Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Một số kinh nghiệm chọn và bồi dưỡng học sinh giỏi môn lịch sử lớp 8,9 ở trường THCS thiệu hòa, thiệu hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (499.29 KB, 23 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Lịch sử là một trong những môn quan trọng trong việc giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức cho HS nói chung và HS THCS nói riêng, bởi qua môn này HS hiểu biết về quá
khứ, cội nguồn của dân tộc, đất nước. Ngoài ra còn giáo dục cho HS ý thức trách nhiệm,
gìn giữ, bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống, ý thức trách nhiệm với bản thân, quê
hương, đất nước. HS học Lịch sử không phải chỉ để biết quá khứ, hay để biết những câu
chuyện đời xưa mà phải biết lấy “chuyện xưa răn đời nay”, “Lịch sử là tấm gương soi”.
Đặc biệt là trong xu thế hội nhập với cộng đồng thế giới hiện nay, mỗi con người Việt
Nam chúng ta cần có ý thức hơn về dân tộc mình, bởi vậy chúng ta chỉ có thể khép lại quá
khứ chứ không thể quên quá khứ.
Trong quá trình giảng dạy môn Lịch sử, tôi đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm để có
thể giúp các em HS học tốt hơn về môn học này. Thời gian gần đây, qua trao đổi với các
đồng nghiệp tôi nhận thấy do nhiều lý do khách quan và chủ quan nên để làm cho HS
hứng thú học Lịch sử, biết và hiểu Lịch sử là rất khó, và từ những hiểu biết đơn giản để
học giỏi Lịch sử, cũng như để trở thành HSG môn Lịch sử lại càng khó hơn. Để thúc đẩy
quá trình nhận thức và nâng cao trình độ nhận thức của HS, trang bị cho các em có được
những năng lực cần thiết của một HSG bộ môn thì việc phát hiện và bồi dưỡng là rất quan
trọng đối với người GV Lịch sử ở các trường phổ thông, đặc biệt đối với bậc THCS lại
càng quan trọng hơn.
Trong những năm qua ở trường THCS Thiệu Hòa, vấn đề phát hiện và bồi dưỡng
HSG ở các môn, đặc biệt là môn Sử được nhà trường hết sức quan tâm: Ban giám hiệu nhà
trường chỉ đạo chuyên môn nói chung và tổ Xã hội nói riêng xây dựng kế hoạch phát hiện
và bồi dưỡng HSG, phân công GV phụ trách, tổ chức ôn luyện cho HS vào các buổi chiều
trong tuần. Chính vì vậy mà trách nhiệm của người GV được phân công trở nên hết sức
nặng nề. Để đạt được kết quả cao trong việc bồi dưỡng HSG, bản thân tôi luôn trăn trở,
tìm tòi, khảo nghiệm cách thức, biện pháp, phương pháp phù hợp nhất, làm thế nào để
phát hiện và bồi dưỡng HS, để các em nắm vững kiến thức bước vào kỳ thi HSG lớp 9 và
trước mắt là kỳ thi giao lưu HSG lớp 8.Vì vậy, tôi đã mạnh dạn áp dụng “ Một số kinh
nghiệm chọn và bồi dưỡng HSG môn Lịch sử lớp 8,9 ở trường THCS Thiệu Hòa,
Thiệu Hóa” nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng HSG môn Lịch sử 8,9 ở đơn vị .


1.2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua những trải nghiệm của quá trình bồi dưỡng HSG trong nhiều năm qua
cùng với việc dựa trên nguyên tắc và phương pháp dạy học Lịch sử để đưa ra những biện
pháp hữu hiệu cho công tác chọn và bồi dưỡng HSG môn Lịch sử nhằm mang lại kết quả
tốt nhất. Đồng thời qua đó từng bước nâng cao chất lượng, góp phần giảm bớt tình trạng sa
sút về chất lượng giáo dục môn Lịch sử trong nhà trường hiện nay.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
HS lớp 8,9 THCS, có học lực khá, giỏi, hạnh kiểm tốt, đủ điều kiện ôn luyện và tham
gia kỳ thi HSG các cấp.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phân tích, tổng hợp.
- Điều tra, vấn đáp.
- Thực nghiệm.
1


- Nghiên cứu tài liệu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Dân tộc Việt Nam có lịch sử từ lâu đời, với quá trình hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước. Nhân dân ta không chỉ có truyền thống dân tộc anh hùng mà còn có kinh nghiệm
phong phú, quý báu về việc giáo dục lịch sử cho thế hệ trẻ, về việc rút bài học quá khứ cho
cuộc đấu tranh và lao động trong hiện tại. Kiến thức lịch sử góp phần xây dựng đường lối,
chủ trương, chính sách, trở thành vũ khí sắc bén trong công cuộc dựng nước và giữ nước.
Ngày nay“Cùng với quá trình quốc tế hóa ngày càng mở rộng thì trở về nguồn cũng là
một trong những xu thế chung của các dân tộc trên thế giới. Với chúng ta, đó chính là sự
tìm tòi, phát hiện ngày càng sâu sắc hơn những đặc điểm của xã hội Việt Nam, những
phẩm chất cao quý, những giá trị truyền thống và những bài học lịch sử giúp chúng ta lựa
chọn và tiến hành bước đi thích hợp, hướng mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, văn minh”.[1]

Chất lượng bộ môn Lịch sử được đánh giá không phải bằng việc ghi nhớ nhiều sự
kiện mà cần hiểu đúng lịch sử. Như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng viết: “Lịch sử
đâu phải là một chuỗi sự kiện để người viết Sử ghi lại, rồi người giảng Sử đọc lại, người
học Sử học thuộc lòng”[2]. Điều quan trọng là qua học tập, “chúng ta thấy được cái gì
qua các thời đại lịch sử, và từ đó chúng ta rút ra được kết luận gì, bài học gì, Mác, một
nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác – Lênin đã vũ trang cho chúng ta một phương pháp luận
đúng đắn để nghiên cứu lịch sử, để rút ra những kết luận có ý nghĩa quan trọng thiết
thực”[3]. Đây chính là cơ sở để những người quan tâm đến Sử học và những thầy cô giáo
giảng dạy môn Lịch sử cần nhận thức đúng, sâu sắc, ý nghĩa, vị trí của bộ môn Lịch sử ở
trường THCS và tìm ra những phương pháp để nâng cao chất lượng bộ môn, thu hút được
nhiều học sinh tham thích học Lịch sử và học giỏi Lịch sử.
Mục tiêu bộ môn Lịch sử ở trường THCS:
*Về kiến thức:
- Cung cấp kiến thức Lịch sử nâng cao ở lớp 8,9 THCS, học sinh được học sâu những sự
kiện cơ bản trong quá trình phát triển của Lịch sử thế giới và Lịch sử dân tộc...
- Tiếp tục bồi dưỡng HSG bộ môn lịch sử về kiến thức và kĩ năng, tạo hứng thú say mê
học tập, tìm hiểu lịch sử cho học sinh.
- Tạo nguồn cho học sinh đi chuyên sâu các môn KHXH ở bậc THPT.
* Về kĩ năng:
- Hình thành kĩ năng tư duy lịch sử và tư duy logic, nâng cao năng lực xem xét, đánh giá
sự kiện, hiện tượng trong mối quan hệ không gian, thời gian và nhân vật lịch sử.
- Rèn luyện kĩ năng học tập bộ môn một cách độc lập, thông minh như làm việc sách giáo
khoa, sưu tầm và sử dụng các loại tư liệu lịch sử, làm bài thực hành.
- Phát triển khả năng phân tích, đánh giá, so sánh, tổng hợp, .v.v.
- Vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
- Biết đặt vấn đề và giải quyết vấn đề trong quá trình học tập.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Bộ môn Lịch sử là một trong những bộ môn ít giờ trong một tuần, sự tiếp xúc giữa
thầy và trò trên lớp rất ít thời gian. Cụ thể : (Lớp 6 có 1 tiết/tuần, lớp 7 có 2 tiết/tuần, lớp 8
và 9 có 1,5 tiết/tuần).

2


Một số GV khi lựa chọn HSG thường chỉ theo cảm tính, đưa ra những tiêu chí chưa
đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu cần thiết, chẳng hạn như chọn những em HS thường hay
phát biểu trên lớp, thường xuyên thuộc bài cũ, hoặc có điểm tổng kết cao... mà quên mất
những yếu tố cần thiết khác. Mặt khác khi tiến hành bồi dưỡng thì thực hiện một cách qua
loa và đưa cho HS một mớ tài liệu để rồi các em chỉ nhìn vào đó mà trở nên chán chường,
mất hứng thú.
Hiện nay rất nhiều em HS có sự hiểu biết không đúng về Lịch sử, hoặc có hiểu biết
nhưng rất mơ hồ. Trong học Lịch sử nếu chỉ biết thôi chưa đủ mà quan trọng hơn là phải
hiểu Lịch sử. Dĩ nhiên không biết thì không thể hiểu, nhưng không phải biết đã là hiểu.
Biết để hiểu, có hiểu thì mới biết sâu sắc, vững chắc, từ đó mới có thể học, học giỏi
thông qua quá trình bồi dưỡng của GV và tự bồi dưỡng của bản thân mới có thể trở thành
một HSG.
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy, nếu GV chỉ sử dụng phương pháp truyền thống,
áp đặt sẽ gây cho HS cảm giác thụ động, biết nhưng không hiểu và hứng thú bộ môn giảm
đi, HS không thích học môn Sử, thậm chí có những suy nghĩ sai lầm lệch lạc như “học sử
chỉ cần học thuộc lòng, không đòi hỏi trí thông minh”, “không cần bài tập, thực hành”.
Do đó việc phát hiện và bồi dưỡng HSG môn Lịch sử sẽ gặp nhiều khó khăn.
Nhưng ngược lại trong quá trình giảng dạy Lịch sử với phương pháp dạy học lấy HS
làm trung tâm, GV vận dụng các phương pháp linh hoạt nhuần nhuyễn, không chỉ thử
nghiệm ở các đối tượng HS khá, giỏi, mà còn thử nghiệm ở một số HS đại trà thì tôi nhận
thấy GV đã thổi vào bài giảng vốn khô khan với những con số và sự kiện một linh hồn,
một sức hút rồi từ đó không những gây hứng thú học tập bộ môn mà còn phát huy năng
lực và trí tuệ của HS. Qua đó phân loại năng lực nhận thức của HS để có thể áp dụng
những biện pháp thích hợp cho từng đối tượng. Đối với các em có nhận thức khá, giỏi
không chỉ dừng lại ở những hiểu biết đơn thuần các sự kiện Lịch sử, mà có ý thức mở rộng
hiểu biết với trình độ tư duy, phân tích, tổng hợp khái quát hoá cao để đạt đến ngưỡng của
HSG môn Lịch sử. Do đó quá trình phát hiện và bồi dưỡng HS diễn ra có hiệu quả hơn.

2.2.1. Đặc điểm chung
a) Về phía nhà trường
* Thuận lợi
 Trong quá trình thực hiện, tôi được sự giúp đỡ và động viên của Ban giám hiệu, tổ
chuyên môn và các đồng nghiệp.
 Qua nhiều năm giảng dạy và làm công tác bồi dưỡng HSG, tôi cũng đã đúc kết được
nhiều kinh nghiệm, do đó cũng đạt được một số kết quả đáng khích lệ.
 Kết quả thi HSG của trường qua một vài năm học gần đây đã có nhiều chuyển biến tích
cực nên đã tạo tâm lý tự tin cho HS khi chọn bộ môn Lịch sử để ôn thi.
* Khó khăn:
 Tài liệu dạy học Lịch sử thì nhiều nhưng các tài liệu nghiên cứu về phương pháp chọn
và bồi dưỡng HSG môn Sử rất ít.
 Thời lượng tiết học Lịch sử ở trên lớp ít, điều đó đã hạn chế sự tiếp xúc giữa người GV
và HS, làm cho việc lựa chọn và bồi dưỡng cho HS trở nên khó khăn.
b) Về phía HS
* Thuận lợi
3


- Nhiều em HS có lòng ham mê học môn Lịch sử.
* Khó khăn:
 Do xu thế phát triển của xã hội hiện nay đã tạo tâm lý cho đa phần HS và kể cả phụ
huynh thường xem môn Lịch sử là môn phụ nên ít quan tâm đến. Thậm chí có nhiều HS
rất giỏi về môn Sử nhưng không chọn môn Sử là mục tiêu học tập, hoặc khi các em lựa
chọn thì gặp phải sự ngăn cản của cha mẹ. Điều này đã tạo rào cản rất lớn đối với quá
trình thực hiện đề tài.
2.2.2. Mục đích yêu cầu
+ Các em cần phải nắm vững kiến thức Lịch sử (Lịch sử Việt Nam và Lịch sử thế giới).
+ Biết đọc và khai thác những kiến thức ẩn tàng trên bản đồ, lược đồ, bảng thống kê,
tranh ảnh, mô hình...

+ Xác định được hoàn cảnh, điều kiện, mối liên hệ giữa các sự kiện. Nêu được nguyên
nhân phát sinh, thất bại, tính chất, ý nghĩa bài học kinh nghiệm của sự kiện nhất là những
sự kiện quan trọng. Làm sáng tỏ quy luật Lịch sử của bất cứ sự kiện nào (ví dụ: Nguyên
nhân thành công, ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Mười Nga 1917). Xác định vai trò,
vị trí của các tầng lớp, giai cấp, tập đoàn hay các cá nhân trong Lịch sử.
+ Biết liên hệ thực tế địa phương, đất nước. So sánh đối chiếu tài liệu Lịch sử với đời
sống hiện nay từ đó rút ra bài học kinh nghiệm.
+ Để HS bước vào cuộc thi có hiệu quả ngoài việc nắm kiến thức cơ bản, HS cần phải
đọc những kiến thức liên quan đến môn Sử (nhất là các tác phẩm văn học) để bài làm
thêm sinh động. HS cần hệ thống hoá kiến thức cơ bản để ứng phó với các dạng đề đưa
ra...
+ Biết tổng hợp, phân tích đánh giá, nhận xét kiến thức Lịch sử, có khả năng khái quát
hoá cao thì HS mới đạt được ngưỡng của HSG môn Sử.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Phát hiện và tuyển chọn HSG môn Lịch sử.
Phát hiện và lựa chọn HS là yếu tố quan trọng đầu tiên của người thầy, bởi nếu lựa
chọn những HS không đúng yêu cầu thì kết quả mang lại sẽ bị hạn chế rất nhiều, có khi lại
uổng công vô ích. Đối với HS ở trường THCS Thiệu Hòa, việc phát hiện HS có năng
khiếu đối với môn Lịch sử, bản thân tôi dựa vào các yếu tố sau:
2.3.1.1. Phương pháp thông qua việc tổng hợp kết quả học tập của HS ở các lớp dưới.
Khi thực hiện công việc này ở trường THCS Thiệu Hòa có một yếu tố thuận lợi bởi
trường THCS Thiệu Hòa là trường bản thân tôi đã công tác trên 15 năm, lại là GV duy
nhất và trực tiếp giảng dạy bộ môn nên 4 năm giảng dạy các em liên tục(từ lớp 6 đến lớp
9) là cơ hội để tôi có thể đánh giá khá sát từng đối tượng HS, thêm nữa, mọi hồ sơ, học bạ,
sổ điểm và kể cả các bài kiểm tra hàng năm đều được lưu giữ, khi cần, GV có thể tham
khảo.
Đối với bản thân tôi, cứ vào đầu mỗi năm học tôi sẽ theo dõi kết quả học tập của
những em HS có thành tích học tập cao nhất, đặc biệt là môn Sử. Làm như vậy sẽ tạo cơ
sở cho người GV vừa có thể khoanh vùng được đối tượng và tiếp tục theo dõi phát hiện ra
những khả năng cần thiết khác của từng HS, vừa đỡ tốn nhiều thời gian mà lại có kết quả

cao.
4


2.3.1.2. Phương pháp thăm dò, tìm hiểu qua GV bộ môn và GV chủ nhiệm.
GV chủ nhiệm là người gần gũi, người có sự quan tâm sâu sát HS nhất, họ có thể
hiểu rõ và tường tận về năng lực học tâp, khả năng tiếp thu tri thức, tính tình, hoàn cảnh...
của các em học sinh, vì vậy cho nên khi tham khảo ý kiến của GV chủ nhiệm, chúng ta sẽ
có thêm nhiều thông tin hiểu biết để lựa chọn HS có hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó chúng ta cũng cần phải tham khảo ý kiến của các GV bộ môn để tìm
hiểu năng lực học tập của HS ở các môn học khác, kể cả các môn tự nhiên. Một HSG môn
Lịch sử thì đòi hỏi ngoài việc học tốt môn Lịch sử còn phải học tốt các môn khác, bởi vì
học Lịch sử không chỉ cần biết và nhớ sự kiện là đủ mà còn phải có khả năng phân tích, so
sánh, tổng hợp, khái quát hóa, tư duy, suy luận để tìm hiểu bản chất của vấn đề.
Ví dụ : Một HS học yếu các môn Toán, Lý, Hóa thì không thể có khả năng tư duy, lập
luận tốt, hoặc một HS học yếu môn Văn thì không thể trình bày Lịch sử một cách trôi
chảy, mạch lạc được...
Tóm lại người học Lịch sử giỏi cần phải có sự kết hợp của nhiều yếu tố, chẳng hạn
như khả năng tiếp thu và cách tiếp cận vấn đề, khả năng khái quát và nhớ các sự kiện, khả
năng tư duy, suy luận, lập luận lôgic, chặt chẽ, khả năng trình bày trôi chảy, mạch
lạc...Hay nói cách khác là cần phải có sự kết hợp các tố chất cần thiết của nhiều môn học,
vì vậy việc tìm hiểu thông qua GV bộ môn cũng rất cần thiết khi lựa chọn HSG môn Sử.
2.3.1.3. Phương pháp tìm hiểu qua các giờ học ở trên lớp.
Mặc dù giờ dạy Lịch sử ở trên lớp không nhiều nhưng người GV cần phải dành thời
gian quan tâm, tìm hiểu HS. Đây là vấn đề quan trọng bởi vì khả năng và trình độ học tập
của HS được thể hiện rất nhiều trong các tiết học ở trên lớp. Nếu trong quá trình nghe
giảng HS biết điều chỉnh, chọn lọc kiến thức cần thiết để ghi chép, những phần nào GV
mở rộng kiến thức mà không có trong sách giáo khoa thì HS ghi nhanh để lưu lại và tìm
hiểu. Thậm chí có nhiều HS còn ghi cẩn thận vào quyển sổ tay để nhớ.
Trước tiên, khi lên lớp GV cần chú ý quan sát và lựa chọn những HS luôn đảm bảo

sự chuyên cần, chăm chú nghe giảng, hăng say phát biểu... nói chung là có thái độ học tập
cực, tự giác, siêng năng, chăm chỉ.
Trong quá trình giảng dạy, khi GV đặt tình huống có vấn đề từ dễ đến khó thì HS sẽ
vận dụng các kiến thức Lịch sử đã học để giải quyết các vấn đề đặt ra. Khi thực hiện thao
tác này tôi nhận thấy với những HS trung bình thì các em tự bằng lòng với những câu đã
trả lời đúng, ngược lại với những em HS có năng khiếu và hứng thú học tập bộ môn thì
các em không dừng lại ở đó mà tiếp tục đặt ra các tình huống có vấn đề khác để giả quyết,
đồng thời tìm hiểu sự kiện Lịch sử ở các góc độ khác nhau. Chẳng hạn như trong quá trình
học ở lớp cũng như ở nhà các em luôn tự đặt ra các câu hỏi “Tại sao?”, “Như thế nào?”,
“Để làm gì?”
Ví dụ: Sau khi tìm hiểu về quá trình khủng hoảng và tan rã của Liên Xô và các nước
Đông Âu. HS có thể tự đặt ra câu hỏi tình huống có vấn đề như: Trong khi Liên Xô và
Đông Âu khủng hoảng thì Việt Nam có khủng hoảng không? Tại sao cùng xây dựng nhà
nước theo thể chế XHCN nhưng trong khi Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ mà các
nước như Việt Nam, Trung Quốc, Cu Ba... vẫn đứng vững?

5


Ví dụ khác: Khi học bài 28 – TRÀO LƯU CẢI CÁCH DUY TÂN Ở VIỆT NAM
NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX[4]. HS có thể tự đặt ra câu hỏi tình huống có vấn đề như: Tại
sao triều đình nhà Nguyễn lại cự tuyệt, từ chối mọi đề nghị cải cách duy tân đất nước của
các quan lại, sĩ phu yêu nước? Nếu triều đình chấp thuận và bắt tay thực hiện thì điều gì sẽ
xảy ra? Vận mệnh của đất nước ta sẽ thay đổi như thế nào?
Quá trình HS tự đặt ra câu hỏi và bằng kiến thức đã học tự giải quyết câu hỏi (có thể
chưa hoàn thiện và chính xác tuyệt đối), nhưng với việc tự đặt ra câu hỏi như vậy, kết hợp
kiến thức đã học và kiến thức tham khảo... HS sẽ khắc sâu kiến thức và hiểu vấn đề một
cách kỹ càng hơn. Mặt khác những vấn đề đặt ra mà quá khó, không giải quyết được thì
HS sẽ tìm đến sự giúp đỡ của GV. Đối với tôi thì những em HS có khả năng như vậy là
tiêu chí quan trọng khi chọn HSG cho bộ môn.

Ngoài ra việc lựa chọn và phát hiện HSG bộ môn Lịch sử cần phải lựa chọn các em
HS nắm vững được kiến thức cơ bản trong chương trình phổ thông đã học và những kiến
thức mở rộng liên hệ phù hợp với điều kiện thực tế ở quê hương, đất nước.
Ví dụ: Khi học bài 26[5] : PHONG TRÀO KHÁNG PHÁP TRONG NHỮNG NĂM
CUỐI THẾ KỶ XIX, các em HS ở Thanh Hóa có thể liên hệ ngay tới địa phương của
mình có sự kiện: Khởi nghĩa Ba Đình(1886-1887), Khởi nghĩa Hùng Lĩnh(1887-1892) với
các thủ lĩnh như : Trần Xuân Soạn, Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt, Tống Duy Tân, Cầm Bá
Thước, Hà Văn Mao... để qua đó hiểu rõ hơn về tinh thần yêu nước chống Pháp của nhân
dân ta trong giai đoạn này. Đây cũng là một khả năng cần thiết cho việc học tốt môn Lịch
sử.
2.3.1.4. Phương pháp phát hiện khả năng của HS qua việc kiểm tra kiến thức.
Thông thường ngoài kiểm tra miệng còn có các bài kiểm tra viết khác như kiểm tra
15 phút, kiểm tra 1 tiết và kiểm tra học kì. Khi nghe HS trả lời hoặc chấm bài kiểm tra,
GV cần chú ý phần trả lời hay bài làm của HS để phát hiện ra những tố chất cần thiết của
một HSG. Cần phát hiện những em có khả năng viết (Chữ viết đẹp và rõ ràng, lời văn
hay, cách dùng từ chính xác, lập luận chặt chẽ, lôgíc.); phân tích, đánh giá, tổng hợp
những kiến thức đã học, trình bày sạch sẽ, mạch lạc, đúng trọng tâm vấn đề được đặt ra ,
tạo ra một bức tranh Lịch sử sinh động chính xác như bản thân nó đã tồn tại, đồng thời
hiểu rõ và nắm vững khái niệm, những sự kiện có liên quan. Biết vận dụng những kiến
thức đã học vào học tập và đời sống (Rút ra những bài học kinh nghiệm, nguyên nhân
thành công hay thất bại…)
Một thao tác cần thiết là trong quá trình làm đề, ra đề, GV nên đổi mới cách ra đề, ví
dụ như : Các dạng đề, các kiểu đề dành cho từng đối tượng HS học lực trung bình, HS có
học lực khá - giỏi. Nên có những câu hỏi mang tính chất nâng cao, đòi hỏi HS phải có
trình độ tư duy, khái quát phân tích, tổng hợp… mới trả lời được.
2.3.1.5. Một số ví dụ về các câu hỏi mang tính chất nâng cao:
 Bản chất , kết quả của cuộc cải cách Minh Trị. Từ cuộc cải cách Minh Trị, em hãy liên
hệ công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta. Tại sao Đảng ta lại coi giáo dục là quốc
sách hàng đầu?
 Tại sao nói cuộc khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong

trào Cần Vương? [6]
6


 Vì sao nói hướng đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành là duy nhất đúng,
bảo đảm thắng lợi cho Cách mạng Việt Nam sau này?
Để giải quyết các câu hỏi như trên thì HS phải vận dụng các kiến thức đã học, kết
hợp tài liệu tham khảo, tài liệu đọc thêm và với những tư liệu được GV cung cấp. Với
dạng câu hỏi như vậy sẽ giúp GV đó phân loại được HS và có kế hoạch bồi dưỡng hợp lý.
2.3.1.6. Phương pháp phát hiện HSG thông qua hoạt động ngoại khoá, hướng nghiệp.
Hoạt động ngoại khóa là một trong những nội dung giáo dục trong nhà trường.
Thông thường hoạt động ngoại khóa được tiến hành theo chủ điểm hàng tháng, nhưng khi
tổ chức thực hiện, GV có thể dựa vào các chủ điểm đó để đưa Lịch sử vào nội dung hoạt
động, qua đó có thể phát hiện và lựa chọn được những HS có năng khiếu và có hiểu biết
về Lịch sử.
Ví dụ:
 Tháng 9: GV tổ chức sinh hoạt tìm hiểu Lịch sử có nội dung liên quan đến ngày
Quốc khánh 02/9
 Tháng 10 và 11: GV tổ chức sinh hoạt tìm hiểu về Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917.
 Tháng 12: Tổ chức sinh hoạt tìm hiểu truyền thống quân đội nhân dân Việt Nam.
 Tháng 1 và 2: Tổ chức sinh hoạt nội dung hướng về sự kiện thành lập Đảng cộng
sản Việt Nam.
Cứ như vậy, dựa vào các sự kiện Lịch sử tương ứng với thời gian nhất định, GV linh
động tổ chức các hình thức hoạt động ngoại khóa như thi kể chuyện Lịch sử, trò chơi Lịch
sử, hoặc sưu tầm tư liệu... Trong quá trình hoạt động, tôi nhận thấy đối với các em có năng
khiếu, có kiến thức về Lịch sử thường có hứng thú tham gia hơn những HS khác, chất
lượng thực hiện các hoạt động của những HS này cũng hơn hẳn những HS khác.
Hoạt động hướng nghiệp, giúp các em HS định hướng tương lai, nghề nghiệp cho
bản thân. Khi thực hiện GV nhắm việc lựa chọn HSG vào những HS có xu hướng nghề

nghiệp sau này gắn bó với các môn xã hội, bởi đây là nền tảng đầu tiên để tạo dựng lòng
đam mê, sự quyết tâm theo đuổi học tập Lịch sử của HS.
Những buổi ôn tập hay làm bài tập trên máy chiếu, thời gian còn lại, GV có thể tổ
chức cho HS chơi giải đáp ô chữ, tìm nhân vật lịch sử, hay chiếu các đoạn phim tư liệu
cũng có tác dụng gây hứng thú và lôi kéo được HS.
Tóm lại bằng những biện pháp đã nêu trên, GV có thể sơ tuyển được những HS có đủ
những yêu cầu cần thiết để chuẩn bị cho kỳ thi HSG các cấp. Sau khi phát hiện và có được
danh sách HS, GV cho các em ôn tập, thi loại, cuối cùng, chọn ra đội tuyển để bồi dưỡng.
Trong mỗi khối lớp, phải thành lập một đội tuyển HSG ngay từ đầu cấp, để từ đó có kế
hoạch bồi dưỡng phát triển tri thức và phát triển năng lực cho các em. Làm được như vậy
mới thực sự là một chiến lược lâu dài và bền vững để mang lại kết quả cao nhất cho việc
bồi dưỡng HSG môn Lịch sử.
2.3.2. Bồi dưỡng HSG bộ môn Lịch sử.
2.3.2.1. Xây dựng tư tưởng, tâm lý vững chắc cho HS.

7


Trong nhiều năm thực hiện công tác bồi dưỡng HSG, tôi nhận thấy rằng cần phải tạo
cho HS có một tâm lý thật sự thoải mái trong quá trình ôn tập cũng như khi chuẩn bị bước
vào kỳ thi. Tránh gây cho HS áp lực nặng nề, chẳng hạn như: GV luôn tạo ấn tượng cho
HS về kỳ thi HSG là kỳ thi cực kỳ khó, đòi hỏi sự cao siêu...điều này làm cho HS có cảm
giác lo sợ, mất tự tin. Hoặc GV luôn áp đặt cho HS rằng đã thi là phải đậu, phải có số điểm
cao...Làm như vậy sẽ gây áp lực tâm lý cho HS và dẫn đến kết quả không tốt, thậm chí có
nhiều HS vì sợ không đạt được mục tiêu bắt buộc đó nên đã xin từ bỏ đội tuyển HSG (Có
những HS bỏ cuộc khi kỳ thi chỉ còn vài ngày)
Muốn làm tốt vấn đề nêu trên, theo tôi trước hết người GV phải có những tư vấn cần
thiết làm cho HS có cảm giác rằng kỳ thi HSG dù ở cấp nào cũng vậy nó vẫn giống như
các kỳ thi diễn ra thường xuyên ở nhà trường. Ngoài ra tôi thường nêu rõ quan điểm rằng
"Khi các em được chọn đi ôn thi thì phải cố gắng hết mình. Nếu đạt kết quả cao thì càng

tốt, còn nếu không thì chúng ta vẫn vui, vẫn hãnh diện vì đó là sự cố gắng lớn lao của bản
thân mình". Chính những động thái này của GV sẽ làm cho HS có cảm giác an tâm, thoải
mái nhưng luôn cố gắng để học tập một cách tốt nhất.
2.3.2.2. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng HSG bộ môn đối với từng khối.
Việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng sẽ giúp cho người GV nắm chắc về nội dung cơ
bản cần truyền đạt cho HS, xác định cụ thể con đường, cách thức, nhiệm vụ của mình.
Hiện nay ngoài các buổi học chính khóa, HS còn phải học phụ đạo, sinh hoạt ngoại khóa,
lao động... nên thời gian ôn thi HSG sẽ bị hạn chế. Do vậy muốn cho công tác bồi dưỡng
HSG được tốt, người GV cần xây dựng kế hoạch cụ thể cho từng khối lớp; trong quá trình
dạy, GV bám sát và làm theo kế hoạch đó để đảm bảo thời gian, bảo đảm đủ nội dung kiến
thức. Tùy thuộc vào nội dung kiến thức của từng giai đoạn Lịch sử, tùy vào tình hình thực
tế cụ thể, GV đưa ra kế hoạch bồi dưỡng cho phù hợp.
Thông thường, kế hoạch bồi dưỡng HSG môn Sử được xây dựng theo cấu trúc gồm
có ba yêu cầu (Nội dung ôn tập, số tiết thực hiện và thời gian tổ chức ôn tập). Sau đây là
một ví dụ cụ thể về một kế hoạch bồi dưỡng cho HS trong phần Lịch sử thế giới hiện đại
khối lớp 9[7]:
Stt
Nội dung ôn tập
Số tiết
Thời gian ôn tập
Liên Xô và Đông Âu từ sau chiến tranh thế giới
1
2
thứ hai đến đầu những năm 90 của thế kỉ XX
Các nước châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh từ
2
4
năm 1945 đến năm 2000.
Các buổi chiều thứ
Mỹ, Nhật Bản, Tây Âu từ năm 1945 đến năm

3, 5 tuần 27+28
3
2
2000.
Năm học : 20162017
4 Quan hệ quốc tế từ năm 1945 đến nay.
2
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật từ năm 1945
2
đến năm nay
Tuy nhiên nếu lập kế hoạch không thì chưa đủ mà GV cần phải soạn một đề cương
ôn thi chi tiết để làm cơ sở cho việc bồi dưỡng của GV và học tập của HS. Đề cương phải
biên soạn ngắn gọn, súc tích, nêu bật được trọng tâm của vấn đề, trong quá trình bồi
5

8


dưỡng, GV dựa vào đó để mở rộng phân tích, dẫn chứng để làm rõ bản chất của vấn đề.
Cùng với đề cương chi tiết là hệ thống các câu hỏi ôn tập, các dạng đề thường gặp (kể cả
đề của những năm gần đây) để HS tham khảo và để sau khi học xong có thể tự kiểm tra
kiến thức của mình.
2.3.2.3. Sử dụng các phương pháp bộ môn để hướng dẫn các em nắm vững kiến
thức cơ bản.
Môn Lịch sử là một trong những môn có liên quan nhiều đến giáo dục tư tưởng chính
trị cho HS do đó quá trình dạy học, đặc biệt bồi dưỡng HSG cần phải có một quá trình bồi
dưỡng các em lâu dài và có hệ thống, GV bộ môn cần phát hiện ra HS có năng khiếu và
khả năng học về môn Lịch sử để từ đó bồi dưỡng, phát triển tri thức và phát triển năng lực
cho các em. Người thầy ngoài việc nắm vững kiến thức chuyên môn để truyền đạt cho HS
thì còn phải sử dụng tốt các phương pháp bộ môn trong quá trình ôn tập, bồi dưỡng. Vận

dụng đúng phương pháp sẽ làm cho HS hứng thú học tập hơn và như thế thì sẽ mang lại
kết quả cao hơn. Theo tôi để làm tốt vấn đề này, thì GV cần chú ý các vấn đề sau đây:
* Thứ nhất: Trong quá trình ôn tập, bồi dưỡng, ngoài việc truyền thụ lý thuyết cho
HS thì GV phải hướng dẫn HS trả lời câu hỏi, làm bài tập từ đơn giản đến phức tạp. Vì
vậy GV nên xây dựng một hệ thống câu hỏi vừa sức, hợp lí, gợi mở, kích thích tư duy, sự
tò mò của HS. Các câu hỏi phải đi từ dễ đến khó; có câu hỏi yêu cầu HS trả lời ngay,
nhưng cũng có những câu hỏi để HS qua thời gian suy nghĩ, tìm tòi để trả lời, với những
câu hỏi khó hoặc bài tập cần nhiều thời gian, đòi hỏi sự tư duy cao độ thì GV nên hướng
dẫn cách làm và yêu cầu HS về nhà hoàn thiện để giờ sau báo cáo.
Ví dụ : Khi ôn tập về CUỘC DUY TÂN MINH TRỊ của Nhật Bản - năm 1868 (phần
Lịch sử thế giới cận đại lớp 8). Sau khi trang bị cho HS các kiến thức cơ bản, GV có thể
nêu câu hỏi: Bản chất, kết quả của cuộc cải cách Minh Trị? Tại sao nói chính sách giáo
dục là nhân tố "chìa khóa" của công cuộc hiện đại hoá đất nước?
Với câu hỏi này thì bằng kiến thức đã học, đã ôn tập, HS tự nghiên cứu hoặc được
sự hướng dẫn của GV để rút ra các nội dung trả lời cụ thể như sau:
Về bản chất:
+ Trên cơ sở những đặc trưng cuộc cách mạng, HS sẽ rút ra kết luận đây là cuộc cách
mạng tư sản không triệt để. (đặc trưng của cuộc cách mạng)
+ HS phải nêu được những biểu hiện để chứng minh đó là cuộc cách mạng không triệt
để: Ruộng đất rơi vào tay địa chủ mới; chính quyền không hoàn toàn thuộc về giai cấp tư
sản.
Kết quả: HS nêu tác dụng của cải cách Minh Trị: Tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản
phát triển; Nhật thoát khỏi thân phận một nước thuộc địa và phụ thuộc.(Đặt trong bối
cảnh Lịch sử của Châu Á)
Chính sách giáo dục được xem là nhân tố “chìa khóa” cho công cuộc hiện đại hóa của
đất nước Nhật Bản:
- Ý nghĩa : Giáo dục là chìa khoá nâng cao dân trí, đào tạo những con người có khả
năng lĩnh hội và vận dụng có hiệu quả những thành tựu của khoa học tiên tiến.

9



- Tác dụng : Tạo điều kiện cho việc tiếp thu tinh hoa văn hoá của thế giới, kinh nghiệm
quản lý kinh tế xã hội. Tạo điều kiện cho kinh tế công nghiệp tư bản phát triển. Đưa Nhật
hội nhập vào thế giới tư bản chủ nghĩa.
- Khẳng định tầm quan trọng của giáo dục : So với các nước phương Tây, Nhật là một
nước có nền công nghiệp, văn hoá, khoa học-kỹ thuật lạc hậu. Nhật tiến lên con đường
hiện đại hoá chỉ có thể đạt được kết quả từ sự đổi mới giáo dục, mà giáo dục là "đòn bẩy"
thúc đẩy đất nước phát triển và đổi mới xã hội một cách toàn diện trên tất cả các mặt để
Nhật tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa.
*Thứ hai: Trong một bài Lịch sử có rất nhiều sự kiện Lịch sử, GV cần phải truyền
đạt cho HS kiến thức, khắc sâu những kiến thức cơ bản để HS nắm vững được bản chất
của sự kiện, hệ thống hoá được kiến thức của một bài, một chương ...Phải dạy cho HS
nắm vững kiến thức Lịch sử bao gồm (Sự kiện Lịch sử, các niên đại, địa danh Lịch sử, tên
nhân vật lịch sử, các biểu tượng, khái niệm, quy luật Lịch sử, vận dụng tri thức...) để tạo ra
các biểu tượng cụ thể, chân xác, giàu hình ảnh.
Ví dụ: Khi ôn tập phần Lịch sử Việt Nam - giai đoạn 1930- 1931. Đây là nội dung có
nhiều kiến thức, nhiều mốc thời gian nếu HS học dàn trải, học vẹt sẽ khó nhớ và dễ quên.
Để giúp HS xác định được kiến thức cơ bản cần nhớ trong giai đoạn này GV hướng dẫn
HS cần xác định và nắm được các kiến thức cơ bản gồm:
a) Nguyên nhân bùng nổ phong trào cách mạng 1930-1931 (gồm 3 nguyên nhân cơ
bản):
 Khủng hoảng kinh tế thế giới 1929- 1933 tác động mạnh mẽ đến Việt Nam làm
kinh tế Việt Nam tiêu điều xơ xác.
 Về chính trị : Từ sau khởi nghĩa Yên Bái, Pháp tiến hành khủng bố trắng, tạo bầu
không khí chính trị căng thẳng và ngột ngạt, làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta
với thực dân Pháp gay gắt.
 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh chống đế
quốc, chống phong kiến của nhân dân ta (Giáo viên cần lí giải vì sao đây là nguyên
nhân quan trọng nhất.)

b) Về diễn biến của phong trào cách mạng 1930 – 1931 thì HS phải nắm được hai nội
dung cơ bản đó là : Phong trào diễn ra trên toàn quốc và phong trào diễn ra ở Nghệ-Tĩnh.
c) HS phải nắm được các chính sách của chính quyền Xô Viết Nghệ-Tĩnh như: kinh
tế, chính trị, quân sự, xã hội, Từ đó rút ra bản chất của chính quyền.
d) Ý nghĩa của phong trào (Đối với Đảng và cách mạng)
Ngoài ra cũng có thể giúp HS xác định được kiến thức cơ bản của phong trào trên
toàn quốc bằng việc hướng dẫn HS lập bảng thống kê theo mẫu trên cơ sở đó HS tự học,
tự xác định kiến thức cơ bản với những nội dung tương tự.
Lực lượng
Hình thức & mục tiêu
Quy mô & địa bàn đấu
Thời gian
tham gia
đấu tranh
tranh

10


Công
nhân
Từ tháng 2 đến
tháng 4/1030
Nông dân
Công nhân
Phong trào mạnh mẽ và nông dân
từ tháng 5. Ngày
đoàn kết giai
1/5/1930 nhân ngày cấp và quốc
QTLĐ

tế.

Bãi công đòi tăng
Đồn điền cao su Phú
lương giảm giờ làm.
Riềng, nhà máy sợi Nam
Định, Diêm-cưa Bến Thuỷ,
Xưởng đóng tầu Ba Son…
Đòi giảm sưu thuế
Truyền đơn tố cáo kẻ
thù, khẩu hiệu kêu gọi
quần chúng đấu tranh,
mít tinh, biểu tình tuần
hành đòi bỏ sưu hoãn
thuế.

Thái Bình, Nam Hà,
Nghệ An, Hà Tĩnh..
Khắp cả nước

Công nhân có 16 cuộc đấu
Từ
sau
ngày Công nhân,
tranh.
1/5/1930, làn sóng nông dân, HS
Từ mít tinh, biểu tình
tiếp tục dâng cao
và dân nghèo
Nông dân có 34 cuộc đấu

chuyển thành đấu
thành thị.
tranh.
tranh vũ trang.
HS và dân nghèo thành thị
có 4 cuộc đấu tranh
Sau khi hoàn thành bảng thống kê này, GV hướng dẫn HS đọc tiêu đề của bảng, đọc
đề mục của các cột, so sánh đối chiếu các dữ kiện theo hàng ngang, cột dọc rút ra nhận xét
rằng đây là một phong trào cách mạng mới ở Việt Nam, do Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo, phong trào nổ ra đều khắp cả nước, rầm rộ, lôi cuốn nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động tham gia.
Khi HS đã nắm vững được bản chất của sự kiện GV cần hướng dẫn các em rút ra
được quy luật của Lịch sử như: Quy luật của một xã hội phong kiến, quy luật của các cuộc
khởi nghĩa của nông dân, quy luật của sự phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản … HS
sẽ tìm ra được bài học Lịch sử gắn liền với học tập và cuộc sống của các em. Ngoài ra
bằng việc học tập như vậy, HS có thể so sánh giữa sự kiện này với sự kiện khác, quốc gia
này với quốc gia khác về kinh tế, chính trị, xã hội... để có cái nhìn chính xác về bản chất
của sự kiện trong quá khứ.
Ví dụ khác: Khi ôn tập phần Lịch sử Việt Nam lớp 8, GV nêu vấn đề yêu cầu HS giải
quyết: Điểm khác nhau giữa khởi nghĩa Ba Đình và Khởi nghĩa Bãi Sậy?[8] GV hướng
dẫn HS sử dụng lược đồ Khởi nghĩa Ba Đình và Khởi nghĩa Bãi Sậy kết hợp kênh chữ
trong sách giáo khoa để trả lời câu hỏi này: Thời gian tồn tại, địa bàn hoạt động, cách xây
dựng căn cứ, cách đánh…
Để so sánh được, ngoài việc sử dụng lược đồ thì HS phải khái quát, tổng hợp
những kiến thức của cả hai phong trào và qua so sánh, đối chiếu sẽ rút ra được sự
khác nhau qua từng đặc điểm. Quá trình tư duy so sánh như vậy là biện pháp rất tốt để
giúp HS nắm chắc kiến thức cơ bản không chỉ của một sự kiện, một giai đoạn mà cả
một quá trình Lịch sử.
11



Lược đồ khởi nghĩa Ba Đình và Bãi Sậy[9]
Như vậy qua các ví dụ nêu trên chúng ta có thể kết luận rằng muốn HS nắm vững
kiến thức cơ bản làm cơ sở cho việc phân tích, so sánh, nhận định, đánh giá bản chất của
vấn đề thì trước tiên GV phải giúp HS xác định đúng kiến thức cơ bản của bài học, sau đó
bằng cách dẫn dắt vấn đề kết hợp với các phương pháp, phương tiện cần thiết để giúp HS
khắc sâu các sự kiện đó.
* Thứ ba: GV phải hình thành cho HS kỹ năng khai thác kênh hình trong sách giáo khoa, sách
tham khảo, tư liệu đọc thêm (Tranh ảnh, lược đồ, biểu đồ, bảng biểu...) phải coi đó là mảng kiến thức, kỹ
năng cần thiết để học Lịch sử. Khi HS khai thác kênh hình trong tình huống có vấn đề sẽ rèn luyện được
kỹ năng diễn đạt, phân tích, khái quát, lựa chọn ngôn ngữ, kích thích sự tư duy sáng tạo của HS.

Giai cấp Nông dân và Công nhân Việt Nam thời thuộc Pháp[10]

12


Ví dụ: Khi hướng dẫn HS ôn tập bài 29 LSVN lớp 8. GV cho HS quan sát hình ảnh
nông dân và công nhân Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc. Qua đó nêu câu hỏi dẫn dắt HS khai
thác nội dung vấn đề.
Qua quan sát các tranh ảnh đó HS sẽ thấy được dưới tác động của chính sách khai
thác, bóc lột lần thứ nhất của Thực dân Pháp, tình cảnh nông dân và công nhân nước ta
thật khốn khổ, bần cùng. Mặt khác, HS có thể liên hệ với các giai đoạn Lịch sử của đất
nước, đặc biệt là công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta, môi trường làm việc, cuộc sống
và chế độ đãi ngộ của nhà nước đối với công nhân và nông dân, từ đó khẳng định sự đúng
đắn và vai trò quan trọng trong sự lãnh đạo của Đảng trong Cách mạng giải phóng dân tộc
là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thắng lợi và thành công của cách mạng Việt Nam hiện
nay.
Ví dụ khác: Khi phân tích phương hướng chiến lược của quân đội ta trong Đông Xuân 1953-1954, GV yêu cầu HS dựa vào lược đồ trình bày các hướng tấn công của ta
trên chiến trường Đông Dương lúc này và qua đó nêu nhận xét về phương hướng chiến

lược của ta để đối phó với kế hoạch Nava. Sau khi trình bày sự kiện bằng lược đồ, HS sẽ
nhận định và rút ra được kết luận về sự độc đáo, sáng tạo trong cách đánh giặc của quân và
dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Với cách làm này sẽ giúp HS khắc sâu kiến
thức cơ bản, hiểu rõ bản chất của vấn đề, đồng thời HS có thể tự khai thác những kiến thức
Lịch sử tiềm tàng qua quan sát trên lược đồ.

13


Lược đồ chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954[11]
* Thứ tư: Cần phải tổ chức, điều khiển và rèn luyện cho HS về khả năng tự học ở
nhà, bởi vì thời gian trên lớp rất hạn chế, GV không thể truyền đạt hoặc dẫn dắt HS tìm
hiểu bài học một cách tỉ mỉ, cụ thể được mà chỉ có thể đi vào nội dung trọng tâm nhất,
khái quát nhất, do đó kỹ năng tự học của HS, đặc biệt là tự học ở nhà là rất quan trọng.
Trên thực tế giảng dạy tôi nhận thấy nếu chỉ bồi dưỡng HS qua hoạt động học trên lớp,
kiểm tra, đánh giá thôi chưa đủ mà cần bồi dưỡng HS qua hoạt động tự học.
Ví dụ : Trong quá trình giảng dạy tôi đã tổ chức hoạt động tự học cho HS dưới nhiều
hình thức khác nhau như: Ra câu hỏi bài tập để HS tự tìm tòi nghiên cứu ở nhà, sau đó đưa
ra câu trả lời ở một buổi học khác hoặc tổ chức cho các em thi kể chuyện Lịch sử, sưu tầm
tư liệu theo chủ đề (Chẳng hạn như sưu tầm tư liệu về chủ tịch Hồ Chí Minh theo từng
chủ điểm: Trong giai đoạn tìm đường cứu nước 1911 – 1920; giai đoạn kháng chiến
chống Pháp, hoặc giai đoạn kháng chiến chống Mĩ…) khi thấy kiến thức cơ bản của HS
đã nắm vững, GV có thể sưu tầm đề thi của những năm trước cho các em tập làm thử, sau
đó chấm chữa, cuối cùng đưa ra đáp án chuẩn để HS đối chiếu với bài làm của mình.
Kết quả thu được: Đối với những HS không thử nghiệm thì các em rất thụ động,
trông chờ, ỷ lại, kết quả thi chưa cao. Ngược lại đối với những HS được thử nghiệm tôi
nhận thấy các em hoạt động tích cực đặc biệt là các em có nhận thức Lịch sử ở mức khá
giỏi. Trong quá trình học trên lớp các em trao đổi tranh luận sôi nổi, có sự thi đua giữa HS
này với HS khác. Đối với những vấn đề đòi hỏi có sự chuẩn bị công phu, các em tìm tòi,
cập nhập thông tin, kiến thức Lịch sử qua thông tin đại chúng, qua sách tham khảo, tài liệu

14


tham khảo, mạng Internet…,thậm chí mạnh dạn đề nghị GV làm cố vấn. Cứ như vậy, nếu
hoạt động này được duy trì thường xuyên thì các kiến thức Lịch sử thông qua việc ôn tập
trên lớp còn thiếu sẽ được bổ sung đầy đủ hơn thông qua các hoạt động tự học của HS;
kiến thức Lịch sử sẽ được khắc sâu và tồn tại có tính bền vũng hơn so với các hình thức
học mang tính áp đặt.
*Thứ năm: Tổ chức hướng dẫn HS sử dụng tài liệu Lịch sử, tài liệu văn học:
Sử dụng tài liệu Lịch sử: GV có thể giới thiệu địa chỉ để HS tìm đọc hoặc cung cấp
cho HS một số tài liệu trích cuả các tác giả kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê Nin, các tác
phẩm của chủ tịch Hồ Chí Minh, của các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước ta....GV cần
lưu ý HS khi sử dụng các tài liệu tham khảo cần dẫn : Tên tài liệu là gì? Tài liệu đó của ai?
Của nhà xuất bản nào? Thời gian xuất bản? Tư liệu trích dẫn thuộc trang nào?
Ví dụ: Khi trình bày về tội ác của chủ nghĩa thực dân cũng như chế độ phân biệt
chủng tộc (A-phác-thai) ở miền Nam châu Phi, HS có thể dẫn lời: “Trong cơn sóng hận
thù và đầy thú tính, những kẻ tham gia hành hình lôi người da đen đến một khu rừng
hay quảng trường công cộng nào đó. Họ trói người đó vào cây, tưới dầu lửa, lấy những
chất dễ cháy phủ lên người đó. Trước khi châm lửa, họ bẻ từng chiếc răng rồi móc mắt.
Từng nhúm tóc bị rứt khỏi đầu, mang theo từng mảng da, để lộ ra một sọ người đẫm máu.
Nhiều miếng thịt nhỏ rời khỏi cái thân hình đã tím bầm vì bị đánh đập...”[12 ]
GV hướng dẫn HS tự đọc ở nhà để nắm nội dung chủ yếu của tài liệu kèm theo các
câu hỏi hướng dẫn như: Những vấn đề cơ bản của tài liệu này là gì? Nêu và phân tích các
vấn đề của tài liệu có liên quan đến bài học... Khi trả lời được câu hỏi như vậy HS sẽ hiểu
sâu hơn về sách giáo khoa và tài liệu, hình thành ở các em khả năng phân tích đánh giá, sử
dụng tài liệu trong học tập Lịch sử.
Sử dụng tài liệu văn học: Trong thực tế không ít tác phẩm văn học tự nó là một tư
liệu Lịch sử, ví như Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi,
Tuyên Ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, hoặc các tài liệu văn học dân gian... mỗi loại tài
liệu văn học có ý nghĩa riêng, khi kết hợp vận dụng trong ôn thi cho HS sẽ góp phần làm

sáng tỏ các vấn đề được nêu ra.
Ví dụ: Khi mô tả diễn biến quá trình thực dân Pháp đánh chiếm Gia Định và các tỉnh
miền Đông Nam Kỳ, chúng ta có thể minh họa bằng những câu thơ trong bài Chạy Tây
của Nguyễn Đình Chiểu để làm sinh động thêm phần trình bày của GV đồng thời khắc sâu
kiến thức cho HS.
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dác bay
Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây
Hỏi trang dẹp loạn dày đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!”[13]

15


Ví dụ khác: Khi nêu thực trạng tình hình đất nước thời vua Tự Đức, GV có thể viện
dẫn câu thơ dân gian:
“ Vạn niên là Vạn niên nào ?
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.” [14]
Vạn niên hay còn có tên gọi nữa là Khiêm lăng, là quần thể công trình lăng mộ vô
cùng quy mô, hoành tráng do Tự Đức xây dựng khi còn sống để lo hậu sự cho mình. Nó
được khởi công khi đất nước đang đối mặt với nhiều khó khăn thách thức. Công trình đã
tiêu tốn rất nhiều tiền của và công sức của hàng vạn dân phu, binh lính. Hàng trăm người
đã bỏ mạng vì tai nạn, bệnh dịch. Năm 1866, một số sĩ phu, quan lại và binh lính đã nổi
dậy khởi nghĩa tại đây.
* Thứ sáu: Đối với một HSG môn Sử thì việc nắm vững kiến thức cơ bản, biết phân
tích đánh giá sự kiện không chưa đủ mà còn phải biết rút ra bài học quý báu từ Lịch sử.
Do vậy GV phải hình thành cho HS các kỹ năng, biết vận dụng kiến thức Lịch sử vào thực

tế, rút ra bài học kinh nghiệm để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống.
Ví dụ : Sau khi tìm hiểu nội dung bài 12: NHẬT BẢN GIỮA THẾ KỶ XIX-ĐẦU
THẾ KỶ XX. HS phải biết liên hệ vào hoàn cảnh của đất nước ta lúc bấy giờ và bản thân
phải tự trả lời các câu hỏi như: Theo em tại sao Nhật Bản Duy tân thành công còn Việt
Nam lại thất bại? Em có suy nghĩ gì về công cuộc đổi mới hiện nay mà Đảng cộng sản
Việt Nam đang tiến hành? Là một HS đang ngồi trên ghế nhà trường em xác định trách
nhiệm của bản thân như thế nào đối với đất nước?
2.3.2.4. Hướng dẫn cách ghi nhớ Lịch sử.
Trong thực tế có nhiều người không bỏ nhiều công sức học tập nhưng vẫn nhớ nhiều
kiến thức Lịch sử hơn những người học nhiều. Thật ra vấn đề này phần nhiều phụ thuộc
vào cách thức ghi nhớ của từng người, có càng nhiều cách thì càng nhớ được nhiều kiến
thức. Để giúp HS ghi nhớ kiến thức Lịch sử thật nhiều và bền vững, tôi thường hướng dẫn
HS các cách thức như sau:
 Để ghi nhớ các sự kiện HS có thể lấy ngày sinh hay những ngày kỷ niệm quan trọng
của mình, của người thân mà trùng với ngày diễn ra các sự kiện để làm mốc ghi nhớ
sự kiện đó.
 Cũng có thể lấy những sự kiện Lịch sử thế giới đã nhớ làm mốc để nhớ sự kiện Lịch
sử dân tộc và ngược lại.
 Ghi nhớ bằng việc thống kê lại những sự kiện trong cùng một thời kỳ hay một giai
đoạn có ngày, tháng giống nhau, hay số cuối của năm giống nhau, những sự kiện diễn
ra trên một địa phương… Từ đó, suy nghĩ, sáng tạo ra những cách nhớ mới cho riêng
mình.
 Sau khi đã đi từ việc ghi nhớ các sự kiện cụ thể, chúng ta phải tìm cách ghi nhớ theo
hướng ngược lại là đi từ hệ thống, khái quát trở về cụ thể bằng việc xem lại mục lục
của sách giáo khoa, xem trong chương trình đã học có bao nhiêu chương (hay giai
đoạn Lịch sử), nội dung xuyên suốt của mỗi giai đoạn là gì, sự kiện nào thể hiện tiêu
biểu cho nội dung đó... Công đoạn này rất có ý nghĩa, nó giúp HS nắm một cách bao

16



quát những nội dung, giai đoạn Lịch sử, tránh được việc lẫn lộn các giai đoạn, sự kiện
Lịch sử với nhau.
 Trong quá trình học bài, HS cũng cần nhớ tên đề bài, tên tiểu mục. Nhiều HS học
thuộc nội dung nhưng lại không nhớ tên tiểu mục, khi làm bài có thể “râu ông nọ cắm
cằm bà kia”- nghĩa là lạc đề.
 HS cần nắm khung, tức là dàn ý, của cả bài hoặc của từng phần. Trước khi học cả bài
hay từng phần nên nắm chắc cái dàn ý của nó. Dàn ý thường theo giai đoạn hoặc theo
sự kiện, bao gồm nguyên nhân, diễn biến, kết quả, ý nghĩa. Nắm khung giúp nhớ có hệ
thống, nhớ lâu, dễ trả lời những câu hỏi tổng hợp. Điểm tiếp theo là các em phải nắm
chốt. Chốt là thời điểm gắn với một sự kiện quan trọng hoặc tương đối quan trọng.
Nếu là sự kiện quan trọng thì phải nhớ cả ngày, tháng, năm.
2.3.2.5. Hướng dẫn cho HS cách làm bài Lịch sử.
Để thành công trong việc thi HSG môn Lịch sử cũng như bất kỳ những môn học nào
khác, HS cần phải chú ý đến cách làm bài thi. Trong thực tế, nhiều HS học đã gặp thất bại
vì nhiều nguyên nhân như lạc đề, trình bày thiếu hoặc thừa so với yêu cầu của đề ra, bài
làm bị chắp vá thiếu sự lôgic...Thậm chí có những em HS rất giỏi, nắm rất chắc nội dung
bài học nhưng làm bài thi không đạt kết quả cao. Vì vậy cách làm bài thi là nhân tố quan
trọng có ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả cuối cùng của các thí sinh dự thi. Bài làm là
sản phẩm, là cơ sở thực tiễn để đánh giá trình độ, năng lực của HS qua kỳ thi. Để giúp HS
có kỹ năng làm bài tốt theo tôi người GV cần hướng dẫn HS thực hiện các thao tác sau
đây :
a) Xác định nội dung, yêu cầu của đề bài.
Điều đầu tiên trước khi làm bài, HS cần đọc kỹ đề, dành một ít thời gian để suy nghĩ
về yêu cầu của đề ra. Đọc thật kĩ từng chữ trong câu hỏi để hiểu rõ đề bài hỏi vấn đề gì?
Phạm vi thời gian mà câu hỏi yêu cầu là từ năm nào đến năm nào? Như vậy sẽ tránh được
sự lạc đề hoặc trình bày thiếu ý.
Ví dụ: Xác định nội dung câu hỏi “Trình bày khái quát về tình hình Châu Á từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai đến nay”. Với câu hỏi này HS phải xác định được vấn đề cần
trình bày ở đây là những nét tiêu biểu của tình hình châu Á trong khoảng thời gian từ năm

1945 đến nay.
b) Lập dàn ý cho bài làm.
Dù có thuộc đến mấy cũng không nên viết ngay vào giấy thi, mà cần viết dàn ý vào
giấy nháp sao cho thật đầy đủ và có hệ thống, đáp ứng đầy đủ những yêu cầu của câu hỏi.
Ở mỗi phần của dàn ý ấy, ghi những ý chốt - nghĩa là sự kiện quan trọng cùng với thời
điểm của nó, ghi nhanh những ý nghĩ, kiến thức chợt lóe lên trong đầu để khỏi quên. Nếu
không viết dàn ý thì khi viết qua, chợt nhớ ra chi tiết đã bỏ sót thì không thể bổ sung vào
khi trang giấy đã kín đặc. Làm được như vậy thì trong quá trình bài làm sẽ không bỏ sót
những sự kiện quan trọng, tránh được tình trạng bài làm bị chắp vá, bổ sung tùy tiện,
không đảm bảo tính logic, tính Lịch sử.
Ví dụ: Khi gặp câu hỏi “Trình bày những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc từ
năm 1919 đến năm 1925. Tại sao nói những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong giai
đoạn này là bước chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng của giai
17


cấp vô sản Việt Nam? ”[15] Với câu hỏi này, trước khi làm bài có thể lập dàn ý vắn tắt như
sau:
 Những hoạt động ở Pháp:
 18/6/1919: Gửi yêu sách lên Hội nghị Véc-xai.
 7/1920: Đọc luận cương về dân tộc và thuộc địa của Lênin.
 12/1920: Tham dự Đại hội của Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua.
 Năm 1921: Thành lập Hội liên hiệp thuộc địa.
 Năm 1922: Ra báo Người cùng khổ.
 Những hoạt động ở Liên Xô:
 6/1923: Tham dự Hội nghị quốc tế nông dân.
 Học tập và nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin.
 Năm 1924: Dự Đại hội lần thứ V Quốc tế cộng sản.
 Những hoạt động Trung Quốc:
 Cuối năm 1924 : Đến Trung Quốc.

 6/1925: Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, ra báo Thanh niên.
 Mở lớp đào tạo cán bộ cách mạng, Phát hành sách Đường cách mệnh.
 Những dẫn chứng để chứng tỏ những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị tư
tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở nước ta. (Chủ
yếu là những hoạt động ở Liên Xô và Trung Quốc)
c) Phân bố thời gian một cách hợp lý.
Phân bố thời gian là yếu tố giúp HS hoàn thành bài thi đúng kế hoạch, đảm bảo giải
quyết hết các câu hỏi của đề bài, do vậy khi làm bài, HS có thể dựa vào thời gian cho phép
của buổi thi để thông qua nội dung các câu hỏi mà phân chia cho hợp lý, sau đó ghi thời
gian dành cho từng câu, từng phần vào dàn ý để nhắc nhở bản thân chú ý thời gian trong
quá trình làm bài. Khi làm bài thì không nhất thiết phải di tuần tự từ câu 1 đến câu cuối
cùng, mà cứ câu nào dễ thì làm trước, câu khó làm sau, nhưng nhớ làm câu nào phải làm
cho hoàn chỉnh. Đừng mất thời gian nhiều cho phần mở bài, nên nhanh chóng đi thẳng vào
vấn đề cần trình bày để tiết kiệm thời gian.
Phải tính toán thời gian làm sao khi viết bài xong vẫn còn 10 đến 15 phút để đọc lại
lần cuối rồi mới nộp bài, trong khi đọc, rà soát bài làm sẽ phát hiện ra những sai sót, nhầm
lẫn và chỉnh sửa kịp thời. Vì vậy có thể nói rằng đọc lại bài làm là khâu rất quan trọng để
bài thi được điểm cao hơn.
Cho HS làm đề thường xuyên cũng là cách để các em phân chia thời gian sao cho
hợp lí giữa từng câu, từng ý trong câu. Những câu dễ mang tính nhận biết thường có điểm
thấp (1-2 điểm), đa số HS đều làm được, nếu các em phân chia thời gian không hợp lí sẽ
dễ sa đà làm dài dòng tốn thời gian, trong khi những câu hỏi khó, điểm cao(4-5 điểm) thì
bỏ lại.
Ví dụ: Khi gặp câu hỏi: Tháng 7/1995 Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á(ASEAN). Sự kiện này đã tạo ra những thuận lợi và thách thức gì cho chúng ta ?
[16] Câu này chỉ 2,0 điểm, HS chỉ cần nêu: 1. Thuận lợi, 2. Thách thức là đủ. Và cũng nội
dung kiến thức đấy, nhưng ở dạng câu hỏi: Trình bày quá trình thành lập tổ chức ASEAN?
18



Mục tiêu hoạt động của khối ASEAN hiện nay là gì?(5.0 điểm) thì HS phải nêu được bối
cảnh Đông Nam Á sau khi giành được độc lập, nhu cầu hợp tác giữa các nước, mục tiêu,
nguyên tắc hoạt động, quá trình mở rộng của tổ chức…
d) Cách viết và trình bày bố cục của bài thi.
Viết nhanh là kỹ năng cần thiết nhưng cố gắng viết đúng chính tả, viết rõ ràng, câu
văn trong sáng, rõ nghĩa, trình bày đẹp, sáng sủa, dễ đọc. Hết mỗi ý chính, mỗi sự kiện nên
xuống dòng. Vì Lịch sử là một môn khoa học xã hội nên trong khi làm bài có thể trình bày
một cách có hệ thống, nếu thấy cần thiết để làm nổi bật từng giai đoạn, từng sự kiện, từng
ý nghĩa có thể đánh kí hiệu 1, 2, 3 hoặc a, b, c hoặc gạch đầu dòng.
Làm bài thi môn Lịch sử cũng gần giống như làm một bài văn – tức là khi trình bày
bài làm (trả lời câu hỏi) cần phải đi tuần tự từ mở bài đến thân bài và kết luận. Trong đó:
 Phần mở bài thường trực tiếp đi thẳng vào vấn đề hoặc đề cập chi tiết liên quan sau đó
dẫn dắt vấn đề cần trình bày, đừng mất nhiều thời gian suy nghĩ về “mở bài”. Khi đã
xác định đúng nội dung sẽ biết mở bài thế nào.
 Phần thân bài là phần giải quyết những vấn đề đặt ra, chứa đựng những nội dung cơ
bản của bài làm.
 Phần kết luận phải nêu lên các luận điểm, quan điểm chủ đạo, khái quát vấn đề đặt ra
(có liên hệ thực tế, rút ra bài học kinh nghiệm)
Ví dụ: Xây dựng bố cục khi trình bày “Nội dung cơ bản của văn kiện được thông
qua trong hội nghị thành lập Đảng 2/1930?”
Với ví dụ này, sau khi đọc kỹ đề, xác định nội dung cần trình bày, lập dàn ý...thì HS
xây dựng bố cục cần trình bày như sau:
Phần mở đầu: Đặt vấn đề, giới thiệu ngắn gọn vấn đề cần giải quyết đó là tại Hội
nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, nhiều văn kiện do
Người soạn thảo được thông qua. Vậy nội dung ý nghĩa của tài liệu ấy, văn kiện ấy như thế
nào? Đó là vấn đề cần giải quyết trong bài.
Phần thân bài: Phần chủ yếu quan trọng nhất của bài, tập trung trình bày các sự kiện,
ý tưởng ... nhằm giải quyết vấn đề được đặt ra. Với ví dụ trên thì phần này có một số điểm
cần chú ý giải quyết như sau:
- Đôi nét về hoàn cảnh, điều kiện Lịch sử ra đời của Đảng: Nêu ngắn gọn không đi vào chi

tiết, mà chủ yếu nêu rõ sự ra đời của Đảng là một tất yếu Lịch sử.
- Nội dung cơ bản của văn kiện do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị nhất trí
thông qua.
- Phân tích giá trị, ý nghĩa của tài liệu, văn kiện: Được xem như là cương lĩnh đầu tiên của
Đảng.
Kết luận: Không tóm tắt những ý đã trình bày ở thân bài mà cần nêu lên luận điểm
đánh giá ý nghĩa, tác dụng của văn kiện đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Kết quả thực hiện
Bằng những biện pháp thực hiện như trên, bản thân tôi đã mạnh dạn áp dụng thực hiện
trong nhiều năm qua và đã mang lại kết quả nhất định.
19


Đối với GV: Qua quá trình thử nghiệm đề tài, GV được phát huy mọi khả năng của
mình trong quá trình dạy học, kiến thức bộ môn được củng cố và nâng cao, GV rút ra được
nhiều kinh nghiệm quý báu cho bản thân. Kết quả của trò là niềm vui, niềm động viên lớn
lao nhất đối với người GV. Vì vậy, làm cho GV trở nên yêu nghề hơn, tự tin hơn, có tinh
thần trách nhiệm cao và luôn phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Đối với HS: Các em được mở mang kiến thức, phát triển tư duy, phát huy tính độc
lập sáng tạo, xóa bỏ được kiểu học nhồi nhét, học tủ, học vẹt, học đối phó. Qua đó tạo
niềm say mê hứng thú học tập bộ môn, HS không chỉ hiểu, biết, mà nhận thức Lịch sử một
cách sâu sắc. Qua các thế hệ học trò cho thấy số lượng HSG bộ môn đạt tỷ lệ tương đối
cao, có nhiều em đạt giải HSG cấp tỉnh. Cụ thể:
THỜI GIAN
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Năm học 2009-2010 1 HS đạt giải Ba cấp Huyện (Cấp tỉnh đạt giải Ba)
Năm học 2010-2011 02 HS đạt giải cấp Huyện (1 giải Ba, 1 KK), 1 giải Ba cấp
Tỉnh
Năm học 2012-2013 1 HS đạt giải Ba cấp Huyện (Cấp tỉnh đạt giải Ba)

Năm học 2016-2017 1 HS đạt giải Ba cấp Huyện (Cấp tỉnh đạt giải KK)
Các năm học khác
Thường xuyên có giải hoặc bám giải trong các kỳ giao lưu,
chính thức
2.4.2. Bài học kinh nghiệm
- Trước khi mong muốn HS yêu môn Lịch sử, GV phải tâm huyết với nghề và hăng say
với công tác giảng dạy.
- Xây dựng đội tuyển phải trên tinh thần tự nguyện.
- Kế hoạch và phương pháp ôn hợp lí.
- Kỹ năng nhớ và kỹ năng viết.
- Cách trình bày, phân chia thời gian
- Tâm lí khi dự thi
- Nguồn động viên, hỗ trợ từ phía gia đình các em.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Để làm tốt việc tuyển chọn và bồi dưỡng HSG môn Lịch sử có thể có nhiều cách làm
khác nhau, nhưng với bản thân tôi nghĩ rằng GV phải biết cách tuyển chọn những HS có
năng khiếu, hứng thú với môn học và định hướng các em vào đội tuyển ngay từ đầu cấp.
Trong quá trình thực hiện GV vận dụng linh hoạt, có sự điều chỉnh, bổ sung, ứng dụng
những kinh nghiệm như trên thì kết quả đem lại rất khả quan, chất lượng ôn thi từng bước
được nâng cao.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ mà bản thân tôi đã đúc rút được qua quá trình
thực nghiệm trong nhiều năm làm công tác bồi dưỡng HSG, cũng như qua tham khảo ý
kiến của một số đồng nghiệp cùng bộ môn trong cụm và Huyện. Tôi biết sáng kiến và
20


những kinh nghiệm này vẫn chưa hoàn chỉnh nên qua đây xin được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô, các anh chị đồng nghiệp để việc dạy học môn Sử và đặc biệt là bồi dưỡng
HSG môn Sử ngày càng tốt hơn.

3.2. Kiến nghị :
- Phòng GD & ĐT cần làm tốt hơn nữa công tác ra đề thi, tổ chức thi, chấm thi, thời gian
thi để HS tham gia ôn luyện và dự thi có hiệu quả.
- Nhà trường cần tăng cường bổ sung CSVC, trang thiết bị, tài liệu hỗ trợ để phục vụ công
tác ôn thi HSG.
- Hội cha mẹ HS kết hợp với chi hội khuyến học trường tìm nguồn hỗ trợ, động viên khen
thưởng kịp thời những GV và HS có thành tích nổi bật trong các kỳ thi.
Trên đây là một số nội dung, giải pháp mà bản thân tổ chức thực hiện trong công tác
bồi dưỡng HSG ở trường THCS Thiệu Hòa, huyện Thiệu Hóa nhằm tích cực nâng cao chất
lượng mũi nhọn của đơn vị nhà trường. Trong quá trình thực hiện đề tài chắc không tránh
khỏi thiếu sót, tôi rất mong sự nhận xét, góp ý của các đồng nghiệp để nội dung nghiên
cứu, các biện pháp, cách làm của mình được hoàn chỉnh hơn và có thể được ứng dụng
trong thực tế công tác bồi dưỡng HSG.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 01 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Phạm Hồng Cường

Nguyễn Doãn Hùng

MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu

2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Đặc điểm chung
2.2.2. Mục đích yêu cầu

TRANG

1

2
3
4

21


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Phát hiện và tuyển chọn HSG môn Lịch sử
2.3.2. Bồi dưỡng HSG bộ môn Lịch sử

8

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Kết quả thực hiện
2.4.2. Bài học kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị


19
20

QUY ƯỚC VIẾT TẮT

1. Giáo viên :
2. Học sinh :
3. Sáng kiến kinh nghiệm :
4. Khuyến khích :
5. Cơ sở vật chất :
6. Học sinh giỏi :
7. Sách giáo khoa :
8. Nhà xuất bản :

GV
HS
SKKN
KK
CSVC
HSG
SGK
NXB

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nói về giáo dục Việt Nam đầu năm mới.
2. Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh, một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự
nghiệp, Nxb. ST, H.1990, tr.39
3. Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh, một con người…Sdd. tr.85
4. SGK Lịch sử 8 (Tái bản lần thứ chín) – NXB Giáo dục.tr.134
5. SGK Lịch sử 8… Sdd.tr.125

6. SGK Lịch sử 8… Sdd.tr.130
7. SGK Lịch sử 9 (Tái bản lần thứ chín) – NXB Giáo dục.
22


8. SGK Lịch sử 8… Sdd.tr.129
9. SGK Lịch sử 8… Sdd.tr.127
10. SGK Lịch sử 9… Sdd.tr.140+141
11. SGK Lịch sử 9… Sdd.tr.122
12. Hồ Chí Minh.Tuyển tập. Tập 1, NXB Sự thật Hà Nội, 1980, tr. 270.
13. SGK Ngữ văn lớp 11 – NXB Giáo dục
14. Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn – Phạm Khắc Hòe, NXB Thuận Hóa.
15+16. Đề thi HSG Lịch sử THCS các năm học.

23



×