Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm rèn chữ viết cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.06 KB, 15 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ Một số kinh nghiệm về rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”
*Sơ lược lý lịch:
- Họ và tên: Trương Thị Thu Hồng
- Năm sinh: 13/08/1991.
- Trình độ chuyên môn: Cao đẳng Tiểu học.
- Nhiệm vụ được giao: Giảng dạy và chủ nhiệm lớp 2A
- Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Phúc Ninh, Yên Sơn, Tuyên Quang.

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Tập viết là trong những môn học quan trọng ở bậc tiểu học. Tập viết có liên
quan mật thiết đến chất lượng học tập ở các môn học khác. Nếu chữ viết rõ ràng thì
học sinh có điều kiện ghi bài nhanh hơn nhờ vậy học tập sẽ tốt hơn.
Như chúng ta đã biết, đối với học sinh tiểu học, việc rèn chữ viết cho các em
“Viết chữ đẹp, chuẩn” là một vấn đề rất quan trọng trong việc giáo dục học sinh ở bậc
tiểu học. Ngòai ra còn nhằm rèn luyện cho học sinh những phẩm chất tốt như: tính
cẩn thận, kiên trì, tính kỉ luật và thẩm mĩ.
Hiện nay, qua theo dõi, tình trạng học sinh viết chữ xấu, viết ẩu rất nhiều. Từ
đó, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục ở tiểu học nói chung cũng như ảnh
hưởng đến kết quả các phong trào thi đua “Dạy tốt – Học tốt” của nhà trường nói
riêng.
Bản thân tôi đã nhiều năm dạy học, trăn trở muốn tìm ra một giải pháp tốt
nhằm khắc phục tình trạng trên của học sinh, hình thành cho các em có ý thức về chữ
viết của mình. Qua quá trình tìm tòi, suy nghĩ tôi đã xây dựng và thực hiện sáng kiến
kinh nghiệm “Rèn kĩ năng viết chữ đẹp” ở lớp 2 do tôi chủ nhiệm và rất mong được

-1-




sự đóng góp của Hội đồng khoa học nhà trường, quý thầy cô, với mong muốn đề tài
của tôi ngày càng được hoàn thiện hơn, áp dụng có hiệu quả hơn trong thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm hiểu nội dung, biện pháp dạy phân môn Tập viết và một số biện pháp rèn
chữ viết cho học sinh lớp 2 nhằm giúp giáo viên nắm chắc chương trình, mẫu chữ
viết và sử dụng các phương pháp dạy học cho phù hợp, làm cho chất lượng chữ viết
của học sinh được nâng cao.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Tổ chức một số trò chơi trong dạy học
Toán lớp 2 ở trường tiểu học hiện nay nói chung và học sinh lớp 2A trường tiểu học
Phúc Ninh nói riêng.
4. Kế hoạch nghiên cứu :
T
T

Thời gian

1

Từ
10/9/2018
đến
5/11/2018

Chọn đề tài, viết đề cương
nghiên cứu

Bản đề cương chi

tiết

2

Từ
5/11/2018
đến
5/12/2018

- Đọc tài liệu lý thuyết về cơ
sở lý luận
- Khảo sát thực trạng, tổng
hợp số liệu thực tế

- Tập tài liệu lý
thuyết
- Số liệu khảo sát
đã xử lý

3

Từ
5/12/2018
đến
5/3/2019

- Trao đổi với đồng nghiệp
đề xuất các biện pháp, các
sáng kiến
- Áp dụng thử nghiệm


- Tập hợp ý kiến
đóng góp của
đồng nghiệp
- Hoạt động cụ
thể

4

Từ 5/3/2019
đến
5/4/2019

- Hệ thống hóa tài liệu, viết
báo cáo
Bản nháp báo cáo
- Xin ý kiến của đồng nghiệp

Từ 5/4/2019
đến

Hoàn thiện báo cáo, nộp Hội
đồng Sáng kiến cấp cơ sở

5

Nội dung công việc

-2-


Sản phẩm

Bản báo cáo
chính thức


15/5/2019
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này tôi sử dụng phối kết hợp các nhóm phương pháp dạy học như
sau:
5.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
Thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có
và bằng các thao tác tư duy lôgic để rút ra các kết luận khoa học cần thiết, để tìm
chọn những khái niệm và tư tưởng cơ bản là cơ sở cho lý luận của đề tài và dự đoán
về những thuộc tính của đối tượng nghiên cứu.
5.2. Phương pháp phân tích tổng hợp:
- Nghiên cứu các văn bản, tài liệu lý luận khác nhau về đề tài mình chọn, bằng
cách phân tích chúng thành từng bộ phận, từng mặt để hiểu chúng một cách toàn
diện. Đồng thời phát hiện ra những xu hướng, những trường phái nghiên cứu của
từng tác giả, từ đó lựa chọn những thông tin quan trọng phục vụ cho đề tài nghiên
cứu của mình.
- Liên kết, sắp xếp các tài liệu, thông tin lý thuyết đã thu thập được để tạo ra
một hệ thống lý thuyết đầy đủ, sâu sắc về đề tài nghiên cứu.
5.3. Phương pháp điều tra quan sát:
Khảo sát đối tượng học sinh lớp 2A trường Tiểu học Phúc Ninh nhằm phát
hiện những hạn chế tồn tại khi chưa thực hiện đề tài và sự tiến bộ của học sinh sau
khi áp dụng sáng kiến.
5.4. Phương pháp thực nghiệm:
Tiến hành thực nghiệm tại lớp 2A trong các giờ Toán để kiểm chứng xem
phương pháp đang thực hiện có đem lại hiệu quả tốt không, học sinh có dễ dàng vận

dụng khi làm bài tập không? Kết quả thực nghiệm cho phép ta khẳng định giả thuyết,
từ đó đề xuất những khả năng ứng dụng vào thực tiễn giảng dạy hàng ngày, mở rộng
cho đồng nghiệp.
5. 5. Phương pháp đàm thoại:
-3-


- Giáo viên căn cứ vào nội dung các bài tập khéo léo đặt ra câu hỏi, để học sinh
căn cứ vào kiến thức đã có kết hợp với sự hướng dẫn của giáo viên để tìm ra những
tri thức mới, củng cố mở rộng những tri thức đã tiếp thu được.
- Trao đổi với học sinh, với đồng nghiệp để hoàn thiện báo cáo sáng kiến.
5.6. Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm:
Tôi đã tiến hành các bước sau:
- Trang bị lý luận liên quan vấn đề cần tổng kết kinh nghiệm.
- Gặp gỡ, trao đổi với những nhân chứng, người liên quan vấn đề định tổng kết.
( Đồng nghiệp, học sinh lớp 2 trường Tiểu học Phúc Ninh).
- Mô tả quá trình phát triển của sự kiện: trạng thái ban đầu, hiện tại để so sánh.
( Trước và sau khi áp dụng sáng kiến).
- Dùng lý luận phân tích, tìm nguyên nhân và rút ra bài học kinh nghiệm.

iI. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến:
Là một giáo viên giảng dạy ở khối lớp 2, trong điều kiện công tác, tôi luôn tập
trung nghiên cứu nhằm rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp mình ngày càng phát triển
tốt về “Chữ viết đẹp” để góp phần vào việc nâng cao kết quả học tập của các em ngày
càng tốt hơn.
Muốn học sinh viết đúng đẹp, giữ gìn sách vở cẩn thận, trước hết và chủ yếu có
sự dạy dỗ công phu của các thầy cô theo phương pháp khoa học và kinh nghiệm đã
được đúc kết cùng với sự kèm cặp thường xuyên, sâu sát của các bậc phụ huynh, sự
nổ lực kiên trì của mỗi học sinh.

- So với chương trình lớp 1, nội dung của phân môn tập viết lớp 2 có những
yêu cầu cụ thể.
-Tiếp tục rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết các chữ thường theo cỡ nhỏ đã
học ở lớp 1 nhưng mức độ yêu cầu được nâng cao: viết đúng mẫu và đều nét.
- Chính thức dạy học sinh viết chữ hoa theo cỡ vừa và nhỏ (Ở lớp 1 học sinh
mới làm quen với chữ hoa qua hình thức tập tô trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở
-4-


học kỳ 2). Để thực hiện nhiệm vụ này, giáo viên phải giúp học sinh có những hiểu
biết nhất định về mẫu chữ hoa do Bộ mới ban hành nhằm tạo điều kiện cho các em
rèn kỹ năng viết chữ cụ thể:
- Nhớ được hình dáng các chữ cái viết hoa theo mẫu quy định.
- Nắm được kích cỡ của từng chữ cái viết hoa (thể hiện trong khung chữ, trong
mối quan hệ giữa chữ cái viết thường).
VD: Trong cùng cỡ chữ, các chữ cái viết hoa: A, ¡ , ¢, B, C… có độ cao bằng
các chữ cái viết thường: b g, h, k, l, y, riêng hai chữ cái viết hoa được viết với
chiều cao 4 li Y, G.
- Nắm được thao tác viết từng nét chữ để tạo nên chữ cái viết hoa (đưa nét
theo đúng quy trình viết ).
* Dạy học sinh biết nối (ghép) chữ cái viết hoa với chữ cái thường trong một
chữ ghi tiếng đảm bảo tính thẩm mỹ, phục vụ cho yêu cầu viết chính tả và trình bày
bài.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến:
Qua khảo sát, theo dõi, kiểm tra học sinh của lớp do tôi chủ nhiệm, cho thấy
tình hình chung như sau :
a. Thuận lợi :
- Nhìn chung các học sinh đã nắm được quy trình viết, biết cách viết chữ ghi
âm tiếng việt, viết đúng mẫu, đúng cỡ chữ quy định.
- Đa phần phụ huynh luôn quan tâm đến con em của mình.

b. Khó khăn :
Trong trường tiểu học việc dạy học sinh lớp 2 viết chữ là một công việc học
sức khó khăn chiếm nhiều thời gian và công sức của người giáo viên. Muốn học sinh
tiểu học viết đúng mẫu chữ, cỡ chữ tiến tới viết nhanh viết đẹp người giáo viên phải
uốn nắn từng li từng tí, phải tỉ mỉ chỉ bảo cho các em. Chính vì vậy nhiều giáo viên
rất “ngại” khi rèn sửa cho các em.

-5-


* Về phía học sinh: Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi sự tập trung chú ý của học
sinh lớp 1, 2 còn yếu thiếu bền vững. Các em mau quên lại chóng chán.
Chính vì vậy một số không ít học sinh còn có thái độ tiêu cực:lười biếng, cẩu
thả … khi viết.
- Năm học 2018-2019 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp 2A. Sau
khi làm quen với lớp, tôi nhận thấy có một bộ phận không nhỏ học sinh viết chữ chưa
đúng mẫu, cỡ chữ (độ cao, rộng, khỏang cách giữa các con chữ và giữa các chữ
thường quá hẹp hoặc quá rộng); ghi dấu thanh không đúng vị trí, ngồi sai tư thế… và
còn một số phụ huynh chưa thật sự quan tâm đến con em mình.
3. Các sáng kiến đã được sử dụng để giải quyết vấn đề:
Học sinh lớp 2 tư duy của các em có phát triển so với lớp 1, song khi hướng
dẫn viết vẫn đòi hỏi phải thật tỉ mỉ và chuẩn xác. Chính vì thế tôi tiến hành qua
từng bước cụ thể như sau:
3.1: Phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ
Ngay từ đầu năm học tôi đã cho kiểm tra chữ viết của các em. Tôi xem xét kỹ
để phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ khác nhau. Từ đó tôi lên kế hoạch
để sửa “tật”cho từng em.
VD: Những em có điểm đặt bút chưa đúng tôi chỉ bảo cho các em cách tính
dòng kẻ, xác định điểm đặt bút …Những em viết chưa thẳng tôi có kế hoạch cho
luyện nét sổ thẳng, chữ chưa tròn tập viết nét cong tròn…

- Nhờ vậy các em đã nhớ lại được quy trình viết từng con chữ, biết luyện dần
từng chữ. Dần dần kết quả đã tốt hơn rất nhiều .
3.2: Rèn tư thế viết đúng cho học sinh.
Tôi nhận thấy khi học sinh ngồi viết đúng tư thế sẽ là điều kiện thuận lợi cho
các em viết đúng, viết đẹp. Mặt khác việc làm đó cũng góp phần để phòng học sinh
mắc bệnh cận thị khi căn bệnh này ngày một gia tăng trong nhà trường phổ thông
hiện nay. Tôi đã hướng dẫn các em như sau:

-6-


* Tư thế ngồi viết: Ngồi ngay ngắn, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, hai
mắt cách vở từ 25cm – 30cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì
vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải để ở trên mặt bàn.
- Cách cầm bút: Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng ba ngón tay
(ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa của bàn tay phải). Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu
ngón cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa.
* Vị trí đặt vở: Vở đặt nghiêng so với mép bàn một góc khoảng 30 độ nghiêng
về phía bên phải. Để học sinh có kĩ năng trên, tôi đã làm một số công việc sau:
- Treo tranh mẫu tư thế ngồi viết và cách cầm bút trong phòng học ở lớp, đồng
thời thu nhỏ các hình ảnh này trên một trang giấy, phát cho từng học sinh kẹp trong
vở tập viết của mình để đánh dấu trang cần viết và luôn quan sát được khi viết.
- Luôn nhắc nhở và uốn nắn tư thế viết ở tất cả giờ học chú trọng đặc biệt trong
giờ tập viết.
- Trao đổi cha mẹ học sinh về việc kiểm tra nhắc nhở con em khi tập viết ở nhà
ngay trong buổi họp CMHS biết để uốn nắn ở nhà.
Ngoài việc rèn tư thế tập viết đúng tôi còn chú trọng việc phân loại các lỗi sai
của học sinh trong quá trình viết để có thể rèn cho các em.
3.3: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học.
Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 1,2 tôi thấy việc sử dụng đồ dùng

trực quan (chữ mẫu) trong mỗi tiết tập viết là cần thiết. Đây cũng là điều kiện đầu
tiên để các em viết đúng chữ mẫu có nhiều hình thức: Chữ mẫu in sẵn, chữ mẫu
phóng to trên bảng, chữ mẫu trong vở tập viết, hộp chữ mẫu, chữ mẫu của giáo viên
…mỗi loại chữ mẫu có tác dụng khác nhau. Cụ thể:
+ Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều kiện
cho các em phân tích hình dạng, kích thước và các nét cơ bản cấu tạo chữ cái cần viết
trong bài học.
+ Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng giúp học sinh nắm được thứ tự viết các
nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu
viết liền mạch, viết nhanh.
-7-


+ Chữ viết trong hộp chữ giúp các em kết hợp mắt nhìn, tay sờ để phối hợp các
thao tác viết chữ một cách đồng bộ.
+ Chữ của cô khi chấm bài, chữa bài cũng được học sinh quan sát như một loại
chữ mẫu. Vì vậy tôi luôn cố gắng viết đẹp đúng mẫu, rõ ràng.
Tóm lại để hỗ trợ cho việc dạy tập viết đạt hiệu quả cao người giáo viên cần
triệt để sử dụng các hình thức chữ mẫu cũng như nắm vững tác dụng của mỗi hình
thức chữ mẫu đó.
3.4: Rèn kỹ thuật viết chữ.
Tập trung rèn luyện kĩ thuật liên kết liền mạch chữ cái viết hoa với chữ cái viết
thường. Tôi đã phân loại các trường hợp viết liên kết như sau:
* Trường hợp viết nối thuận lợi: Nét móc cuối cùng của chữ cái đứng trước nối
với nét móc đầu tiên của chữ cái đứng sau
VD: Bài A - Anh em thuận hoà
- Quy trình viết nối chữ Anh
- Viết chữ cái A đã học. Từ điểm cuối của nét lượn ngang thân chữ cái A lia bút
xuống điểm cuối của nét móc ngược phải chữ cái A để viết tiếp nét nối với nét móc
trái của chữ cái n. Tiếp tục viết nét móc thứ hai của n. Khi viết đến phần móc phải

phía dưới lượn cong bình thường có thể viết nối với phần nét khuyết của chữ cái h,
sau đó viết hoàn chỉnh chữ cái h.
* Trường hợp viết nối không thuận lợi: đó là trường hợp nét cuối của chữ cái
đứng trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau không thể viết nét nối.
VD: Bài C - Chia ngọt sẻ bùi
- Quy trình viết chữ Chia
- Viết chữ C như đã học, từ điểm dừng bút của chữ C lia bút để viết tiếp chữ h
rồi rê bút viết tiếp chữ cái i và chữ cái a.
- Kỹ thuật viết nối chữ (Các chữ cái viết thường).

-8-


Việc nối chữ chủ yếu được thực hiện ở các chữ cái viết thường khi chúng đứng
lại gần nhau. Dựa vào những nét cơ bản của chữ cái tiếng Việt, tôi phân loại thành 4
trường hợp nối chữ (từ dễ đến khó) và lưu ý học sinh như sau:
- Trường hợp 1: Nét móc cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc hoặc nét
hất đầu tiên của chữ cái sau:
VD: a – n = an;

i – m = im;

t – ư = tư...

Nhìn chung trường hợp này viết dễ dàng thuận lợi.
Lưu ý học sinh: Khi nối 2 nét móc ở hai chữ cái, cần điều tiết về độ doãng
(khoảng cách giữa 2 chữ cái) sao cho vừa phải, hợp lý để chữ viết đều nét và có tính
thẩm mĩ.
- Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái sau với nét móc (hoặc nét hất)
đầu tiên của chữ cái sau

VD: e - m = em;

c – ư = cư...

Trường hợp nối chữ này cũng tương đối dễ dàng.
- Lưu ý: Điều chỉnh khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho không gần quá hay
xa quá (VD: em, cư...) Hoặc chuyển hướng ngòi bút ở cuối nét cong (kín) để nối sang
nét móc (hoặc nét hất) sao cho hình dạng hai chữ cái vẫn rõ ràng, khoảng cách hợp lý
(VD ơn, oi...)
- Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét cong
của chữ cái sau (VD: a – c = ac, h – o = ho, y – ê = yê...) đây là trường hợp nối chữ
tương đối khó, vừa đòi hỏi kỹ thuật lia bút vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách
sao cho vừa phải, hợp lý.
- Lưu ý học sinh:
+ Xác định điểm kết thúc (dùng bút) ở chữ cái trước để lia bút viết tiếp chữ cái
sau sao cho liền mạch tạo thành một khối các chữ cái.
+ Điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ cái trước hơi doãng rộng một chút để
khi viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải (không gần quá).

-9-


VD: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ ao, giáo viên lưu ý nhắc HS điều chỉnh
phần cuối nét móc của chữ a để khi viết tiếp chữ cái o sẽ có khoảng cách giữa a và o
không gần quá (bằng khoảng cách giữa a và i (ai).
- Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau
VD: o – e = oe; o – a = oa; x- o = xo... Đây là trường hợp nối chữ khó nhất vừa đòi
hỏi các kỹ thuật rê bút, lia bút, chuyển hướng bút để tạo nét nối vừa yêu cầu việc ước
lượng khoảng cách hợp lý, trên cơ sở thói quen và kĩ năng viết khá thành thạo của
học sinh.

Lưu ý học sinh trường hợp viết chữ oe, oa.:
+ Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o chúc xuống để gặp điểm bắt đầu của chữ
cái e sao cho nét vòng ở đầu chữ cái không được to quá (oe). Rê bút từ điểm cuối của
chữ cái o sang ngang rồi lia bút viết tiếp chữ cái a (oa).
Ngoài ra tôi còn hướng dẫn các em cách viết liền mạch. Viết liền mạch là viết
tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu (kể
cả dấu phụ của con chữ) và dấu ghi thanh.
VD: Viết chữ ruộng: Viết chữ liền mạch các hình cơ bản của chữ cái thành
ruong sau đó đặt dấu mũ (dấu phụ) trên o và dấu nặng (dấu thanh) dưới ô để thành
ruộng.
Như vậy, với việc phân tích cách liên kết, cách viết liền mạch ngay từ những
bài viết đầu tiên, nhiều học sinh trong lớp đã nắm được quy trình viết các từ ứng
dụng. ở các bài tiếp theo, không cần sự hướng dẫn tỉ mỉ của cô giáo c¸c em còng có
thể viết đúng chữ theo mẫu. Tốc độ viết chữ của cả lớp nhanh dần. Chính vì vậy chất
lượng học tập của học sinh môn Tiếng Việt được nâng lên một cách rõ rệt.
Tập viết là một phân môn thực hành. Ngoài việc nắm được kĩ thuật viết chữ
học sinh phải được luyện tập nhiều lần để hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Vì thế việc
luyện chữ viết cho học sinh là rất quan trọng.
3.5: Tăng cường luyện tập thực hành
Trước đây, trong tiết tập viết, một số giáo viên vẫn còn giảng giải nhiều thời
gian luyện của học sinh còn ít... Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp
-10-


dạy học giờ tập viết cần tạo điều kiện để học sinh thực hành nhiều, tự rút kinh nghiệm
cho bản thân, từ đó rèn kĩ năng viết nhanh, đẹp. Tôi sử dụng các hình thức tập luyện
sau:
+ Học sinh tập viết chữ trên bảng lớp, trên bảng con. Cách làm này rất tốt và
giáo viên có thể kiểm tra được từng học sinh, uốn nắn để học sinh tự sửa chỗ sai của
mình trên bảng trước khi viết vào vở.

- Luyện tập viết trong vở tập viết: Giáo viên cần chú ý giúp các em viết đủ, viết
đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết để các em viết tốt hơn ở những dòng tiếp
sau.
- Luyện tập viết chữ ở các môn học khác: Cần tận dụng việc tập viết các bài
học, bài làm ở các môn học khác để học sinh tập viết.
Để luyện tập đạt tới hiệu quả viết nhanh, đẹp, tôi thấy giáo viên cần chú ý:
+ Rèn luyện kĩ năng viết chữ phải tiến hành toàn diện, ở lớp, ở nhà, ở đủ các
môn học khác.
+ Kiên trì sửa và rèn chữ viết cho học sinh Như vậy, với việc tăng cường luyện
tập thực hành, học sinh lớp tôi đã có được kĩ năng viết nhanh, đẹp đồng thời rèn
luyện được ý thức tự giác luyện tập trong các môn học như Toán, Tiếng Việt.
Ngoài các biện pháp nêu trên tôi còn kết hợp các công việc sau:
* Khuyến khích, khen ngợi kịp thời các em viết đúng, viết đẹp.
Công việc này tưởng chừng đơn giản nhưng hiệu quả của nó cũng tương đối rõ
rệt. Vì đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 2 rất thích được khen nên với mỗi bài viết
đẹp tôi vẫn cố gắng động viên các em kịp thời. Tôi dành một góc trong lớp để trưng
bày các bài viết đẹp. Nhờ vậy đã tạo được một không khí thi đua trong lớp. Các em
hào hứng luyện viết và tiết học không còn khô khan nữa.
* Kết hợp với PHHS trong việc rèn chữ cho các em ở nhà.
Vì đối tượng học sinh của tôi phần lớn là con em lao động, bố mẹ không có
thời gian cũng như không có kĩ thuật viết đúng đẹp để kèm con em nên ngay từ buổi
họp CMHS đầu năm học tôi đã trao đổi với các vị phụ huynh một số điểm cần lưu ý
khi dạy viết. Tôi cũng sưu tầm một số tài liệu, một số bài viết đẹp của các học sinh
-11-


khác, photo tới tận tay từng vị phụ huynh để các vị có cơ sở làm mẫu cho con em
mình luyện viết.
Bằng sự phối hợp các biện pháp nêu trên một cách hài hoà, chữ viết của học
sinh lớp tôi tiến bộ rõ rệt; đồng thời kết quả học tập các em cũng được nâng cao qua

các đợt kiểm tra.
4. Hiệu quả của sáng kiến:
Qua quá trình áp dụng dạy theo phương pháp mới nêu tôi nhận thấy chất lượng của
học sinh lớp tôi trong việc rèn luyện kĩ năng “Viết chữ đẹp” được nâng dần rõ rệt,
chữ viết của các em đã đúng mẫu, đều nét, rõ ràng. Đến nay tôi đã thống kê được số
liệu khả quan sau :
TSHS

24

LOẠI A

LOẠI B

LOẠI C

Trước

Sau

Trước

Sau

Trước

Sau

6


14

13

10

5

0

25%

58%

54%

42%

21%

0%

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Ngày xưa, Cao Bá Quát nhờ chăm chỉ kiên trì luyện chữ nên chữ của ông đẹp nổi
tiếng khắp nước. Ngày nay việc luyện chữ viết cho học sinh là một việc làm cần thiết.
Công việc này phải được làm từ ngay đầu cấp Tiểu học.
“ Chữ đẹp là tính nết
Của những người trò ngoan ”.
Học sinh tiểu học, tri giác của các em còn thiên về nhận biết tổng quát đối tượng.

Trong khi đó để viết được chữ, người viết phải tri giác từng nét chữ, từng động tác kỹ
thuật tỉ mỉ. Do vậy khi tiếp thu kỹ thuật viết chữ học sinh không tránh khỏi những
lúng túng, khó khăn. Vậy nên muốn thành công trong dạy phân môn Tập viết đòi hỏi
mỗi thầy cô phải có lòng yêu nghề, mến trẻ. Giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian
nghiên cứu, phải thường xuyên đổi mới, sử dụng tốt các phương pháp dạy thông qua
từng tiết dạy cụ thể sao cho phù hợp với học sinh, kiên trì bền bỉ từng bước thì chắc
-12-


chắn sẽ gặt hái được thành quả tốt đẹp. Góp phần nâng cao chất lượng chữ viết của
học sinh lớp 2 mà còn làm tiền đề cho các em viết đẹp hơn ở các lớp trên.
Chữ viết là phương tiện giao tiếp của con người, không những chỉ phục vụ riêng
cho môn Tiếng Việt mà còn góp phần nầng cao chất lượng dạy học nói chung.
2. Kiến nghị
Theo tôi để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh tiểu học nói chung và học
sinh lớp 2 nói riêng trước hết :
* Người giáo viên cần có sự đổi mới về mặt nhận thức, có quan điểm đúng
đắn và nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của chữ viết trong qua trình học tập
của học sinh và trong việc rèn nết người cho các em
* Để rèn chữ viết cho học sinh thực sự có chất lượng đòi hỏi người giáo viên
phải nắm chắc kỹ thuật viết chữ và nối chữ. Khi hướng dẫn cho các em cần phải
hướng dẫn một cách tỉ mỉ, cụ thể, có như vậy học sinh mới có thể viết chữ đúng và
đẹp . Đặc biệt giáo viên phải không ngừng luyện chữ viết của mình cho thật đúng,
thật đẹp vì chính nét chữ của cô là một phương tiện trực quan có hiệu qủa nhất đối
với học sinh.
* Muốn nâng cao chất lượng về mặt chữ viết cho học sinh, giáo viên cần phải
tổ chức cho các em trải quan nhiều giai đoạn luyện tập. Cần phải giải thích cho học
sinh hiểu luyện viết không chỉ luyện riêng ở giờ tập viết mà còn phải luyện tập thông
qua việc trình bày ở tất cả các môn học khác kể cả ở lớp cũng như ở nhà . Đặc biệt
giáo viên cần uốn nắn cách ngồi viết, cách cầm bút, cách để vở để các em tập viết

trong tư thế thoải mái nhất, với hiệu suất cao nhất .
* Ở mỗi lớp trình độ của các em không đều nhau, bên cạnh việc theo dõi
chung, giáo viên cần đi sâu kèm cặp, giúp đỡ từng em nhất là những em yếu kém để
giúp các em vượt qua khó khăn ban đầu. Cần khuyến khích động viên, an ủi các em
để các em tiếp thu một cách hồ hởi, phấn khởi hơn. Một điều không thể thiếu
được là chúng ta phải giáo dục cho các em tính kiên trì, nhẫn nại, tính kỷ luật trong
việc rèn chữ viết . Giáo dục cho các em yêu quý chữ viết, có ý thức say mê thì làm
bất kỳ việc gì dù khó khăn đến đâu cũng đạt kết quả cao .
-13-


Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân đúc rút trong quá trình dạy học.
Tôi đã mạnh dạn áp dụng vào thực tế giảng dạy tại lớp mình chủ nhiệm và ít nhiều
cũng đã đạt được hiệu quả. Tuy nhiên đề tài này còn mang tính cá nhân nên không
khỏi có nhiều sai sót. Rất mong có sự đóng góp ý kiến của các bạn dồng nghiệp, hội
đồng khoa học nhà trường và cấp trên để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Đánh giá của HĐKH nhà trường

Phúc Ninh, ngày 15 tháng 10 năm 2019

………………………………….....……

Người viết sáng kiến

………………………………….....……
………………………………….....……
………………………………….....……
………………………………….....……


Trương Thị Thu Hồng

………………………………….....……
………………………………….....……

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy và học Tập viết ở Tiểu học (Trần Mạnh Cường – Phan Quang Thân –
Nguyễn Hữu Cao – NXB Giáo dục)
2. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kỹ năng các lớp 1, 2, 3, 4 (Bộ Giáo dục và Đào
tạo)
3. Dạy Tập viết ở Tiểu học (Lê A - Đỗ Xuân Thảo – Trịnh Đức Minh – NXB Giáo
dục)
4. Phương pháp dạy học các môn học (NXB Giáo dục)
5. Sách giáo viên Tiếng Việt lớp 2
6. Thiết kế bài giảng Tiếng Việt lớp 2.
7. Vở tập viết lớp 2.
8. Phạm Văn Đồng “Dạy nét chữ nết người” (Báo Tiền Phong số 1760. Ra ngày
18 – 1 - 1968) .

-14-


-15-



×