Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN biện pháp giúp học sinh khối lớp 6 học tốt môn âm nhạc ở trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.97 KB, 19 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Âm nhạc là vốn văn hóa lâu đời mang đậm đà bản bản sắc dân tộc, khi âm
nhạc tồn tại thì nhu cầu thưởng thức âm nhạc là động lực thúc đẩy khả năng
sang tạo của mỗi con người.Đối với học sinh, âm nhạc còn là phương tiện giáo
dục tích cực góp phần hình thành ở học sinh một tâm hồn trong sang, thị hiếu
âm nhạc lành mạnh, tư duy sắc sảo, lòng khát khao sáng tạo, giàu tình cảm luôn
tự tin và có cái nhìn đẹp hơn, hoàn thiện hơn nhằm giúp các em giảm bớt căng
thẳng cho những tiết học sau .
“Phương châm giáo dục phát huy tính tích cực chủ động, tư duy sáng tạo
của người học, bồi dưỡng người học tính tự học, khả năng thực hành, lòng đam
mê học tập và ý chí vươn lên” - Luật Giáo dục năm 2005 điều 5 dã quy định với
mục tiêu giáo dục phổ thông là “giúp học sinh phát triển về đạo đức, trí tuệ, tính
thẫm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo về Tổ quốc”
Chương trình giáo dục phổ thông ban hành kèm theo quyết định số
16/2006/ QĐ-BGDĐT ngày 5/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo Dục và Đào tạo
cũng đã nêu phải phát huy tính tính cực, chủ động sáng tạo của học sinh, phù
hợp với đặc trưng môn học, đặc biệt đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp
học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiên thức và thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú và trách nhiệm học tập của học sinh”
Muốn cho học sinh, nhất là học sinh THCS có những tính tính cực, tự
giác, chủ động, tư duy sang tạo có năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say
mê học tập và ý chí vươn lên thì đòi hỏi người giáo viên phải có một phương
pháp dạy học đạt hiệu quả cao trong từng bài và từng tiết dạy đối với các môn
học nói chung và môn âm nhạc nóí riêng.
Thông qua việc học ở trường THCS nói chung và khối lớp 6 nói riêng,
môn âm nhạc là một trong những phương tiện hiệu qủa nhất đê thể hiện nhiệm


vụ giáo dục đạo tạo thẩm mĩ cho học sinh nhằm góp phần giáo dục toàn diện
cho học sinh theo mục tiêu đào tao, tạo cơ sở hình thành nhân cách con người
mới. tuy nhiên âm nhạc trong nhà trường THCS với tư cách là một môn học có
mức độ nhất định về mục đích và nội dung, song mục đích của việc dạy và học
môn âm nhạc trong nhà trường phổ thông là giáo dục văn hóa âm nhạc cho học
sinh nhằm trang bị cho các em những kiến thức sơ giản các kỹ năng nhằm tạo
điều kiện cho khả năng cảm thụ, hiểu và thể hiện nghệ thuật âm nhạc, khơi dậy
ở các em những khả năng sang tạo trong hoạt động âm nhạc, cũng cố thêm về
1


tình cảm đạo đức, về niềm tin thị hiếu nghệ thuât và nhu cầu âm nhạc
Thông qua những phương tiện nghệ thuật âm nhạc để bồi dưỡng khả năng
nhận thức, phát triển tư duy, óc sang tạo góp phần cùng các môn học khác phát
triển năng lực trí tuệ cho học sinh, bồi dưỡng năng khiếu nghệ thuật,đẩy mạnh
phong trào văn nghệ quần chúng làm cho không khí của nhà trường thêm vui tươi
lành mạnh. Từ mục tiêu giáo dục và những lí do chung của môn học Âm nhạc nói
trên, bản thân tôi nhận thấy đó là một hướng đi và là một phương pháp giáo duc
đung đắn mang tính đặc thù cuả việc giáo dục cái hay cái đẹp giáo dục tình cảm,
thẩm mĩ âm nhạc góp phần quan trọng vào việc hình thành nhân cách toàn diện
của con người mới: Đức-Trí-Thể -Mĩ .Trong nghệ thuật âm nhạc, sự sáng tạo của
mỗi cá nhân đóng vai trò cực kì quan trọng. Sáng tạo ở nhiều mức độ có thể phát
trển từ những ý tưởng đã có, có thể là thay đổi hệ thống nguyên tắc.
Yêu cầu “Coi trọng đúng mức” giáo dục thẩm mĩ, giáo dục âm nhạc là
mặt giáo dục đến nay vẫn còn yếu và thiếu, đòi hỏi chúng ta hơn lúc nào hết, lúc
này phải đặt mạnh vấn đề không chỉ là triển khai rộng khắp mà là tổ chức học
tập môn âm nhạc một cách có kết quả ở trường phổ thong nhất là ở trường
THCS làm cho âm nhạc đích thực đi vào các em, làm cho các em yêu thích, và
hơn nữa, còn tham gia tích cực vào việc sáng tạo nên những cái hay cái đẹp
trong âm nhạc, bằng âm nhạc và qua âm nhạc.

Hiện nay, bên cạnh những tiến bộ ở ngoài xã hội và trong nhà trường,
cũng còn kèm theo những cái lạc hậu, chưa hay, chưa đẹp. Chúng đan xen, tồn
tại đấu tranh va chạm hàng ngày. Có lúc cái lạc hậu chưa hay, chưa đẹp, còn có
nhiều lấn lướt. Riêng về mặt thẩm mĩ, cũng có không ít những biểu hiện về thị
hiếu thấp kém, lố lăng, thiếu văn hóa, phản thẩm mĩ, không hay không đẹp. Điều
đó nếu không quan tâm, có nguy cơ dẫn đến một hiện tượng tâm lý là sự thờ ơ,
tê liệt những tình cảm thẩm mỹ, đạo đức, quen và không còn khả năng phản ứng
nhạy bén trước cái hay, cái dở và dần dần không còn thấy chính cái đó là cái
không hay, là cái dở nữa.
Chính bệnh "tê liệt" tình cảm thẩm mỹ - đạo đức này (trong đó có sự tê
liệt tình cảm say mê, ham thích những cái hay, cái đẹp âm nhạc). Là bệnh cần
trước tiên được chữa trong việc giáo dục đào tạo con người.
Học sinh khối lớp 6 ở trường THCS đang trong thời kỳ phát triển nhanh
về thể chất, tâm sinh lý. Giai đoạn này các em có nhiều ước mơ, suy nghĩ về
cuộc sống. Trong quá trình học âm nhạc, đây là giai đoạn rất thích hợp để phát
huy tính sáng tạo của học sinh.
Xuất phát từ những lý do và niềm hứng thú đó, cá nhân đi vào nghiên cứu
một đề tài hết sức lý thú và không có tham vọng gì hơn ngoài việc trình bày
những kinh nghiệm trong mấy năm qua đứng trên bục giảng, giảng dạy bộ môn
âm nhạc. Việc đi vào tìm hiểu, đánh giá việc dạy và học môn Âm nhạc là điều
2


cần thiết, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Tõ thùc tÕ nh vËy xuất phát từ
những lí do khách quan, chủ quan trên tôi xin mạnh dan nghiên cứu đề tài “Biện
pháp giúp học sinh khối lớp 6 học tốt môn Âm nhạc ở trường THCS".
1.2 .Mục đích nghiên cứu
Mục đích giáo dục âm nhạc bao gồm những mục tiêu yêu cầu giáo dục cụ thể, là
sự phản ánh kết quả mong muốn sau một quá trình giáo dục - dạy học. Kết quả
ấy cũng chính là mô hình hay kiểu nhân cách cần hình thành, kiểu tập thể cần

xây dựng ở học sinh, thông qua môn học âm nhạc. Có ba mức độ từ thấp lên cao
biểu hiện của học tập tích cực là: Bắt chước - Tìm tòi - Sáng tạo. Sẽ thiệt thòi
cho các em về nghệ thuật âm nhạc nếu giáo viên không tạo điều kiện để học sinh
học tập, rèn luyện và thể hiện sự sáng tạo của mình. Môn Âm nhạc ở THCS nói
chung và khối lớp 6 nói riêng gồm ba phân môn là: Học hát, tập đọc nhạc, nhạc
lý và âm nhạc thường thức. Vậy phải dạy như thế nào để phát huy được tính
sáng tạo của học sinh trong âm nhạc ?
Giúp học sinh hát đúng, tập hát diễn cảm và bước đầu tập luyện một số kỹ
năng tập nhạc, giúp các em hiểu biết về một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu và
một vài sinh hoạt âm nhạc trong đời sống xã hội, cung cấp cho các em thêm một
số kiến thức mang tính văn hoá âm nhạc đây cũng là luyện kĩ năng sống cho các
em cần thiết, là cơ sở thực tiễn, hình thành nhân cách cho các em.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi sang kiến này, hướng vào đối tượng là học sinh lớp 6, trọng tâm
giúp học sinh khối lớp 6 học tốt môn Âm nhạc
1.4 .Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp dạy hát trong chương trình Âm nhạc THCS lớp 6.
- Thông qua thực hành để dạy lý thuyết, lấy lý thuyết để củng cố kỹ năng thực
hành
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Môn học nào cũng có khả năng gây hứng thú cho học sinh. Âm nhạc cũng là
nguồn cảm hứng cho nhiều người. Tạo cho các em hứng thú trong học tập môn
âm nhạc không chỉ nâng cao hiệu quả dạy học mà còn làm cho các em vui tươi
phấn khởi thoải mái về tinh thần. Từ thực tế giảng dạy âm nhạc trong những
năm qua tôi xin đưa. Biện pháp giúp học sinh khối lớp 6 học tốt môn Âm nhạc .
Thực chất của việc học tập là chuổi vấn đề được đặt ra, được nhận thức
rồi được đặt ra và được ra mục tiêu ở mức độ cao hơn, đặc trưng của học môn
âm nhạc chủ yếu là thực hành, thực hành là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt quá trình
dạy và học. Thông qua thực hành để dạy lý thuyết, lấy lý thuyết để củng cố kỹ

năng thực hành trên cơ sở sử dụng thời gian trên lớp một cách tối ưu (tránh thời
3


gian chết) để tất cả học sinh được nhìn, nghe và luyện tập nhiều. Thực tế cho
thấy nếu trong một tiết học, giáo viên đặt ra nhiều câu hỏi vừa sức đối với học
sinh, học sinh dể hiểu, dể nhớ, hay cho các em nghe hay tự thể hiện nhiều thì
học sinh sẽ rất có hứng thú học tập và giờ dạy sẽ đạt kết quả cao hơn.
Với tư cách là giáo viên dạy môn âm nhạc ở trường THCS, bản thân cố gắng
vận dụng các phương pháp tối ưu nhất đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng. Bên cạnh đó, bản thân luôn bám sát nội dung chương trình, sách giáo
khoa ở bộ môn âm nhạc lớp 6. Chương trình sách giáo khoa về cơ bản là phù
hợp với đối tượng học sinh ở từng khối lớp. Nếu giáo viên là người hiểu rõ mục
tiêu môn học, biết cách tổ chức tiết dạy và có phương pháp phù hợp với từng tiết
dạy thì nội dung bài học sẽ trở nên nhẹ nhàng, hấp dẫn. Ngược lại, nếu giáo viên
chưa nắm được mục tiêu môn học, coi môn học hoàn toàn là môn năng khiếu thì
sẽ dẫn đến tình trạng dạy môn học này như dạy trong các trường năng khiếu
(chuyên nghiệp), yêu cầu quá cao về các kỹ năng thực hành, biến nội dung các
bài học trở nên quá phức tạp và điều tất yếu là dẫn đến quá tải.
Để khắc phục tình trạng trên, khi thực hiện chương trình về bộ môn âm
nhạc, trước hết giáo viên cần nắm vững mục tiêu của môn học, đó là giáo dục
thẩm mỹ, để giúp học sinh hiểu biết cái đẹp, cảm nhận cái đẹp và sáng tạo cái
đẹp nói chung chứ không chỉ đơn thuần là truyền đạt kiến thức và kỹ năng về
âm nhạc. Điều mà giáo viên đặc biệt lưu tâm, đặc biệt chú ý đó là giáo dục cho
học sinh những tri thức cần thiết về cái hay, cái đẹp, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ
lành mạnh, rèn luyện cho học sinh có hiểu biết và thể hiện tính thẩm mỹ trong
cuộc sống thông qua việc học môn âm nhạc. Như Các Mác đã nói: "Con người
phải biết xây dựng cuộc sống theo quy Luật của cái đẹp".
Trên quan điểm mở rộng vốn hiểu biết về âm nhạc Việt Nam, góp phần bồi
dưỡng tình cảm đạo đức, trí tuệ, tạo không khí vui tươi, lành mạnh, làm

phong phú thế giới tinh thần, nhằm phát triển hài hoà, toàn diện nhân cách
học sinh. Ưu điểm của học sinh trung học cơ sở là luôn sẵn sàng với mọi
hoạt động học tập, dễ thích ứng với hoạt động học tập, cũng như hoạt động
tập thể, dễ bị lôi cuốn theo những hoạt động có hình thức hấp dẫn, sôi nổi.
Ưa thích tìm tòi, khám phá bài học bằng những hình thức mới mẻ, mà qua
đó phát huy được tính tích cực hoạt động của tư duy, tính tự lập, tự suy nghĩ.
Các em có phản xạ nhanh nhạy với âm nhạc, ở độ tuổi này các em có khả
năng ghi nhớ, thực hiện có chủ định, có hệ thống, hướng sự chú ý vào những
điều có nội dung, có ý thức tư duy. Quan trọng là các em rất thích hoạt động âm
nhạc, chính ở độ tuổi này, các em có thể thu nhận những cơ sở của giáo dục
thẩm mĩ, có thể giữ được những cảm xúc, ấn tượng về cái đẹp trong cuộc đời,
4


hiểu biết và đánh giá nghệ thuật, hướng tới sáng tạo trong nghệ thuật, tự chế tạo
các nhạc cụ dân tộc bằng vật liệu có sẵn ở địa phương như: Tre, nứa, vỏ dừa,
quả bầu khô.
Học sinh THCS từ khối lớp 6, đây là lứa tuổi có nhiều thay đổi về đặc
điểm tâm sinh lý, các em bắt đầu có sự e ngại, chất giọng cũng có sự thay đổi,
có em đã thể hiện giọng điệu của người lớn, sự hồn nhiên của trẻ em đã có sự
giảm sút. Bên cạnh đó sự phát triển mạnh mẽ của các dòng nhạc giải trí cũng
như nước ngoài vì vậy, các em hiểu âm nhạc theo cách nhìn bắt chước người lớn
hoặc theo các thị hiếu của thị trường. Một số em đã tỏ ra không thích hay còn e
ngại khi trình bày một bài hát về thể loại thiếu nhi trước tập thể hoặc những chỗ
đông người và trước các bạn cùng lớp cùng lứa tuổi vì vậy việc này có thể được
xem là cổ hủ hay là không cập nhật với thời đại.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sang kiến kinh nghiệm
Trong quá trình giảng dạy, bản than tôi nhận thấy những thuận lợi, khó
khăn như sau.
2.2.1. Về phía nhà trường

a) Thuận lợi:
Âm nhạc là một môn học độc lập trong chương trình THCS. Dạy và học
nghiêm túc, có kiểm tra, thi đánh giá cuối năm và kết quả là một trong những
tiêu chuẩn để xét lên lớp hay tốt nghiệp bậc học.
- Nhà trường và Ban giám hiệu quan tâm thường xuyên.
- Nhà trường có kết nối mạng Internet thuận lợi cho việc tìm kiếm thông
tin phục vụ giảng dạy.
- Giáo viên nắm chắc về chuyên môn, tích cực tìm tòi, nghiên cứu những
phương pháp mới để vận dụng trong quá trình giảng dạy.
b) Khó khăn
- Cơ sở vật chất cho việc dạy và học âm nhạc của nhà trường chưa đầy đủ,
ngoài đàn Organ (không có giá trị sử dụng). Nhà trường chưa có phòng học chức
năng, tranh ảnh để phục vụ cho việc dạy học bộ môn âm nhạc còn thiếu .
- Sách đọc thêm và các tài liệu tham khảo khác rất hiếm. Giáo viên phải
tự tìm tài liệu, sưu tầm đồ dùng dạy học. Trong khi đó yêu cầu của bộ môn lại
cần phải có những trang thiết bị hiện đại (Video, đài đĩa.... ) để phục vụ cho việc
dạy và học.
2.2.2. Về phía học sinh
a) Thuận lợi:
Học sinh ngoan, đa số các em rất yêu thích môn âm nhạc, đặc biệt là phân
môn hát. Học sinh cảm nhận giai điệu các bài hát khá tốt, thực hiện các bài hát
5


với đàn hoặc đĩa tương đối tốt.
b. Khó khăn
Đối với HS của trường trên địa bàn nói riêng và học sinh huyện Thọ
Xuân nói chung đa phần các em là con em nông thôn, điều kiện chưa được đầy
đủ, việc học thêm các môn văn hoá khác đôi khi còn chưa đủ điều kiện thì làm
gì nói đến chuyện học thêm các môn khác như âm nhạc – mỹ thuật… HS ít được

quan tâm, vì thế hiểu biết về âm nhạc đang còn hạn chế, chưa sâu rộng, không
kích thích các em học tập. Đa phần HS bị chi phối, ảnh hưởng về các môn học
khác , phần nào sao nhãng việc học môn âm nhạc. Một nguyên nhân khách quan
khác cũng không kém phần quan trọng liên quan đến hiệu quả và chất lượng bộ
môn đó là thời gian dành cho bộ môn quá ít (1tiết/ tuần).
Mặt khác, đa số các bậc Phụ huynh học sinh chỉ quan tâm đến các môn
học như Văn, Toán, ... mà chưa quan tâm đến bộ môn Âm nhạc
2.2.3. Kết quả của thực trạng trên.
Để có được kết quả của thực trạng trên, vào đầu năm học, tôi đã tiến hành
khảo sát thực tế bằng cách điều tra học sinh theo những câu hỏi nhỏ sau chúng ta sẽ
thấy rõ thực trạng học môn Âm nhạc và tâm trạng khi các em học Âm nhạc ra sao.
+ Em thấy môn âm nhạc cần thiết trong cuộc sống của mình không ?
+Em có thích học môn âm nhạc không ?
Kết quả điều tra cho ta thấy tầm quan trọng của môn âm nhạc và năng lực dạy
nhạc.
Kết quả thu được như sau:
Tổng số học
sinh khối 6
67

Cần thiết
SL
22

%
32.8%

Không cần

Thích


thiết
SL
45

Không
thích

%

SL

%

SL

%

67.2%

15

22.4%

52

77.6%

Sau khi tiến hành khảo sát bằng việc diều tra sở thích học âm nhạc của
học sinh, tôi tiến hành kiểm tra năng lực âm nhạc của các em với nội dung về

phần nhạc lý, tập đọc nhạc, hát
Kết quả thu được như sau:
Tổng số học sinh

Số học sinh đạt môn âm

Số học sinh chưa đạt môn

nhạc ở đầu kỳ I
âm nhạc ở đầu kỳ I
Số lượng
Tỉ lệ
Số lượng
Tỉ lệ
45%
55%
67
30
37
Từ thực trạng và kết quả trên, cho thấy rằng việc học sinh cảm thấy sự
cần thiết môn âm nhạc dẫn đến việc yêu thích và cũng cho thấy chất lượng bộ
khối 6

6


môn. Vì vậy, ở đề tài này tôi trình bày biện pháp giúp học sinh khối 6 học tốt
môn âm nhạc.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Vấn đề tạo hứng thú cho học sinh trong tiết học âm nhạc đi đôi với hiệu quả và

có tính giáo dục cao. Học sinh có thể hứng thú, nhưng hiệu quả giáo dục mới là
mục đích mà người dạy cần đạt
- Xây dựng và phát triển năng lực Âm nhạc của học sinh thông qua việc
học hát; nhạc lý - tập đọc nhạc; Âm nhạc thường thức được thể hiện trong sách
giáo khoa.
- Qua việc hướng dẫn học hát, học nhạc, giáo dục cho các em có tình cảm,
đạo đức trong sáng, lành mạnh, hướng tới những điều thiện và cái đẹp trong
cuộc sống.
- Xây dựng khả năng tham gia hoạt động âm nhạc giúp cho việc phát triển
toàn diện cân bằng và hài hoà.
- Phát hiện những học sinh có năng khiếu về âm nhạc, động viên và giúp
các em phát triển về năng khiếu của mình.
- Giúp học sinh hát đúng, tập hát diễn cảm và bước đầu tập luyện một số
kỹ năng tập nhạc, giúp các em hiểu biết về một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu và
một vài sinh hoạt âm nhạc trong đời sống xã hội, cung cấp cho các em thêm một
số kiến thức mang tính văn hoá âm nhạc.
Giải Pháp 1.
2.3.1. Phương pháp dạy bài hát
Đối với việc dạy bài hát: Khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học
sinh.
* Giáo viên:
- Sử dụng đàn, hát nhuần nhuyễn thành thạo.
- Sáng tạo nhiều động tác vận động minh hoạ, nhiều hình thức biểu diễn
bài hát khác nhau.
- Sưu tầm nhiều trò chơi phù hợp, vui và hỗ trợ hiệu quả cho việc dạy hát.
Để học sinh không bị thụ động trong cách lựa chọn tiết tấu cho bài hát,
GV khuyến khích kỹ năng nghe và đánh giá của học sinh bằng cách như sau:
GV thay đổi tiết tấu, tempo hay dịch giọng bản nhạc để học sinh nhận biết và
thực hành.
* Ví dụ 1: Bài hát Tiếng chuông và ngọn cờ.


7


Giáo viên đàn cho HS hát với tiết tấu polka rồi lần lượt chuyển tiết điệu
pasodoble, Chacha, Disco..., yêu cầu học sinh nghe và hát theo nhịp đàn.
? Các em hãy cho biết sự thay đổi tiết tấu mà các em vừa trình bày có phù
hợp với bài hát không?
HS nêu ý kiến dựa vào kỹ năng nghe của bản thân.
* Ví dụ 2: Bài hát Hành khúc tới trường.

GV thay đổi tốc độ của bài hát: Từ tempo 110 xuống 90 hoặc thay đổi tiết
tấu từ Machl sang Beat ballat..
8


Em có nhận xét gì nếu thay đổi tốc độ cũng như tiết tấu cho bài hát như
chúng ta vừa trình bày?
HS trả lời: BH Hành khúc tới trường nếu hát ở tốc độ chậm cũng như tiết
tấu nhẹ nhàng mềm mại sẽ không phù hợp với sắc thái của bài hát vì bài hát có
tính nhịp đi, hùng mạnh .
GV giải thích: Cơ bản một bài hát có thể sử dụng nhiều tiết tấu và tempo
khác nhau tuy nhiên dựa vào tính chất của bài để lựa chọn tiết tấu và tempo phù
hợp như thế mới truyền tải được sắc thái cũng như ý tưởng của tác giả.
Với cách trình bày như vậy chắc chắn từng ngày HS sẽ có những cảm nhận mới
trong mỗi lần hát và nghe hát.
* Học sinh phát biểu cảm nhận về bài hát dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trong học tập, so với bắt chước thì tìm tòi sáng tạo là hình thức cao nhất
thể hiện tính tích cực học tập của HS, hãy bắt đầu khuyến khích các em mạnh
dạn nói lên những cảm nhận của mình về môn học, về bài hát. HS có thể không

ủng hộ ý kiến của GV, của bạn bè, có thể trình bày những ý kiến, tư tưởng của
mình. Đó là cơ sở để có kĩ năng sáng tạo lớn hơn. GV cần tạo điều kiện để HS
tự nhận xét, tự đánh giá, tự cảm nhận để có thể điều chỉnh cách học theo hướng
tích cực.
* Ví dụ:
+ Cách 1:
- Sau khi cho HS nghe hát mẫu và đọc lời ca, GV đặt câu hỏi:
- Em hãy nêu cảm nhận của mình về bài hát Tiếng chuông và ngọn cờ ?
HS sẽ trả lời qua phần gợi mở của GV. VD: Nội dung bài hát nói lên điều
gì ? Giai điệu bài hát như thế nào? Qua bài hát này bản thân em học tập được gì?
Em sẽ phải làm gì để xứng với những điều mà nội dung bài hát muốn
chuyển tải tới…?
Có thể HS trả lời chưa được trôi chảy hoặc ý tứ chưa được sâu sắc song
qua nhận xét và khắc hoạ của giáo viên thì học sinh từ chỗ hiểu nội dung bài hát
còn mơ hồ sẽ hiểu sâu sắc hơn và đặc biệt là sẽ có trách nhiệm hơn trong việc
học tập cũng như rèn luyện
+ Cách 2:
- Học xong bài hát, GV chia lớp thành 2,3 nhóm. Lần lượt từng nhóm viết
lời giới thiệu cho bài hát. GV nhận xét, chấm điểm.
+ Lời giới thiệu nhóm 1:
Trẻ em trên trái đất đều mơ ước được học hành, được sống trong tình yêu
thương của cha mẹ, thầy cô và bạn bè - một cuộc sống yên vui, hòa bình, hữu
nghị đoàn kết và đầy tình thân ái giữa các dân tộc trên toàn thề giới. Chúng em
9


mong sao trên trái đất sẽ không còn chiến tranh, không còn tiếng đạn bom đau
thương, chia lìa. Hành tinh của chúng em sẽ tràn ngập màu xanh của hoà bình và
hạnh phúc.
Hôm nay chúng em xin được gửi đến thầy giáo và các bạn ca khúc Tiếng

chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm Tuyên) đó là tất cả những gì mà tuổi thơ
trên toàn thế giới của chúng em hằng mong ước!
+ Lời giới thiệu nhóm 2:
Bác Hồ đã từng nói: “Trẻ em như búp trên cành - Biết ăn ngủ, biết học
hành là ngoan”. Vậy mà nay trên thế giới vẫn đang còn hàng triệu trẻ em còn
phải chịu nhiều vất vả khổ cực, không đủ ăn đủ mặc không được đến trường do
chiến tranh gây nên. Chúng ta cần phải làm gì để giúp đỡ những bạn ấy, làm gì
để không còn cảnh chiến tranh chia lìa? Các bạn ơi chúng ta hãy hát vang bài ca
Tiếng chuông và ngọn cờ (Nhạc và lời: Phạm Tuyên) cầu mong cho mọi người
trên thế giới được sống trong hoà bình hữu nghị và đầy tình nhân ái !
Hướng dẫn học sinh biểu diễn bài hát.
Thông thường mỗi bài hát giáo viên đều hướng dẫn học sinh hát kết hợp
vận động giúp cho các em tự nhiên khi hát. Tuy nhiên, ở một số bài GV có thể
dạy HS một vài động tác tay hoặc múa đơn giản, phù hợp để các em có thêm
những lựa chọn khi biểu diễn bài hát.
* Ví dụ :
Với bài hát Đi cấy, GV hướng dẫn một số động tác múa đèn của Thanh
Hóa hoặc bài hát Vui bước trên đường xa GV hướng dẫn một vài động tác nhẹ
nhàng uyển chuyển… Như vậy những điều đó sẽ không chỉ giúp cho cách trình
bày bài hát thêm sinh động mà các em còn được tìm hiểu về những điệu múa
mang tính chất đặc trưng vùng miền hay các động tác vui nhộn của tân nhạc rất
cuốn hút và đặc sắc.
* Theo giai điệu của bài Đi cấy– Dân ca Thanh Hoá ( Lớp 6)
Với bản thân tìm tòi sưu tầm các lời mới của các em và sau đó sử dụng phần
mền soạn nhạc Encore 5 để soạn lời mới cho bài hát do các em đặt lời mới và sử
dụng nhạc cụ đàn cho các em nghe ngoài ra có thể chọn những bài làm tốt tập
hát cho các em ngay tại lớp làm cho các em cảm nhận được việc làm của mình
và rất thích hoạt động này, các em thấy tự hào, hãnh diện khi được hát trước lớp
bài hát do mình đặt lời lại có cả phần nhạc soạn.
Sau đây tôi đưa ra bài do các em đặt lời


10


Thông qua những tiết học như vậy HS sẽ có những áp dụng sáng tạo trong
những lần hội diễn văn nghệ trong nhà trường, các hoạt động ngoại khoá, biết
cách dàn dựng và sử dụng những động tác múa phù hợp với thể loại bài hát…
Khi học GV đưa ra yêu cầu HS tự chọn nhóm 4 - 5 HS và biểu diễn bài
hát có động tác phụ hoạ. GV không nên áp đặt các em vào từng nhóm, để các em
tự chọn sẽ làm HS phấn khởi, vui thích khi được làm việc trong nhóm phù hợp
về sở thích, về âm vực, chất giọng…
- HS sẽ tự chọn nhóm có giọng hát thích hợp về âm vực để trình bày bài
hát.
- HS tự chọn cách trình bày bài: Các em có thể trình bày bài một hoặc hai
lần, có mở đầu có kết thúc, mỗi câu hát sẽ do em nào đảm nhiệm hay cả nhóm
cùng hát. Bài hát gồm mấy đoạn, tính chất như thế nào? (GV có thể gợi ý trước).
Ngoài ra, HS có thể chọn để sử dụng các cách hát như lĩnh xướng, hoà giọng,
đối đáp…làm thế nào để phù hợp với nội dung cũng như cấu trúc bài hát. Như
vậy hình thức trình bày bài hát của mỗi nhóm sẽ rất đa dạng, phong phú, giàu
tính sáng tạo.
- HS tự chọn động tác phụ hoạ cho bài hát: HS có thể nghĩ ra động tác phù
hợp với nội dung bài hát và tập trình bày cho đều, đẹp (hát kết hợp vận động
hoặc múa, hát kết hợp một vài động tác diễn xuất).
- Tuy nhiên để sự sáng tạo đạt hiệu quả cao, GV cần tạo điều kiện về thời
gian cho HS chuẩn bị. Thông thường GV thông báo trước một tuần để HS chọn
nhóm và tập cách trình bày, biểu diễn bài hát. (Không thể vừa luyện tập vùa thể
hiện trong 1 tiết học)
* Chơi trò chơi.

11



- Sau khi học sinh hát đúng giai điệu của bài hát GV hướng dẫn học sinh
chơi trò chơi: Giáo viên làm kí hiệu tay theo các chữ cái A, U, I. Khi GV đưa tay
theo kí hiệu, học sinh hát giai điệu chỉ với các chữ cái theo đúng kí hiệu GV
hướng dẫn trước lớp.
* Ví dụ:
Bài hát: Vui bước trên đường xa
Câu 1, GV đưa tay kí hiệu chữ A, HS hát "A" theo giai điệu của câu 1. “À
à, à à a à á a”
Câu 2, Gv đưa tay kí hiệu chữ U, HS hát "U" theo giai điệu của câu 2.
“U ú u u ù ụ ù u u ù u”.
GV tiếp tục thay đổi các kí hiệu khác cho đến hết bài hát.
Trò chơi này giúp các em thay đổi không khí học tập, đồng thời để kiểm
tra việc ghi nhớ giai điệu của HS .
- Trò chơi "Ai nhanh tai hơn”.
Ví dụ sau khi học xong bài hát giáo viên sử dụng đàn đánh giai điệu một
tiết nhạc bất kì cho học sinh nghe và hát lời ca câu nhạc đó. Trò chơi này giúp
HS mau thuộc lời ca, phát triển tai nghe
Việc kết hợp tổ chức một trò chơi trong giờ học hát vừa giúp học sinh
nắm kiến thức chắc hơn, sâu hơn, nhanh hơn, vừa tạo ra không khí sôi nổi cho
HS, tạo hứng thú cho HS học môn Âm nhạc cũng như học các môn học khác.
Giải Pháp2
3.2.2. Đối với phương pháp dạy nhạc lí:
Giáo viên cần tránh tiết học nặng nề về lí thuyết hàn lâm kinh viện. Muốn
tiết học không khô cứng giáo viên cần thực hiện hai nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc thứ nhất: “ Từ thực tiễn rút ra khái niệm hoặc định nghĩa về
lí thuyết”.
Ví dụ: Muốn định nghĩa về nhịp 2/4 , giáo viên cần hát trích đoạn và
đánh nhịp một số bài hát viết ở nhịp 2/4 và gợi ý để học sinh trả lời về định

nghĩa nhip 2/4 . Giáo viên củng cố , bổ sung và đưa ra định nghĩa về nhịp 2/4.

+ Nguyên tắc thứ hai: “ Lấy cái học sinh đã biết để đi đến cái học sinh
chưa biết”.
Ví dụ: Khi dạy về trường độ của âm thanh, giáo viên cho học sinh nghe
trích đoạn một bài hát quen thuộc và gõ phách để học sinh nhận ra trường độ của

12


âm thanh có độ dài ngắn khác nhau. Từ đó đưa ra khái niệm về trường độ của
âm thanh.
Giải Pháp 3
3.3.3. Phương pháp dạy Tập đọc nhạc (TĐN ):
Để học sinh Tập đọc một bài nhạc có hiệu quả. Trước hết giáo viên cần
cho học sinh quan sát bài Tập đọc nhạc và đặt câu hỏi gợi ý để học sinh nhận xét
cấu trúc của bài. Tránh cách dạy thông báo khô khan tẻ nhạt. Giáo viên phải nắm
chắc đặc trưng môn học âm nhạc để có cách dạy cho phù hợp, giờ học âm nhạc
phải là giờ học nghệ thuật hấp dẫn với phương châm: học vui - vui học. Tránh
dạy lý thuyết trừu tượng và dạy tập đọc nhạc nặng nề, căng thắng. Phải vận dụng
mọi phương pháp để cải tiến cách dạy từng phân môn.
Ví dụ :
- Bài TĐN được viết ở thể loại nhịp gì ?
- Về trường độ trong bài có những hình nốt gì ?
- Về cao độ trong bài có những tên nốt gì ?
- Ngoài ra trong bài còn có sử dụng những dấu hiệu gì khác (đã học)?
- Xác định bài TĐN viết ở thang 5 âm hay thang 7 âm, ở điệu thức trưởng
hay điệu thức thứ. Từ đó, cho học sinh luyện đọc khởi động thang âm có sử
dụng trong bài để tạo những âm tựa để học sinh dễ dàng khi đọc nhạc:
+ Thang 5 âm Đô Trưởng : Đô – Rê – Mi – Son – La – ( Đố ).

+ Thang 7 âm Đô Trưởng : Đô– Rê– Mi – Pha – Son– La – Si – (Đố).
+ Thang 5 âm La Thứ : La – Đô – Rê – Mi – Son – (Lá ).
+ Thang 7 âm La Thứ : La –Si –Đô – Rê –Mi – Pha –Son –(Lá).
- Giáo viên đàn giai điệu bài TĐN sắp đọc cho học sinh nghe tư 2-3 lần.
Phân chia bài TĐN thành những câu nhạc hoặc những tiết nhạc nhỏ và
đàn giai điệu từ 3 - 4 lần. Sau đó cho học sinh đọc theo đàn và ghép lại từng câu
theo lối móc xích cho đến khi hết bài.
- Sau khi học sinh đoc đúng giai điệu cả bài, tổ chức cho học sinh đọc
nhạc kết hợp với đánh nhịp và ghép lời ca có trong bài để hát.
- Tổ chức cho học sinh đọc nhạc thi với nhau giữa các tổ, nhóm hoặc cá
nhân. Từ đó giáo viên nhận xét và giúp học sinh sửa chữa những chỗ chưa thể
hiện được (nếu có ).
- Tổ chức trò chơi qua bài TĐN như :Bài TĐN có 4 câu nhạc thì ta đặt
mỗi câu bằng một nguyên âm và yêu cầu học sinh ngân nguyên âm đó theo giai
điệu: Câu 1: nguyên âm ( a ); Câu 2: nguyên âm ( i ); Câu 3: nguyên âm ( u );
Câu 4: nguyên âm ( o )... chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm đọc ngân một câu
ứng với một nguyên âm. Giáo viên nhận xét việc đọc ngân theo nguyên âm giữa
13


các nhóm, nhằm kích thích sự hứng thú học tập của học sinh, hoặc giáo viên có
thể tổ chức trò chơi luyện tai nghe: Giáo viên đàn giai điệu một câu nhạc bất kì
trong bài , yêu cầu học sinh đoán ra và đọc lại câu nhạc đó. Có thể gõ tiết tấu
cho học sinh nhận ra tiết tấu đó giống tiết tấu câu nhạc nào trong bài TĐN vừa
học.
Giải Pháp 4
3.4.4 Phương pháp dạy âm nhạc thường thức (ÂNTT )
- Để tiết học thêm sinh động giáo viên cần chuẩn bị trước ở nhà về tranh
ảnh, vật dụng minh hoạ, đàn, một số bài hát nổi tiếng của các nhạc sĩ có nhiều
đóng góp cho nền âm nhạc Việt Nam hiên đại, hoặc các tác phẩm âm nhạc lớn

của các danh nhân âm nhạc thế giới...Tìm đọc các loại sách nói về lich sử âm
nhạc Việt Nam và của thế giới để làm tư liệu phục vụ cho việc giảng dạy phân
môn.
- Khi dạy giới thiệu về nhạc sĩ, giáo viên cần cho học sinh nghe các bài
hát tiêu biểu hoặc gợi ý cho học sinh trả lời các câu hỏi có liên quan đến nội
dung bài học để tìm hiểu và biết thêm về tiểu sử cũng như thân thế sự nghiệp
của các nhạc sĩ.
- Khi dạy về giới thiệu các nhạc cụ Phương Tây và nhạc cụ của dân tộc
Việt Nam. Về ngoại hình của các loại nhạc cụ, tốt nhất là làm sao để học sinh
thấy được nhạc cụ thật và tìm hiểu tính năng của nó. Nếu không có nhạc cụ thật
thì cần có tranh ảnh phóng to và giáo viên mô phỏng âm sắc và tính năng của
các nhạc cụ đó trên đàn phím điện tử để học sinh hiểu biết sâu hơn.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
2.4.1. Đối với hoạt động giáo dục.
Với sự áp dụng các biện pháp nói trên sau một thời gian nghiên cứu và sử
dụng biện pháp giúp học sinh học tốt môn âm nhạc do bản thân phụ trách. và đã
được kết quả như sau
* Kết quả nghiên cứu
Tổng số học sinh
khối 6
67

Số học sinh đạt môn âm

Số học sinh chưa đạt môn

nhạc ở cuối kỳ I
Số lượng
Tỉ lệ
55

82%

âm nhạc ở cuối kỳ I
Số lượng
Tỉ lệ
12
18%

So với khaỏ sát ban đầu
14


Tổng số học sinh
khối 6
67

Số học sinh đạt môn âm
nhạc ở đầu kỳ I
Số lượng
Tỉ lệ
45%
30

Số học sinh chưa đạt môn
âm nhạc ở đầu kỳ I
Số lượng
Tỉ lệ
55%
37


Đây là một kết quả đáng mừng, điều đáng mừng hơn nữa là cho đến nay
học sinh khối 6 của chúng tôi rất nhiều em học tốt môn âm nhạc đa số học sinh
đều rất hứng thú học tập,
Môn học âm nhạc ở trường THCS mỗi tuần chỉ có một tiết, thật ít ỏi nhưng các
em được làm quen với: Học hát, TĐN, nhạc lí, âm nhạc thường thức là một tác
động lớn vào thế giới tinh thần của các em. Với những phương pháp dạy trên,
trong năm qua đối với việc học âm nhạc ở trường, tôi thấy kết quả chất lượng
đươc nâng lên rõ rệt, các em đã biết trình bày hoàn chỉnh một bài hát (hát kết
hợp vận động nhẹ, biểu diễn) biết cảm nhận về nội dung bài hát, sự hứng thú say
mê trong học tập, tình cảm Thầy - trò luôn gần gũi gắn bó. Việc học tốt trong giờ
học chính khoá đã giúp HS hoạt động tốt trong các hoạt động ngoại khoá.
2.4.2. Đối với bản thân và đồng nghiệp.
Những năm gần đây, bản thân đã suy nghĩ làm thế nào để giảng dạy có
hiệu quả. Đặc biệt khi áp dụng các biện pháp trên, bản thân tôi đem cách dạy
trao đổi với các đồng nghiệp trong tổ, trong cụm thì nhận đưực sự ủng hộ nhất
trí và các tiết dạy của tôi, trong đó có các tiết dạy Học hát, nhạc lí, tập đọc nhạc,
âm nhạc thường thức, đã được nhà trường tiến hành kiểm tra nội bộ cũng như
các tiết dạy đồng nghiệp của nhóm chuyên môn cụm dự đều được đánh giá xếp
loại tốt
2.4.3. Đối với địa phương.
Thúc đẩy phong trào học tập của địa phương.
Nâng cao nhận thức cho người dân về tầm quan trọng cuả môn âm nhac mà lâu
nay vẫn chưa được phụ huynh coi trọng.
3. KẾT LUẬN –KIẾN NGHỊ
3.1 . Kết luận
Từ thực tế giảng dạy, kết quả đạt được qua việc áp dụng các biện pháp nói
trên, bản thân tôi đúc rút ra một số kinh nghiệm như sau:
Để tạo hứng thú đối với học sinh thì trước hết phải gây hứng thú cho học
sinh ngay từ phần mở đầu bài học, phần giới thiệu đề mục mới.
- Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải biết phát huy tính tích cực chủ

động sáng tạo của học sinh.
- Giáo viên cần phải nắm đặc trưng của bộ môn, có phương pháp dạy học
15


linh hoạt sáng tạo, phải tìm mọi cách để cải tiến cách dạy từng phân môn theo
hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh, bổ sung sáng tạo thêm nhiều thủ
pháp sinh động, hấp dẫn, đa dạng hóa cách thức truyền đạt ở mỗi bài học.
- Phương tiện dạy học phải đầy đủ, giáo viên phải biết sử dụng phương
tiện dạy học như một yếu tố gây xúc cảm
- Trong các tiết học phải tạo cho các em sự hứng thú từ đầu đến hết tiết
học, tạo cho các em sự hứng thú vui tươi bởi vì đặc trưng bộ môn đó là học vui vui học, tránh gò ép đối với học sinh.
- Tăng cường các hoạt động âm nhạc trong lớp trong trường bằng hình
thức tổ chức hội thi văn nghệ ngoại khóa.
- Muốn thực hiện những nội dung trên có hiệu quả đòi hỏi mỗi giáo viên
phải không ngừng nâng cao kiến thức, tạo cho mình một trình độ chuyên môn
vững vàng, thường xuyên học hỏi rút kinh nghiệm ở các đồng nghiệp ! Để thực
hiện đào tạo các em học sinh trở thành những người phát triển toàn diện về
:Đức-Trí -Thể -Mĩ…..ngoài việc người thầy phải có năng lực thực sự ra thì việc
khách quan, ngoại cảnh, khuôn viên ,môi trường là những điều tác động lớn đến
các em .
Do đó để tạo điều kiện cho việc dạy –học của thầy trò thuận lợi ,bản thân
tôi là người đứng lớp dạy bộ môn Âm nhạc cần kiến nghị một số vấn đề sau.
3.2.Kiến nghị .
3.2.1. Về phía nhà trường :
-Thường xuyên quan tâm ,giúp đỡ giáo viên và học sinh .
-Trang bị ,bổ sung thêm một số trang thiết bị và tài liệu tham khảo để
phục vụ cho việc giảng dạy bộ môn .
-Đầu tư xây dựng phòng học chức năng để học sinh có không gian hoạt
động nghệ thuật .

3.2.2.Về phía phòng GD và ĐT:
- Tham mưu cho ủy ban nhân dân huyện và cấp trên đầu tư cơ sở vật chất,
hệ thống máy tính, máy chiếu cho các đơn vị trường học để thực hiện tốt nhiêm
vụ dạy hoc .
-Tổ chức nhiều đợt tập huấn ,chuyên đề về bộ môn để giáo viên âm nhạc
có điều kiện giao lưu ,trao đổi kinh nghiệm và phương pháp giảng dạy .
*Kính thưa các đồng nghiệp Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi về
“Một số giải pháp giúp học sinh lớp 6 học tốt môn Âm nhạc ” của những năm
học trước, Năm 2018- 2019 tôi mạnh dạn đưa ra để các đồng nghiệp tham
khảo, những phương pháp cơ bản về cách dạy và học âm nhạc đặc biệt là
phương pháp dạy thực hành áp dụng cho học sinh vì đa phần các học sinh trong
16


tập thể rất thích hoạt động sáng tạo. Các em hứng thú học âm nhạc hơn, thực
hành tự tin hơn và có tiến bộ rõ rệt. Tôi rất mong được sự góp ý trao đổi kinh
nghiệm của các bạn đồng nghiệp cũng như của những người yêu thích môn âm
nhạc, để tìm ra được những phương pháp tối ưu nhất nhằm giúp HS có hứng thú
và ham mê học âm nhạc, từ đó giáo dục thẩm mĩ cho các em, giúp các em hiểu
được cái hay, cái đẹp trong cuộc sống.
Tôi xin chân thành cảm ơn!.
XÁC NHẬN
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 03 năm 2019
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

17



DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa ,sách giáo viên âm nhạc 6-NXB GIÁO DỤC
2. Hướng dẫn chuẩn kiến thức kĩ năng môn Âm nhạc-Bộ giáo dục.
3. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Âm nhạc trường
THCS-NXB GIÁO DỤC

MỤC LỤC
18


Phần
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1

Nội dung
Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.


2.2
2.3
2.4
3
3.1
3.2

Thực trạng của vấn đề
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Kết luận, kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

Trang
1
1
3
3
3
3
3
5
7
14
15
15
16

19




×