Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Đặc điểm tranh Bùi Xuân Phái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.97 KB, 22 trang )

Bài tập chuyên đê
Học phần: Văn học và các loại hình nghệ thuật
Đề tài: Tranh của Bùi Xuân Phái và lời hát về Hà Nội

1


Đề bài: Với tư cách là một người hướng dẫn du lịch về tranh của Bùi Xuân
Phái, các bạn sẽ giới thiệu về điều gì? Giới thiệu một số ca khúc viết về Hà
Nội.
Câu 1: Với tư cách là một người hướng dẫn du lịch về tranh của Bùi Xuân
Phái, các bạn sẽ giới thiệu về điều gì?
Có một người họa sĩ tài hoa đã từng viết: “Tôi vẽ để làm sáng tỏ ba điều:
tôi là người yêu nước, tôi là người tốt, tôi là người có tài”. Đó chính là Bùi
Xuân Phái – người được xem là một trong bốn tứ trụ của nền hội họa hiện đại
Việt Nam cùng với Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng.
1. Tiểu sư
Bùi Xuân Phái (1/9/1920 – 24/06/1988), quê gốc ở làng Kim Hoàng, xã
Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội). Ông tốt nghiệp
khoa Hội họa trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa 1941–1945. Sau đó,
ông tham gia kháng chiến và tham dự triển lãm nhiều nơi cùng với các họa sĩ
khác.
Năm 1952, Bùi Xuân Phái trở về Hà Nội và sống tại nhà số 87 Phố Thuốc
Bắc cho đến khi mất.
Từ năm 1956 đến năm 1957, Bùi Xuân Phái giảng dạy tại Trường Mỹ
thuật Hà Nội. Do tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm, Bùi Xuân Phái phải
đi lao động, học tập trong một xưởng mộc tại Nam Định đồng thời ban giám
hiệu nhà trường đã đề nghị ông viết đơn xin ngưng giảng dạy tại trường Mỹ
thuật.
Từ năm 1957 trở đi, hoạt động của ông dần bị hạn chế. Để kiếm sống,
ông phải vẽ tranh minh họa và tranh vui cho các báo, lấy bút hiệu là : PiHa,


ViVu, Ly… Đến năm 1984 ông mới có được cuộc triển lãm cá nhân (đầu tiên và
cũng là duy nhất), nhận được sự đánh giá cao từ phía công chúng, đồng nghiệp.
Với 24 bức tranh được khách hàng đặt mua ngay trong ngày khai mạc, có thể
coi đây là triển lãm thành công nhất so với trước đó tại Việt Nam. Đó cũng là
lần đầu tiên, Đài truyền hình Trung ương dành thời lượng lớn phát sóng để giới
thiệu về cuộc đời và tác phẩm của Bùi Xuân Phái trong chương trình Văn học
Nghệ thuật.
Với những đóng góp to lớn cho nền hội họa nước nhà, năm 1996, ông
được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật.
II.
Một số đề tài chính trong tranh của Bùi Xuân Phái
Bùi Xuân Phái quan niệm: “Nhìn cuộc sống trôi đi mà không vẽ thì buồn
quá! Hãy làm việc, vẽ nhiêu để mà sống nhiêu và sống nhiêu để vẽ nhiêu”. Do
đó, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ với nhiều đề tài khác nhau:
chân dung, tĩnh vật, chèo, nông thôn… và đặc biệt người ta biết đến ông hơn cả
với đề tài phố cổ Hà Nội. Dòng tranh này của Bùi Xuân Phái được quần chúng
mến mộ gọi là Phố Phái. Các sáng tác của ông được vẽ trên nhiều chất liệu khác
2


nhau: vải, bảng gỗ, giấy thậm chí là trên giấy báo, trên vỏ bao thuốc lá …khi
không có đủ nguyên liệu với nhiều phương tiện hội họa khác nhau như: sơn dầu,
màu nước, bút chì…
1. Đề tài chân dung
Theo họa sĩ Bùi Thanh Phương, cha anh - họa sĩ Bùi Xuân Phái vẽ rất
nhiều chân dung. Ở tất cả chân dung của ông, người ta thấy người mẫu thường
là những người rất thân với họa sĩ, được ông dành tất cả tình cảm như vợ con,
anh em, người hàng xóm, bạn bè đồng nghiệp... Và người phụ nữ được ông vẽ
nhiều chân dung nhất, chính là người vợ của ông (bà Nguyễn Thị Sính). Những
bức chân dung vẽ vợ ông, người ta vẫn thường gọi chung là chân dung bà Phái.

Cảm xúc của nhân vật trong tranh chân dung của Bùi Xuân Phái được
khắc họa rất đa dạng: lúc vui, lúc buồn, lúc trầm tư, lo lắng… Ông chú trọng bắt
lấy cái hồn, khắc họa khuôn mặt, thần thái đặc biệt là đôi mắt. Qua đó giúp
người xem cảm nhận một cách sâu sắc tâm trạng của nhân vật trong tranh, làm
cho nhân vật trong tranh mang hồn cốt khác nhau với những nét riêng, không hề
pha trộn. Ta thấy rằng: tranh chân dung của Bùi Xuân Phái rất “mộc”, người họa
sĩ không hề “trang sức” cầu kì nhưng do được vẽ nên bởi tình cảm chân thành,
bằng tình yêu của người nghệ sĩ nên tranh chân dung của ông có sức lay động
rất mãnh liệt. Những điều này được thể hiện khá rõ nét trong tác phẩm “Chân
dung cô Liên”.

Hình 1: Chân dung cô Liên
3


Đề tài nông thôn
Bằng trực cảm của người nghệ sĩ, Bùi Xuân đã hệ thống hóa mọi sự vật
vào một “khung sơ đồ”, bỏ qua mọi ngẫu nhiên, chỉ giữ lại cái cốt lõi của sự
vật. Mọi sự vật, con người, hoạt động đều rất tiêu biểu, đặc trưng của vùng nông
thôn Việt Nam.
2.

Hình 2: Phong cảnh nông thôn
Trong tranh “Phong cảnh nông thôn” ta bắt gặp những cảnh vật rất đặc
trưng của nông thôn: cổng làng, quán nước đơn sơ, rặng tre, đường làng…và
con người trong trang phục và hoạt động đậm chất nông thôn Việt Nam: chăn
trâu, ngồi nghỉ ở quán nước, uống bát nước chè xanh, kể dăm ba câu chuyện...
Cả bức tranh được bao trùm lên bởi những màu sắc tươi tắn. “Phong cảnh nông
thôn” nói riêng và các bức tranh về đề tài nông thôn nói chung của Bùi Xuân
Phái thường đem đến cho ta một cảm giác bình yên đến lạ lùng.

3. Đề tài khỏa thân
Cũng giống như nhiều họa sĩ nổi tiếng thế giới khi về cuối đời, thường trở
lại với đề tài tranh khỏa thân như một sự lưu luyến, mong muốn trở lại với tình
yêu lứa đôi những năm trẻ tuổi. Nói về tranh khỏa thân của cha mình họa sĩ Bùi
Thanh Thương cho biết: “Bộ tranh nude cuối đời của cha tôi cũng tương tự như
bộ tranh nude cuối đời của danh họa Picasso, đã gây bất ngờ cho giới hội họa.
Điêu quan trọng là chúng ta phải phân biệt được cái đẹp, cái hay của tranh
nude nghệ thuật và loại tranh khỏa thân kiểu phàm tục. Nó cũng giống như
nhiêu người thấy bất ngờ, choáng váng khi gặp trong một số đên đài Ấn Độ”.
Những tác phẩm tiêu biểu nhất của đề tài khỏa thân trong tranh của Bùi Xuân
Phái đó chính là những bức tranh minh họa cho thơ Hồ Xuân Hương. Dựa vào
thơ Hồ Xuân Hương, họa sĩ đã vẽ nên những bức tranh minh họa để đời cho thơ
bà.
Hầu như các bức tranh khỏa thân của ông thường bắt nguồn từ thực tế (có
mẫu). Thời đó, ông hay đến nhà các đồng nghiệp có xưởng vẽ để vẽ mẫu. Nhóm
4


các ông thường khoản từ 3 đến 4 người, chung tiền thuê người mẫu về vẽ. Bùi
Xuân Phái thường vẽ ký họa theo người mẫu thực và có nghiên cứu cẩn thận,
không chỉ đặc tả hình thể mà còn đặc tả gương mặt với nội tâm nhân vật, sau đó
về nhà mới dựng thành tác phẩm mỹ thuật hoàn chỉnh. Các tư thế mà ông vẽ
mang đậm đặc trưng đàn bà Việt Nam: những cái lưng khom, quần tụt xuống
dưới mông trong lúc chuẩn bị tắm, những cô nàng của thơ Hồ Xuân Hương với
các dáng nằm khiến “quân tử dùng dằng đi chẳng dứt…” Ông nói vui: “những
khoả thân của mình chỉ là ý niệm đã qua,của một thời đã mất". Do vậy, tranh
khỏa thân của ông rất sống động, có tình cảm, có số phận.

Hình 3:Tranh minh họa bài thơ Đèo Ba Dội – Hồ Xuân Hương
Đề tài chèo

Năm 1970, Bùi Xuân phái sống làm việc với các đoàn chèo. Ông đã
mượn sân khấu để làm hội hoạ với đủ quy trình của nó. Phái xây dựng bảng
mẫu phục trang rất là cẩn thận. Nét vẽ đơn giản tinh tế phù hợp với tính cách
của từng nhân vật. Ở giai đoạn đầu những tác phẩm chèo của ông gần như là sự
thử nghiệm. Trong thời gian nầy màu vẽ khan hiếm có nhiều bức ông dùng màu
còn thừa khi làm thiết kế nên có chỗ màu chưa phủ kín giấy. Tuy vậy, trong giai
đoạn này tranh của ông đậm nét hồn nhiên, xúc cảm, màu sắc của nhân vật tạo
nên bảng màu chính cho đề tài . Ngôn ngữ hội hoạ của ông không tả kể như
chèo mà là những nhịp điệu biến ảo mảng nét với những màu tương phản.
Những tiếng trống cầm trầu, những tiếng đàn, sáo, mõ chèo như bước ra khỏi
tranh. Ở những hoạ sắc bố cục dìu dặt những đốm màu bất chợt chói. Xem tranh
4.

5


chèo của Bùi Xuân Phái đôi khi màu sắc trong tranh ông trở thành làn điệu
chính để hình thể, đường nét làm nhạc đệm. Mười lăm năm sau tất cả tài liệu về
sân khấu truyền thống này đã được ông thử nghiệm một lần nữa và đúc kết lại
với tầm vóc của những tác phẩm hoàn chỉnh. Những gam màu của ông trở nên
đằm thắm chắc chắn hơn. Ở những bố cục nhóm nhiều bức không còn tiết tấu
dồn dập nữa mà lắng lại, phảng phất, bảng lảng như có như không. Ông đã vẽ
được rất nhiều bức tranh về nghệ thuật chèo lớn và nhỏ, những bức tranh chèo
của Bùi Xuân Phái chứa đựng cái thẩm mĩ nhân gian hóm hỉnh của làng xã Việt
Nam. Những hề mồi, hề gậy, những đào lệch, đào thương… được làm sống
động bằng một ngôn ngữ hội hoạ. Những bức tranh của ông làm nên một ngôn
ngữ chèo nhân vật người nông dân đồng bằng Bắc Bộ xuất hiện đầy chất thơ,
sâu sắc và nhẹ nhàng. Xem tranh chèo của ông, ta thấy nét vẽ rất đơn giản
nhưng tinh tế phù hợp với các nhân vật. Nữ mặc áo tứ thân với yếm và những
dải lụa ngang. Màu sắc của ông đơn giản thể hiện tuổi tác, tính cách và địa vị xã

hội của nhân vật. Người già áo đen, thâm, tím. Người trẻ mặc áo tươi sang như
xanh lơ, hồng cánh xen. Ngoài ra, Bùi Xuân Phái còn thể hiện được các hoạt
động của những người nghệ sĩ chèo trước giờ biểu diễn: ngồi trang điểm, nghỉ
mệt, trò chuyện với nhau sau màn diễn hay động như thay quần áo, cầm quạt,
cầm nón múa thử trước khi ra sàn diễn.

Hình 4: Trước giờ biểu diễn
6


Đề tài về phố cổ Hà Nội
Thành công ở trên nhiều đề tài nhưng theo chúng tôi đề tài thành công,
nổi bật trong sự nghiệp hội họa của Bùi Xuân Phái có lẽ là tranh về phố cổ Hà
Nội.
Tranh phố của Bùi Xuân Phái vừa cổ kính lại rất hiện thực, thể hiện
rõ hồn cốt của phố cổ Hà Nội những thập niên 50, 60, 70, 80 của thế kỉ XX.
Vẽ tranh về phố cổ Hà Nội, người họa sĩ không chỉ tả thực mà còn gửi
gắm những tình cảm của mình vào tác phẩm do đó chúng ta có thể chia đề tài
tranh về Hà Nội của Bùi Xuân Phái làm ba giai đoạn dựa vào màu sắc, con
người trong tranh và tâm tư, tình cảm của người họa sĩ: Từ năm 1960 đến năm
1970: thời kỳ nâu, từ năm 1970 đến năm 1980: thời kỳ ghi xám, từ năm 1980
đến năm 1988 : thời kỳ lam. Ngắm tranh phố cổ của Phái, người xem còn thấy
được tấm lòng của ông gắn liền với từng "mái nhà dưới nắng vàng nghiêng
nghiêng hàng dương liễu" (Trần Thụ).
5.

+ Thời kì nâu (1960 – 1970): Những bức vẽ trong thời kỳ này phản ánh
khung cảnh của phố cổ Hà Nội nguyên chất nhất, chưa bị sửa sang, cơi nới.
Tranh ông trong giai đoạn này thường bàng bạc nỗi buồn da diết, cô đơn, hoài
cổ, như tiếc nuối một thời tuổi trẻ đã mất, phố thường vắng bóng người qua, các

căn nhà có cửa mặt tiền luôn đóng chặt với dáng vẻ trầm mặc, những mái nhà
thâm nâu của khu phố cổ im lìm dưới sức nặng của bầu trời xám như dự báo
một cơn giông sắp ập xuống. Điều đặc biệt là các ô cửa chỉ được mô tả bằng vệt
màu thẫm.

7


Hình 5: Phố cổ Hà Nội
+Thời kì ghi xám (1970 – 1980): Giai đoạn này Bùi Xuân Phái vẽ tranh
phố cổ Hà Nội bằng bột màu, nhiều bức được vẽ trên giấy báo, được thể hiện
với gam màu ghi xám. Phố trong tranh ông đã bớt đi vẻ cô liêu, trầm mặc, nét
vẽ tung tẩy, nhẹ nhàng, tươi sáng hơn…

Hình 6: Phố cổ Hà Nội
Bức tranh này được ông vẽ vào năm 1972 với chất liệu sơn dầu. Nhìn
vào bức tranh ta thấy vào thời điểm này những khu phố cổ ở Hà Nội vẫn còn
một nét cổ kính, rêu phong của những mái ngói thâm nâu, bên cạnh những ngôi
nhà cao mới và những căn nhà nhỏ với mái ngói xanh. Như vậy, đây có thể là
thời điểm đổi mới giữa cái cổ kính và cái hiện đại trong phố cổ Hà Nội. Bên
cạnh những ngôi nhà nơi phố cổ ta vẫn bắt gặp những ngôi nhà với mái ngói
nhiều màu chứ không phải chỉ là mái ngói thâm nâu như giai đoạn trên. Khác
với những bức tranh phố cổ Hà Nội ở giai đoạn trước của Bùi Xuân Phái, ta
thấy toàn những gam màu tối, rêu phong nhưng bức tranh này lại có gam màu
sáng hơn. Trên phố không còn người đàn ông mặc áo dài và cầm ô đi trên hè
phố nữa. Con người cũng có trang phục khác, tươi sáng hơn, các ô cửa sổ được
vẽ kỹ lưỡng và chi tiết hơn, xe bò không được phép đi vào thành phố nữa nên
không hiện diện trong tranh ông…

8



+ Thời kì Lam (1980 – 1988): ta bắt gặp sự nhẹ nhõm hơn, sự xuất
hiện những gam màu ấm của nắng và con người với tà áo đỏ ... trong tranh ông.

Hình 7: Phố cổ Hà Nội

Qua ba giai đoạn, ta đều thấy nổi bật lên sự nghiên cứu kĩ lưỡng về cấu
trúc phố của Bùi Xuân Phái. Kiến trúc đặc trưng của những ngôi nhà, của phố
9


cổ Hà Nội được người họa sĩ phát hiện và phản ánh. Những ngôi nhà có cửa sổ,
gác xép, bạt che trước cửa chống nắng bụi là đặc trưng của nhà trong phố cổ Hà
Nội được người họa sĩ phát hiện. Còn những ngôi nhà cổ mọc san sát nhau, mái
ngói nghiêng, đầy rêu phong, những mảng tường vôi lở, những ô cửa nhỏ đợi
chờ, những cột điện đầu ngõ xiêu vẹo, những vỉa hè lát gạch chạy dọc khắp các
con phố nhỏ...là đặc trưng kiến trúc của phố cổ Hà Nội. Điều đó được Bùi Xuân
Phái khái quát với tư duy lập thể. Ông thường vẽ bố cục phố ngang, cái trước
cái sau, những mái nhà không thẳng hàng được dâng cao, bầu trời thu hẹp cho
thấy họa sĩ vẽ ở góc độ của người đi tản bộ qua phố ngước nhìn lên. Ở một vài
tranh bắt đầu xuất hiện lối rẽ của phố, làm bố cục sâu hơn.
Đặc biệt người xem nhận ra ông, không thể lẫn với ai, ở từng nét vẽ, từng
mảng màu. Bùi Xuân Phái có lối vẽ nhanh, mạnh, dứt khoát, để lại trên tranh
nhiều nhát dao trát, những lớp sơn gồ ghề, ít tả, mà tràn trề, no đầy với những
mảng màu lớn, đầy phong phú và đày đặn thông qua những vệt bút, những nhát
trát mạnh bạo, dứt khoát. Những đường viền đậm đặc, những gam nâu, xám,
những đốm đỏ, cam bất chợt rực cháy…đặc trưng của Bùi Xuân Phái luôn luôn
làm người ta kinh ngạc vì sự đơn giản đến lạ lùng của nó nhưng lại tạo nên một
dấu ấn rất riêng.

Một điều đặc biệt làm nên thành công của Bùi Xuân Phái đó là ông vẽ
tranh chính xác bằng những gì ông thuộc, bằng cảm quan của người nghệ sĩ chứ
không phải vẽ theo máy móc số học.

Hình 8 : Hồ Hoàn Kiếm
Bức tranh vẽ về Hồ Hoàn Kiếm và tháp Rùa trên đó xưa kia có đình Tả
Vọng của chúa Trịnh.Cuối thế kỉ XIX , đình đã bị đổ nát chỉ còn lại thềm, và
10


một ngọn tháp đã được dựng lên trên nền này, tức là tháp Rùa hiện nay. Phía
Hàng Khay nhìn sang thì có 2 cửa, phía Hàng Trống nhìn lại là 3 cửa. Điều đó
cũng chứng tỏ sự quan sát một cách tỉ mỉ của Bùi Xuân Phái.
Suốt trong 40 năm lao động nghệ thuật, Bùi Xuân Phái dành cho Hà Nội
tất cả tình yêu của mình. Ông sống là để vẽ, vẽ vào bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ
nào có thể vẽ được. Những tranh phố của ông đủ dựng nên một thành phố thật,
thân thiết với những Hàng Khoai, Hàng Mắm, Hàng Chĩnh, Hàng Rươi…
nhưng đó là một thành phố của ký ức. Ta dễ dàng bắt gặp một người họa sĩ già,
mặc áo măng tô loanh quanh ở khắp các con phố cổ nhưng người họa sĩ đó
không bao giờ hoàn thành tác phẩm của mình ngay tại chỗ mà thường về nhà
ông mới vẽ lại. Phố cổ Hà Nội trong tranh ông là phố của những mảng tường
vôi lở, những mái ngói rêu phong, những ô cửa nhỏ đợi chờ, những đám mây
trắng ngần, những cột điện đầu ngõ xiêu vẹo... Một bút pháp vừa thực vừa hư,
gây ấn tượng sâu sắc. Nó làm người ta không ngờ những nơi bình dị mắt ta quen
nhìn hàng ngày lại có thể đẹp một cách giản dị và mãnh liệt. Nhà phê bình mỹ
thuật Thái Bá Vân viết: "Hà Nội rất hội họa ở những phố phường xưa. Và có
thể nói công bằng, theo cách của nghệ thuật rằng, Bùi Xuân Phái đã phát hiện
ra nó. Là người Hà Nội, hình như ông được sinh ra để gắn bó, để cảm hóa
chúng ta vê một thế giới thể hình và màu sắc của riêng đây. "Phố Phái" là phố
của chung tất cả mọi người, ông chỉ là người đầu tiên phát hiện ra nó - người

đầu tiên và sau ông, hình như vẫn chưa có ai, dù đã có rất rất nhiêu họa sĩ say
mê đi tìm vẻ đẹp nơi rêu phong phố cổ". Với ông, vẽ phố được làm như một
sinh hoạt bình thường, dường như không có ngày nào ông không có nhu cầu vẽ
về nó. Ông vẽ phố như đang trò chuyện với người bạn tri kỷ, câu chuyện không
có bắt đầu cũng chẳng có kết thúc. Ông bắt được vẻ đẹp của phố cổ khi ngồi
uống cà phê, khi đi bộ một mình trên đường, khi ngồi trầm ngâm bên chén rượu
trắng, và cả khi đếm lại những ký ức nhọc nhằn của cuộc đời mình. Ông vẽ phố
trên giấy báo, gỗ, bao thuốc, vỏ hộp diêm... Phố Hàng Bè, Hàng Buồm, Hàng
Bạc, Nguyễn Hữu Huân, ngõ Gia Ngư... đã đi vào hàng trăm bức họa của Bùi
Xuân Phái, mỗi bức cảm động như chân dung thân phận một con người, mỗi
bức phố dường như một lần ông gắm tình yêu, nỗi niềm của ông dành cho Hà
Nội.
Phố cổ qua lăng kính tâm hồn ông buồn, lặng lẽ. Dù là phố về đêm hay
ban ngày, phố có người, có quán... nhưng đa phần đều thưa thớt và mang một
nỗi u buồn, vắng lặng một cách khó tả. Một ông đồ già che ô, một phụ nữ dáng
tất tả đi qua khung cửa nhìn xiên, dăm người trong quán trà quạnh vắng bên vỉa
hè... đó là những "nét động" khe khẽ không đủ đánh thức phố khỏi giấc mơ êm
đềm…
Mấy chục năm đã trôi qua, cũng có rất nhiều họa sĩ vẽ về phố cổ Hà Nội
nhưng có lẽ chưa ai có thể thay thế, vượt qua Bùi Xuân Phái trong mảng đề tài
này. Qua tác phẩm của ông, Hà Nội được hiện lên một cách rõ nét, không hề
11


pha trộn. Còn Hà Nội, với tình yêu và lòng biết ơn, đã ghi tên ông vào 1000
năm thiêng liêng của mình - Phố Phái!

Câu 2: Giới thiệu một số ca khúc viết về Hà Nội.
Nếu như có ai đó làm một cuộc khảo sát những ca khúc viết về một địa
danh trên đất nước ta thì chắc chắn Hà Nội sẽ chiếm vị trí “quán quân” về số

lượng và sức lan toả với sự trường tồn cùng với thời gian. Điều này cũng dễ
hiểu bởi Hà Nội là thủ đô nghìn năm văn hiến, là bộ mặt, là trái tim của dân tộc.
Do đó, lời bài hát về Hà Nội cũng mang những đặc điểm rất riêng, rất độc đáo.
Chúng tôi đã chọn một số ca khúc nổi tiếng và đặc trưng viết về Hà Nội:
Người Hà Nội (sáng tác Nguyễn Đình Thi); Nhớ mùa thu Hà Nội (sáng tác
Trịnh Công Sơn); Em ơi Hà Nội phố (thơ: Phan Vũ, phổ nhạc: Phú Quang), Hà
Nội mười hai mùa hoa (sáng tác: Giáng Son); Hà Nội và tôi (thơ: Hoàng Phủ
Ngọc Tường, phổ nhạc: Lê Vinh); Hà Nội mùa này vắng những con mưa (thơ:
Bùi Thanh Tuấn, phổ nhạc: Trương Quý Hải) để làm dẫn chứng phân tích những
đặc trưng trong lời hát viết về Hà Nội.
Điều dễ dàng nhận thấy trong các ca khúc viết về Hà Nội đó là sự xuất
hiện của hàng loạt những địa danh nổi tiếng và quen thuộc của thủ đô: Hồ
12


Gươm, Hồ Tây, Tháp Rùa Hồng Hà, Đông Đô, Hàng Đào, Hàng Gai, Hàng
Đường, Hàng Bạc, chợ Đồng Xuân…Bên cạnh những địa danh đó là sự xuất
hiện của những hình ảnh, những không gian rất riêng của Hà Nội: phố xưa nhà
cổ, mái ngói thâm nâu (Nhớ mùa thu Hà Nội); hàng phố cũ rêu phong, mái ngói
xô nghiêng (Em ơi, Hà Nội phố); ngõ nhỏ, phố nhỏ (Hà Nội và tôi); phố vắng
nghiêng nghiêng, quán cóc liêu xiêu (Hà Nội vắng những cơn mưa)... kết hợp
với những đặc sản, con vật, những âm thanh, những loại cây, loại hoa tiêu biểu
của Hà Nội trong mỗi mùa: cây cơm nguội vàng, cây vàng lá đỏ, hương cốm,
hoa sữa, đàn sâm cầm (Nhớ mùa thu Hà Nội), hoàng lan, tiếng dương cầm, tiếng
chuông ngân, (Em ơi! Hà Nội phố), đặc biệt những loài hoa tiêu biểu theo từng
tháng của Hà Nội, đã được Giáng Son liệt kê, miêu tả gợi nhắc trong bài nhát
Hà Nội mười hai mùa hoa (thánh giêng: hoa đào, tháng hai: hoa ban, tháng ba:
hoa sưa, tháng tư: loa kèn, tháng năm: phượng đỏ, tháng sáu: hoa sen, tháng
bảy: hoa sấu, tháng tám: hoa xoan, tháng chín: hoa sữa, cuối năm: cải vàng)…
Hà Nội được miêu tả trong những năm tháng kháng chiến kiên cường

(Người Hà Nội) và cả những ngày hòa bình, khi đất nước hòa bình (Nhớ mùa
thu Hà Nội, Hà Nội mười hai mùa hoa…). Viết về Hà Nội, các nhạc sĩ thường
viết về hoàng hôn – đây là khoảng thời gian đẹp nhất trong ngày với các hình
ảnh đặc trưng “mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi/Màu sương thương nhớ, bầy
sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời” trong Nhớ mùa thu Hà Nội,“Tiếng dương cầm
trong căn nhà đổ /Tan lễ chiều sao còn vọng tiếng chuông ngân” trong Em ơi!
Hà Nội phố, “chiều không buông nắng /Phố vắng nghiêng nghiêng cành cây
khô/Quán cóc liêu xiêu một câu thơ /" Hồ Tây, Hồ Tây tím mờ " trong Hà Nội
vắng những cơn mưa, khoảng thời gian đêm khuya cũng được các nhạc sĩ khắc
họa qua tâm trạng của người con xa quê “Đêm lặng nghe trong gió/ Tiếng sông
Hồng thở than” trong Hà Nội và tôi. Hà Nội có lúc được khắc họa qua bốn mùa
trong năm như bài Hà Nội mười hai mùa hoa nhưng mùa thu chính là mùa mà
được nhiều nghệ sĩ lựa chọn sáng tác nhất bởi đó làm mùa quyến rũ nhất trong
năm (Nhớ mùa thu Hà Nội) tiếp theo là mùa đông – mùa dễ khiến con người
nảy sinh tâm trạng (Em ơi, Hà Nội phố, Hà Nội vắng những cơn mưa...)
Trung tâm của bức tranh về Hà Nội là hình ảnh con người. Con người
kiên cường,bất khuất trong chiến đấu “Này lớp lớp người đi ánh sao tưng bưng
chói lọi lòng ta/Mai này lớp lớp người đi thét vang vang trời khải hoàn/
Nhìn đây máu chúng ta tươi bao nhiêu đất này ta tưới, ngày mai vút lên” (Người
Hà Nội) nhưng lại vui vẻ, yêu thiên nhiên, cảnh vật trong Hà Nội mười hai mùa
hoa,con người thủy chung, tình nghĩa trong Nhớ mùa thu Hà Nội, Hà Nội vắng
những cơn mưa... Ngoài ra, ta còn bắt gặp hình ảnh người nghệ sĩ (Em ơi, Hà
Nội phố), hình ảnh người con xa quê (Hà Nội và tôi),hình ảnh cô gái Hà Nội
“tóc xoa vai gầy”…Qua đó, vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc được cảm nhận qua nỗi
13


cô đơn của người nghệ sỹ “Cây Bàng mồ côi mùa đông, mùa đông năm ấy,
tiếng dương cầm trong căn nhà đổ / Tan lễ chiều, sao còn vọng tiếng chuông
ngân…”. Có khi là vẻ đẹp trong cảnh yên tĩnh về đêm trong lòng đứa con xa

quê (Hà Nội và tôi). Trong các ca khúc viết về Hà Nội, tác giả không chỉ khắc
họa rõ nét con người Hà Nội mà còn là bức chân dung tự họa của chính bản
thân mình: một người nghệ sĩ cô đơn, một người con xa quê lẻ loi nhớ về Hà
Nội… Nhưng tựu chung lại, tất cả những con người đó đều gặp gỡ nhau ở lòng
yêu Hà Nội, niềm tự hào về quê hương, về thủ đô thân yêu…
Tóm lại, các bài hát về Hà Nội đa số đều gợi lên được một không gian
mang đặc trưng của Hà Nội với đủ màu sắc, hình khối, đường nét, âm thanh và
cả những mùi hương rất riêng của Hà Nội : “mùa hoa sữa về, thơm từng cơn
gió, mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ, cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua”
(Nhớ mùa thu Hà Nội)… Cùng viết về Hà Nội nhưng mỗi nhạc sỹ đều tìm
những cách riêng để thể hiện nỗi niềm, cảm xúc và tình yêu đối với Hà Nội
trong mỗi “đứa con tinh thần” của mình. Và vì thế, dù được viết vào thời kỳ
nào, những bài hát viết về Hà Nội cũng để lại trong lòng người những dư âm
sâu lắng , gợi lên những kỷ niệm thật khó quên.

(1) Người Hà Nội
Sáng tác: Nguyễn Đình Thi
Đây Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây.
Đây lắng hồn núi sông ngàn năm.
Đây Thăng Long, đây Đông Đô, đây Hà Nội, Hà Nội mến yêu!
Hà Nội cháy, khói lửa ngập trời.
Hà Nội hồng ầm ầm rung,
Hà Nội vùng đứng lên! Hà Nội vùng đứng lên! Sông Hồng reo Hà
Nội vùng đứng lên!
Hà Nội đẹp sao! Ôi nước Hồ Gươm xanh thắm lòng.
Bóng Tháp Rùa thân mật êm ấm lòng .
Hồng Hà tràn đầy, Hồng Hà cuốn ngàn nguồn sống tràn đầy dâng.
Hà Nội vui sao. Những cửa đầu ô.
Tíu tít gánh gồng đây Ô Chợ Dừa, kia Ô Cầu Dền làn áo xanh nâu
Hà Nội tươi thắm.

Sống vui phố hè. Bồi hồi chàng trai, những đôi mắt nào.
14


Quanh co chen quanh rộn ràng Đồng Xuân, xanh tươi bát ngát Tây
Hồ.
Hàng Đào ríu rít Hàng Đường ,Hàng Bạc, Hàng Gai.
Ôi tha thiết lòng ta biết bao nhiêu! Mỗi tấc đất Hà Nội đượm thắm
máu hồng tươi.
Một ngày thu non sông chiến khu về, đường vang tiếng hát cuốn
lòng người.
" Đoàn quân Việt Nam đi"
Hà Nội say mê chen đón Cha về, kín trời phơi phới vàng sao.
Ngày ấy chói vinh quang vang ngàn phương lời thề nước Việt Nam,
yêu dấu ngả soi bóng sông Hồng Hà.
Hà Nội cháy khói lửa ngợp trời.
Hà Nội hồng ầm ầm rung. Sông Hồng reo!
Thét lên xung phong căm hờn sôi gầm súng.
Bùng cháy, khắp phố ta ơi! Vùng lên chiến sĩ ta ơi!
Trời Hà Nội đỏ máu
Bụi hè đường cuốn bốc tung bay, xác thù rơi dưới gót giày.
Ầm ầm cười tiếng súng vui thay vang ngày mai sáng láng.
Này lớp lớp người đi ánh sao tưng bưng chói lói lòng ta.
Mai này lớp lớp người đi thét vang vang trời khải hoàn.
Nhìn đây máu chúng ta tươi bao nhiêu đất này ta tưới ngày mai vút
lên
Hồng Hà réo sóng say sưa trông Cha bóng Người mênh mông.
Mắt Người sáng láng vầng sao thắm tươi ,trán Người mái tóc bạc
thêm.
Bóng cờ bát ngát ngày vui nước non reo cười trên môi Người cười.

Tiếng cười.
Ngày về chiến thắng!

15


(2) Nhớ mùa thu Hà Nội
Sáng tác: Trịnh Công Sơn
Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ,
nằm kề bên nhau, phố xưa nhà cổ, mái ngói thâm nâu.
Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội,
mùa hoa sữa về thơm từng ngọn gió,
mùa cốm xanh về, thơm bàn tay nhỏ,
cốm sữa vỉa hè, thơm bước chân qua.
Hồ Tây chiều thu, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi.
Màu sương thương nhớ, bầy sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời.
Hà Nội mùa thu đi giữa mọi người,
lòng như thầm hỏi, tôi đang nhớ ai,
sẽ có một ngày trời thu Hà Nội trả lời cho tôi,
16


sẽ có một ngày từng con đường nhỏ trả lời cho tôi.
Hà Nội mùa thu, mùa thu Hà Nội, nhớ đến một người ...
Để nhớ mọi người.

(3)

Em ơi, Hà Nội phố
Thơ: Phan Vũ

Phổ nhạc: Phú Quang

Em ơi, Hà Nội phố
Ta còn em mùi hoàng lan
Ta còn em mùi hoa sữa
Con đường vắng rì rào cơn mưa nhỏ
Ai đó chờ ai tóc xõa vai mềm
Ta còn em cây bàng mồ côi mùa đông
Ta còn em nóc phố mồ côi mùa đông
Mảnh trăng mồ côi mùa đông
Mùa đông năm ấy
Tiếng dương cầm trong căn nhà đổ
Tan lễ chiều sao còn vọng tiếng chuông ngân
17


Ta còn em một màu xanh thời gian
Một chiều phai tóc em bay
Chợt nhòa, chợt hiện
Người nghệ sĩ lang thang hoài trên phố
Bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi một con đường
Ta còn em hàng phố cũ rêu phong
Và từng mái ngói xô nghiêng
Nao nao kỷ niệm
Chiều Hồ Tây lao xao hoài con sóng
Chợt hoàng hôn về tự bao giờ

(4) Hà Nội mười hai mùa hoa
Nhạc sĩ: Giáng Son
Tháng giêng hoa đào bừng nở

Đón xuân khoe sắc hồng tươi
Tháng hai hoa ban ngập tràn
Tím biếc những gương mặt vui
Tháng ba bất chợt một ngày
Trắng tinh hoa sưa về đây
Tháng tư loa kèn mỏng manh
Những góc phố con đường quen
Mùa hoa tháng năm cháy rực phượng đỏ
Hồ Tây ngát hương mùa sen tháng sáu
Ngập tràn lối đi hoa xô tháng bảy
Trở về tuổi thơ hoa xoan tháng tám
Mùa hoa sữa rơi tháng chín nồng nàn
Mùa thu đã sang, mùa hoa cúc đến
18


Tình yêu thủy chung, tím biếc thanh thảo
Rực rỡ cuối đông cải vàng ven sông
Tôi yêu những sắc hoa.
Tháng giêng hoa đào nở rộ
Đón xuân khoe sác hồng tươi
Tháng hai hoa ban ngập tràn
Tím biếc những gương mặt vui
Tháng ba bật chợt một ngày
Trắng tinh hoa sưa về đây
Tháng tư loa kèn mỏng manh
Những góc phố con đường quen
Mùa hoa tháng năm cháy rực phượng đỏ
Hồ Tây ngát hương mùa sen tháng sáu
Ngập tràn lối đi hoa xô tháng bảy

Trở về tuổi thơ hoa xoan tháng tám
Mùa hoa sữa rơi tháng chín nồng nàn
Mùa thu đã sang, mùa hoa cứ đến
Tình yêu thủy chung, tím biếc thanh thảo
Rực rỡ cuối đông cải vàng ven sông
Tôi yêu những sắc hoa.
Mùa hoa tháng năm cháy rực phượng đỏ
Hồ Tây ngát hương mùa sen tháng sáu
Ngập tràn lối đi hoa xô tháng bảy
Trở về tuổi thơ hoa xoan tháng tám
Mùa hoa sữa rơi tháng chín nồng nàn
Mùa thu đã sang, mùa hoa cúc đến
Tình yêu thủy chung, tím biếc thanh thảo
Rực rỡ cuối đông cải vàng ven sông
Tôi yêu những sắc hoa,
Là những sác hoa ngát hương bốn mùa
Là những nhớ nhung ngày ta đi xa
Là những khát khao mong quay trở về
Để ta thấy như ngày còn ngây thơ
Tôi yêu những sắc hoa.

19


(5)

Hà Nội và tôi
Thơ: Hoàng Phủ Ngọc Tường
Phổ nhạc: Lê Vinh


Nơi tôi sinh Hà Nội.
Ngày tôi sinh một ngày bỏng cháy.
Ngõ nhỏ phố nhỏ, nhà tôi ở đó.
Đêm lặng nghe trong gió
Tiếng sông Hồng thở than.
Những ngày tôi lang thang,
Tôi mới hiểu tâm hồn người Hà Nội.
Mộc mạc thôi mà sao tôi bồi hồi.
Mộc mạc thôi mà sao tôi nhớ mãi.
Tuổi thơ đã đi qua không trở lại.
Cháy hết mình cánh phượng nhẹ nhàng rơi.
20


Hà Nội ơi! Hà Nội ơi !
Cái ngày tôi chia xa Hà Nội,
Giờ ra đi mới thấy lòng tiếc nuối.
Những kỷ niệm một thời nông nổi,
Cứ thôi thúc hoài, khắc khoải nơi trái tim.
Hà Nội ơi ! Hà Nội ơi!
Khát vọng trong tôi, tình yêu trong tôi.
Thời gian có bao giờ phôi phai.
Như nước Hồ Gươm xanh vời vợi,
Như hương hoa sữa nồng nàn đắm đuối.
Bước chân tôi qua bao nẻo đường.
Vẫn mong một ngày trở về quê hương.
Ngõ nhỏ, phố nhỏ nhà tôi ở đó.
Trong giấc mơ tôi vẫn thầm mơ.

(6)Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa

Thơ: Bùi Thanh Tuấn
Phổ nhạc: Trương Quý Hải
Hà Nội mùa này vắng những con mưa
Cái rét đầu đông khăn em hiu, hiu gió lạnh
Hoa sữa thôi rơi em bên tôi một chiều tan lớp
Đường Cổ Ngư xưa chầm chậm bước ta về.
Hà Nội mùa này chiều không buông nắng
Phố vắng nghiêng nghiêng cành cây khô
Quán cóc liêu xiêu một câu thơ
" Hồ Tây, Hồ Tây tím mờ "
21


Hà Nội mùa này lòng bao nỗi nhớ
Ta nhớ đêm nào lạnh đôi tay
Hơi ấm trao em tuổi thơ ngây
Tưởng như... tưởng như còn đây

Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Trang Ngọc, Tranh tết của Bùi Xuân Phái, Ông đồ và Lão say, báo Người Hà
Nội
2. Trung Nghiêm, Hiểu thêm về họa sĩ Bùi Xuân Phái
3. Bùi Xuân Phái, Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
4. Mạnh Hà, Họa sĩ Bùi Xuân Phái những điều mới biết, www.buixuanphai.com
5. Trần Khánh Chương, Họa sĩ Bùi Xuân Phái vec Tháp Rùa,
www.buixuanphai.com
7. Bùi Thanh thương, Trần Hậu Tuấn, Bùi Xuân Phái – cuộc đời và tác phẩm,
Nhà xuất bản Mĩ thuật.
6.www.zingmp3.com (lời bài hát về Hà Nội)


22



×