từ dưới lên trên.
-> Đường kẻ ngang

Đường kẻ dọc
Cách xác định tọa độ trên khung chữ phải dựa vào đường kẻ dọc, đường kẻ
ngang và các ô vuông làm định hướng. Đây là một trong những điều kiện để dạy
chữ viết thành một quy trình. Quy trình được thực hiện lần lượt bởi các thao tác
mà hành trình ngòi bút đi qua.
Ngoài việc thống nhất các khái niệm về đường kẻ, ô vuông giáo viên cần
hướng dẫn học sinh hiểu một số thuật ngữ liên quan. Cụ thể:
* Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một nét trong chữ cái. Điểm đặt
bút có thể nằm trên đường kẻ ngang (i, h, r, s…) hoặc không nằm trên đường kẻ
ngang (a, c, e, n, v…).
Ví dụ: Điểm đặt bút (1) nằm trên đường kẻ ngang

Điểm đặt bút (1) không nằm trên đường kẻ ngang
* Điểm dừng bút: Là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái. Điểm
dừng bút có thể nằm trên đường kẻ ngang (i, l, p…) hoặc không nằm trên đường
kẻ ngang (e, v, x…).
Ví dụ: Điểm dừng bút (2) nằm ở đường kẻ ngang
8


Điểm dừng bút (2) không nằm ở đường kẻ ngang
* Viết liền mạch: Là thao tác đưa ngòi bút liên tục từ điểm kết thúc của nét

đứng trước tới điểm bắt đầu của nét đứng sau.
Ví dụ: a nối với m -> am
- x nối với inh -> xinh

Các nét bút viết liền mạch khi viết không nhấc bút.
* Kỹ thuật lia bút: Để đảm bảo tốc độ trong quá trình viết một chữ cái hay
viết nối các chữ cái với nhau, nét bút được thể hiện liên tục nhưng dụng cụ viết
(đầu ngòi bút, phấn) không chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng).Thao tác đưa
bút trên không gọi là lia bút.
Ví dụ: b nối với a -> ba
Từ b -> a không viết liền được nên viết con chữ sau đó lia bút sang điểm
bắt đầu của chữ a.

* Kỹ thuật rê bút: Đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại với
nét chữ vừa viết. Ở đây xảy ra trường hợp dụng cụ viết (đầu ngòi bút, phấn)
chạy nhẹ từ điểm kết thúc của nét đứng trước đến điểm bắt đầu của nét liền sau.
Ví dụ: Khi viết chữ m; n đầu tiên phải viết nét móc ngược của chữ (
) sau đó không nhấc bút để viết mà rê ngược bút lên đường kẻ ngang thứ hai để
viết nét móc hai đầu (
)

* Một số nét ghi dấu phụ của chữ cái có thể gọi như sau:
+ Nét gấp khúc ( Trên đầu các chữ cái â, ê, ô ) tạo bởi 2 nét thẳng xiên
ngắn ( trái - phải ) - dấu mũ.
+ Nét cong dưới nhỏ ( trên đầu chữ cái ă) - dấu á: là một nét cong nhỏ,
đáy nét cong không chạm vào đầu chữ cái, hai đầu nét cong hướng lên trên.
+ Nét râu ( ở các chữ cái ơ, ư ) - dấu ơ, dấu ư: là một dấu hình lưỡi câu
đặt hơi nghiêng phía trên bên phải của đầu chữ, độ cao không quá 1/3 ô.
9



+ Nét chấm ( Trên đầu chữ cái i ) - dấu chấm.
Ở một vài chữ cái viết thường, giữa hoặc cuối nét cơ bản có tạo thêm
một vòng xoắn nhỏ như chữ cái k, b, v, r, s có thể mô tả bằng lời hoặc khi dạy
cho học sinh gọi đó là các nét vòng ( nét xoắn, nét thắt ).

Tập trung rèn luyện kĩ thuật liên kết liền mạch chữ cái viết hoa với chữ cái
viết thường. Tôi đã phân loại các trường hợp viết liên kết như sau:
* Trường hợp viết nối thuận lợi: Nét móc cuối cùng của chữ cái đứng trước
nối với nét móc đầu tiên của chữ cái đứng sau:
Tôi đã hướng dẫn các em viết một số chữ cái trong các tiết ngoại khóa và
giáo viên phải in sẵn giấy kẻ ô ly.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh viết chữ A và câu ứng dựng
- Anh em thuận hòa
- Viết chữ cái A đã học. Từ điểm cuối của nét lượn ngang thân chữ cái A lia
bút xuống điểm cuối của nét móc ngược phải chữ cái A để viết tiếp nét nối với
nét móc trái của chữ cái n. Tiếp tục viết nét móc thứ hai của n. Khi viết đến phần
móc phải phía dưới lượn cong bình thường có thể viết nối với phần nét khuyết
của chữ cái h, sau đó viết hoàn chỉnh chữ cái h.

* Trường hợp viết nối không thuận lợi: đó là trường hợp nét cuối của chữ
cái đứng trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau không thể viết nét nối.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh viết chữ C và câu ứng dựng:
- Chia ngọt sẻ bùi
- Quy trình viết chữ Chia
- Viết chữ C như đã học, từ điểm dừng bút của chữ C lia bút để viết tiếp
chữ h rồi rê bút viết tiếp chữ cái i và chữ cái a.

10



- Những bài viết đẹp được lưu lại và trưng bày ở góc Tiếng Việt của lớp.
- Kỹ thuật viết nối chữ (Các chữ cái viết thường).
Việc nối chữ chủ yếu được thực hiện ở các chữ cái viết thường khi chúng
đứng lại gần nhau. Dựa vào những nét cơ bản của chữ cái tiếng Việt, tôi phân
loại thành 4 trường hợp nối chữ (từ dễ đến khó) và lưu ý học sinh như sau:
- Trường hợp 1: nét móc cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc hoặc
nét hất đầu tiên của chữ cái sau:
Ví dụ: a - n = an; i - m = im; t - ư = tư...

Nhìn chung trường hợp này viết dễ dàng thuận lợi
Lưu ý học sinh: Khi nối 2 nét móc ở hai chữ cái, cần điều tiết về khoảng
cách giữa 2 chữ sao cho vừa phải, hợp lý để chữ viết đều nét và có tính thẩm mĩ
Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái sau với nét móc (hoặc nét
hất) đầu tiên của chữ cái sau
Ví dụ: e - m = em; c - ư = cư... Trường hợp nối chữ này cũng tương đối dễ
dàng.

- Lưu ý: Điều chỉnh khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho không gần quá
hay xa quá (Ví dụ: em, cư...) Hoặc chuyển hướng ngòi bút ở cuối nét cong (kín)
để nối sang nét móc (hoặc nét hất) sao cho hình dạng hai chữ cái vẫn rõ ràng.
- Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét
cong của chữ cái sau
Ví dụ: a - c = ac; h - o = ho; y - ê = yê... ) đây là trường hợp nối chữ tương
đối khó, vừa đòi hỏi kỹ thuật lia bút vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách
sao cho vừa phải, hợp lý.
11


- Lưu ý học sinh:

+ Xác định điểm kết thúc (dùng bút) ở chữ cái trước để lia bút viết tiếp chữ
cái sau sao cho liền mạch tạo thành một khối các chữ cái.
+ Điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ cái trước hơi dãn rộng một chút để
khi viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải (không gần quá)
Ví dụ: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ ao, giáo viên lưu ý nhắc học sinh
điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ a để khi viết tiếp chữ cái o sẽ có khoảng
cách giữa a và o không gần quá (bằng khoảng cách giữa a và i (ai).
- Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái
sau
Ví dụ: o - e = oe; o - a = oa; x - o = xo...

Đây là trường hợp nối chữ khó nhất vừa đòi hỏi các kỹ thuật rê bút,
lia bút, chuyển hướng bút để tạo nét nối vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng
cách hợp lý, trên cơ sở thói quen và kĩ năng viết khá thành thạo của học sinh.
Lưu ý học sinh trường hợp viết chữ oe, oa:
+ Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o chúc xuống để gặp điểm bắt đầu của
chữ cái e sao cho nét vòng ở đầu chữ cái không được to quá (oe). Rê bút từ điểm
cuối của chữ cái o sang ngang rồi lia bút viết tiếp chữ cái a (oa). Ngoài ra tôi còn
hướng dẫn các em cách viết liền mạch. Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ
bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu (kể cả dấu phụ
của con chữ) và dấu ghi thanh.
Ví dụ: ruộng:

- Viết chữ liền mạch các hình cơ bản của chữ cái thành ruong sau đó đặt
dấu mũ (dấu phụ) trên o và dấu nặng (dấu thanh) dưới ô để thành ruộng.
Như vậy, với việc phân tích cách liên kết, cách viết liền mạch ngay từ
những bài viết đầu tiên, nhiều học sinh trong lớp đã nắm được quy trình viết các
từ ứng dụng ở các bài tiếp theo, không cần sự hướng dẫn tỉ mỉ của cô giáo các
em còn có thể viết đúng chữ theo mẫu. Tốc độ viết chữ của cả lớp nhanh dần.
Chính vì vậychất lượng học tập của học sinh môn Tiếng Việt được nâng lên một

cách rõ rệt.
12


Tập viết là một phân môn thực hành. Ngoài việc nắm được kĩ thuật viết chữ
học sinh phải được luyện tập nhiều lần để hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Vì thế việc
luyện chữ viết cho học sinh là rất quan trọng.
*Giải pháp 5: Tăng cường luyện tập thực hành
Trước đây, trong tiết tập viết, một số giáo viên vẫn còn giảng giải nhiều
thời gian luyện của học sinh còn ít... Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu đổi mới
phương pháp dạy học giờ tập viết cần tạo điều kiện để học sinh thực hành nhiều,
tự rút kinh nghiệm cho bản thân, từ đó rèn kĩ năng viết nhanh, đẹp.
Tôi sử dụng các hình thức tập luyện sau:
+ Học sinh tập viết chữ trên bảng lớp, trên bảng con.
Cách làm này rất tốt và giáo viên có thể kiểm tra được từng học sinh, uốn
nắn để học sinh tự sửa chỗ sai của mình trên bảng trước khi viết vào vở.
- Luyện tập viết trong vở tập viết: Giáo viên cần chú ý giúp các em viết đủ,
viết đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết để các em viết tốt hơn ở những
dòng tiếp sau:
- Luyện tập viết chữ ở các môn học khác: Cần tận dụng việc tập viết các bài
học, bài làm ở các môn học khác để học sinh tập viết .
Để luyện tập đạt tới hiệu quả viết nhanh, đẹp, tôi thấy giáo viên cần chú ý:
+ Rèn luyện kĩ năng viết chữ phải tiến hành toàn diện, ở lớp, ở nhà, ở đủ
các môn học khác.
+ Kiên trì sửa và rèn chữ viết cho học sinh
Như vậy, với việc tăng cường luyện tập thực hành, học sinh lớp tôi đã có
được kĩ năng viết nhanh, đẹp đồng thời rèn luyện được ý thức tự giác luyện tập
trong các môn học như Toán, Tiếng Việt.
Ngoài các biện pháp nêu trên tôi còn kết hợp các công việc sau:
*Giải pháp 6: Khích lệ, khen ngợi kịp thời các em viết đúng, viết đẹp.

Công việc này tưởng chừng đơn giản nhưng hiệu quả của nó cũng tương
đối rõ rệt. Vì đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 3 rất thích được khen nên với
mỗi bài viết đẹp tôi vẫn cố gắng động viên các em kịp thời. Tôi dành một góc
trong lớp để trưng bày các bài viết đẹp. Nhờ vậy đã tạo được một không khí thi
đua trong lớp. Các em hào hứng luyện viết và tiết học không còn khô khan nữa.
Đồng thời giáo viên luôn đánh giá nhận xét thường xuyên trong tiết học
hoặc trong vở viết, lời nhận xét đánh giá trong vở phải ngắn gọn, xúc tích học
sinh dễ nhận ra khuyết điểm trong bài viết của mình.
Ví dụ: các nét khuyết em viết chưa đều en cần cố gắng nhé.
Hay: Chữ viết đúng độ cao con chữ, nét chữ đẹp, cô khen con!
* Phối hợp các lực lượng giáo dục Gia đình - nhà trường - xã hội để
nâng cao chất lượng học tập nói chung và chất lượng chữ viết cho học sinh
nói riêng
- Giáo viên thường xuyên đánh giá, nhận xét bài cho học sinh để nâng cao
chất lượng giờ dạy tập viết. Theo dõi sự cố gắng của học sinh hằng ngày, hàng
tuần, hàng tháng và xếp loại thi đua cho học sinh. Trong khi nhận xét, đánh giá
13


phải chỉ cho học sinh thấy được cái sai, nhắc nhở học sinh sửa chữa và cố gắng
hơn.
- Giáo viên thường xuyên gặp gỡ phụ huynh (đặc biệt là đối tượng học sinh
chưa hoàn thành nội dung môn học) để trao đổi tình hình học tập của học sinh,
đồng thời hướng dẫn phụ huynh giúp đỡ, tạo điều kiện cho việc rèn chữ viết của
các em ở nhà.
- Mỗi học sinh được giáo viên chủ nhiệm trao đổi, nắm bắt tình hình học
tập, kiểm tra góc học tập tại gia đình ít nhất 1 lần/năm.
- Giáo viên cùng với hội cha mẹ học sinh của lớp kết hợp với nhà trường,
thường xuyên động viên, đôn đốc các bậc phụ huynh tạo điều kiện tốt nhất cho
học sinh tới trường cũng như thời gian học tập tại nhà.

- Tổ chức các cuộc thi viết chữ đẹp của lớp trong giờ học tăng buổi, mỗi
tháng thi viết chữ đẹp một lần nạp số liệu về Ban giám hiệu .
- Giáo viên cần rèn cho mình viết đẹp, khi viết mẫu ở bảng hay viết mẫu ở
vở cho học sinh, giáo viên phải viết bằng phấn, mực khác màu, viết rõ ràng, đẹp,
đúng kích thước, cỡ chữ, đúng mẫu quy đinh để học sinh dễ quan sát và làm
theo.
- Hàng tuần có biểu dương, nêu gương các học sinh học tốt, viết chữ đẹp, ở
buổi chào cờ đầu tuần, trên đài phát thanh của thôn, của xã.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
- Hiệu quả đạt được
Qua một thời gian tôi đã vận dụng linh hoạt các biện pháp trên, đến thời
điểm hiện tại kết quả khảo sát đạt được như sau:
Cuối học kì 1
Chưa hoàn
Số HS Hoàn thành
Lớp
thành
dự thi
SL
TL
SL TL
3A
36
35
97,2
1
2,8

Cuối học kì 2

Chưa hoàn
Hoàn thành
thành
SL
TL
SL
TL
35
100
0
0

3B

34

33

97,0

1

3,0

34

100

0


0

3C

35

35

100

0

0

35

100

0

0

105

103

98,0

2


2,0

105

100

0

0

Tổng

Qua một thời gian áp dụng,bản thân thấy học sinh lớp 3C do tôi chủ
nhiệm có nhiều chuyển biến rõ rệt về chữ viết. Học sinh viết nắn nót, cẩn thận
và trở thành thói quen đối với mỗi em. Các em luôn tự giác trong học tập, sách
vở luôn giữ sạch đẹp. Phong trào “vở sạch - chữ đẹp” của lớp luôn được đánh
giá cao. Vở viết của học sinh đảm bảo chất lượng, chữ viết đúng mẫu, tốc độ
viết đúng quy định. Là lớp dẫn đầu chất lượng học sinh viết chữ đẹp toàn
14


trường. Bản thân giáo viên khi dạy cũng thấy hứng thú, say sưa nâng cao chất
lượng giờ dạy tốt hơn.
- Trong hội thi triển lãm Vở sạch chữ đẹp do PGD&ĐT tổ chức. Lớp tôi
chủ nhiệm có học sinh tham gia bộ vở triển lãm đó là em: Nguyễn Thị Huyền
Trang, trong quá trình học bài và viết bài ở lớp em Huyền Trang cũng như bao
học sinh khác của tôi các em đều có ý thức viết chữ đẹp, giữ vở sạch vì thế bộ
vở của em đạt giải nhì trong hội thi triển lãm vừa qua. Bản thân tôi cũng rất vui
mừng, phấn khởi càng thấy hứng thú say sưa trong công tác chuyên môn của
mình.

* Bài học kinh nghiệm:
Tập viết là một phân môn có tầm quan trọng và việc rèn luyện cho học
sinh những phẩm chất đạo đức tốt như tính cẩn thận, tinh thần kỷ luật, óc thẩm
mĩ. Vì vậy:
- Khi học sinh luyện viết chữ, giáo viên cần phải chú ý uốn nắn để các em
cầm bút đúng và ngồi viết đúng tư thế. Giáo viên cần chú ý đến mối quan hệ
giữa đọc và viết, nếu học sinh đọc đúng thì dẫn đến việc viết đúng sẽ có hiệu
quả. Trong quá trình dạy tập viết, nhất là tập viết những chữ dễ lẫn, giáo viên
cần đọc mẫu cho học sinh phát âm rồi mới viết.
- Giáo viên phải có ý thức viết chữ đẹp, đúng mẫu, rõ ràng, giúp học sinh
tự nắm được thứ tự viết các nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong
một chữ nhằm bảo đảm yêu cầu viết liền mạch, viết nhanh.
- Khi học sinh viết sai, giáo viên chữa nét chữ hoặc chữ cái sai thì không
được viết đè lên chữ của học sinh mà viết chữ đúng ở bên cạnh.
- Dạy xong một bài thì cho học sinh luyện tập ngay để học sinh dễ nhớ,
phần luyện viết trên bảng chọn những chỗ khó mà học sinh hay viết sai để luyện
cho học sinh viết.
- Giáo viên phải chú ý đến từng đối tượng trong lớp, chú ý đến học sinh
đọc yếu, viết chậm, hay viết sai để giúp đỡ các em, uốn nắn các em từng bước
một.
- Bàn ghế học sinh cũng là một vấn đề quan trọng trong môn tập viết. Tỉ lệ
chiều cao của bàn và ghế phải tương xứng để khi ngồi khuỷu tay của các em
ngang với mặt bàn. Bàn và ghế cũng không quá cao hoặc quá thấp, nó phải phù
hợp với độ cao trung bình của từng đối tượng học sinh, tạo dáng ngồi thẳng
đứng, tránh cong vẹo cột sống.
- Tổ chức tốt các trò chơi trong giờ tập viết, song phải phù hợp với từng nội
dung bài dạy.
- Cuối cùng là giáo viên phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, nghiêm khắc.
Khen chê kịp thời đối với từng học sinh vì mỗi chữ viết của các em là một phát
minh, mà học sinh lớp 3 lại thích được khen, hiểu được tâm lý học sinh thì bài

dạy sẽ đạt được kết quả cao.

15


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
“Chữ viết là nết người” cho nên rèn chữ viết cho học sinh là một việc làm
hết sức quan trọng và cần thiết. Rèn chữ viết để học sinh có công cụ học các
môn học khác đồng thời cũng là quá trình rèn luyện một số đức tính cho học
sinh theo mục tiêu cấp học. Muốn cho học sinh ngày càng viết chữ đẹp, rõ ràng,
đúng mẫu, thì sự kết hợp giữa phụ huynh học sinh với giáo viên chủ nhiệm là
hết sức quan trọng, vì khi trình độ dân trí ngày càng cao, thì phụ huynh sẽ càng
quan tâm chăm sóc đến con em của họ. Nếu biết phối hợp tốt sẽ giúp rất nhiều
cho việc nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh nhất là học sinh lớp 3.
Đối với học sinh, việc viết chữ đẹp có ý nghĩa vô cùng quan trọng, vì đó là
sản phẩm đầu tiên của các em khi bước vào lớp đầu cấp tiểu học. Qua việc tổ
chức thực hiện, nhiều giáo viên đã rất thành công trong việc giáo dục tình cảm
thẩm mỹ, yêu quý, trân trọng vẻ đẹp về chữ viết của học sinh.
Đối với giáo viên phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, nghiêm khắc. Khen chê
kịp thời đối với từng học sinh vì mỗi chữ viết của các em là một phát minh, mà
học sinh lớp 3 lại thích được khen, hiểu được tâm lý học sinh thì bài dạy sẽ đạt
được kết quả cao.
3.2 Kiến nghị:
- Đối với nhà trường:
+ Tham mưu với địa phươngbổ sung và thay thế ngồi cho học sinh được
đúng quy cách.
+ Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên và học sinh nhất là bảng có sẵn
dòng kẻ để phục vụ việc học và dạy Tập viết được thuận lợi.
- Đối với giáo viên:

+ Tăng cường rèn chữ viết cho học sinh phối kết hợp với gia đình thường
xuyên chấm và sửa lỗi cho học sinh.
Vì thời gian nghiên cứu, trình độ, khả năng thâm nhập thực tế còn hạn hẹp
nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý chân
thành của các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Quảng Xương, ngày 6 tháng 4 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
NGƯỜI VIẾT
Dương Thị Thuỷ
16


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG XƯƠNG

TRƯỜNG TIỂU HỌC QUẢNG LỢI
_________________________

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP RÈN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH LỚP 3

Người thực hiện: Dương Thị Thủy
Chức vụ:
Giáo viên

Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Quảng Lợi
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt

QUẢNG XƯƠNG, NĂM 2019

17


MỤC LỤC
Mục

Tên mục

Trang

1.

Mở đầu

1

1.1

Lý do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu


2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4

Phương pháp nghiên cứu

2

2.

Nội dung Sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1

Cơ sở lý luận

3

2.2

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh

nghiệm

4

2.3

Các giải pháp sử dụng để rèn chữ viết cho học sinh lớp 3

6

2.4

Hiệu quả của rèn chữ viết cho học sinh lớp 3

14

3.

Kết luận, kiến nghị

16

3.1.

Kết luận

16

3.2.


Kiến nghị

16

18


CÁC SKKN ĐÃ ĐƯỢC CÁC CẤP CÔNG NHẬN

Thứ
tự
1
2
3

Tên Sáng kiến kinh nghiệm
Một số giải pháp nâng cao chất
lượng công tác chủ nhiệm lớp
Một số giải pháp nâng cao chất
lượng công tác chủ nhiệm lớp
Biện pháp rèn kỹ năng viết chữ đẹp,
giữ vở sạch cho học sinh lớp 3

Năm
công
nhận
2011 2012
2011 2012
2014 2015


Cấp
công
nhận

Loại

Huyện

B

Tỉnh

B

Huyện

C

19



×