Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Hướng dẫn học sinh giỏi cách làm bài văn nghị luận chứng minh nhận định văn học qua một tác phẩm liên hệ, so sánh với một tác phẩm khác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.46 KB, 18 trang )

A. MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cũng như những bộ môn khoa học khác, môn Ngữ Văn có vai trò rất quan
trọng đối với đời sống tâm hồn và phát triển tư duy của con người, đặc biệt trong
việc giáo dục tư tưởng tình cảm cho học sinh. Học tốt môn Ngữ văn cũng sẽ
giúp các em học tốt các bộ môn khác.
Văn chương mang đến cho tâm hồn và nhân cách con người nhiều cái hay,
cái đẹp kì diệu, cái sáng lấp lánh. Thông qua nhân vật với những sự kiện, những
cuộc đời trong trang văn, học sinh có thể liên hệ tới đời sống xã hội xung quanh
mình để từ đó tìm cho mình những cách ứng xử khéo léo, tinh tế, tuyệt vời trong
cuộc sống. Văn học là một bộ môn nghệ thuật , là sự tìm hiểu và yêu thương
cuộc sống này, là con đường đi từ trái tim đến trái tim. Muốn học giỏi bộ môn kì
diệu này, các em cần phải nuôi dưỡng lòng say mê và cần phải có phương pháp
học tập một cách khoa học, đúng đắn để không ngừng nâng cao kiến thức, hiểu
biết và khả năng tư duy của mình. Khả năng cảm nhận, giải thích, phân tích cái
hay, cái đẹp của tác phẩm văn học, khả năng liên hệ, so sánh các tác phẩm, cùng
với những hiểu biết về lí luận văn học là một trong những kĩ năng, kiến thức
quan trọng giúp các em học giỏi môn Ngữ văn.
Trong kì thi THPT quốc gia vài năm trở lại đây dạng đề so sánh, liên hệ
được coi trọng và lấy làm đề thi chính thức. Đồng thời, trong kì thi học sinh
giỏi cấp Tỉnh cấp THPT và THCS năm học 2018-2019, Sở GD và ĐT cũng định
hướng cấu trúc đề và ra đề thi phần nghị luận văn học ở dạng đề này thông qua
việc chứng minh một nhận định về lí luận văn học. Ở bậc THCS, đối với cả giáo
viên và học sinh đây là dạng đề khá mới mẻ. Trong quá trình bồi dưỡng đồng
đội học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, tôi nhận thấy học sinh khá lúng túng trong
việc hiểu đúng nội dung, ý nghĩa của nhận định. Từ đó, xác định chưa đúng,
chưa trúng luận điểm, chưa chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt. Ngoài ra việc
phân tích tác phẩm ở phần liên hệ còn dàn trải, chưa biết khái quát kiến thức
hướng vào nhận định. Mặt khác, dạng đề này đòi hỏi học sinh phải có kiến thức
vững vàng, năng lực cảm nhận tác phẩm văn chương sâu rộng và nhận định đề
tinh nhạy để trình bày. Do đó, cách học thuộc bài, học theo lối mòn sẽ không


phát huy được tác dụng.
Đề học sinh biết cách làm dạng đề này đòi hỏi giáo viên phải cung cấp
cho các em kiến thức, hiểu biết cơ bản về lí luận văn học, về nội dung, đặc sắc
nghệ thuật của các tác phẩm văn học. Hướng dẫn cụ thể cách xác định luận điểm
hướng vào vấn đề nghị luận, cách liên hệ, so sánh, đánh giá, nâng cao. Rèn
luyện kĩ năng viết bài, cách hành văn, diễn đạt sao cho mượt mà, có cảm xúc ,
giàu hình ảnh, giàu giá trị biểu cảm, có chất văn lí. Có như vậy bài làm của học
sinh mới đáp ứng được yêu cầu của đề bài và đạt kết quả như mong muốn. Xuất
phát từ thực tế đó tôi chọn đề tài : “Hướng dẫn học sinh giỏi cách làm dạng đề
nghị luận văn học: Chứng minh một nhận định lí luận văn học qua một tác
phẩm, có liên hệ, so sánh đến một tác phẩm khác”.
1


II.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tôi chọn đề tài này với mục đích xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn của
vấn đề bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn, với mong muốn trao đổi cùng
đồng nghiệp, hi vọng tìm ra những biện pháp thiết thực, khả thi nhất với
phương pháp hữu hiệu đem lại kết quả cao trong công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Ngữ văn.
Đồng thời giúp các em trong đội tuyển ôn thi học sinh giỏi cấp Huyện,
Tỉnh nắm vững cách làm bài dạng đề này. Yêu cầu học sinh không chỉ làm
sáng tỏ một nhận định mà còn biết liên hệ, so sánh chỉ ra được chỗ giống và
khác nhau giữa hai tác phẩm, hai tác giả, từ đó thấy được những mặt kế thừa,
những điểm cách tân của từng tác giả, từng tác phẩm; thấy được vẻ đẹp riêng
của từng tác phẩm; sự đa dạng muôn màu của phong cách nhà văn. Không dừng
lại ở đó, kiểu bài này còn góp phần hình thành kĩ năng lí giải nguyên nhân của
sự khác nhau giữa các hiện tượng văn học – một năng lực rất cần thiết góp phần
tránh đi khuynh hướng “bình tán” khuôn sáo trong các bài văn của học sinh hiện
nay. Lẽ hiển nhiên, đối với đối tượng học sinh trung học cơ sở, các yêu cầu về

năng lực lí giải cần phải hợp lí, vừa sức. Nghĩa là các tiêu chí so sánh cần có
mức độ khó vừa phải, khả năng lí giải sự giống và khác nhau cũng cần phải hợp
lí với năng lực của các em.
III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Trong quá trình dạy bồi dưỡng, tôi áp dụng kinh nghiệm này cho học sinh
trong đội tuyển học sinh giỏi cấp Tỉnh năm học 2018 – 2019
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Làm đề tài này, tôi đã vận dụng những phương pháp sau đây:
Phương pháp thống kê , nêu ví dụ.
Phương pháp thực nghiệm.
Phương pháp so sánh.
Phương pháp phân loại, phân tích.
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.

2


B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I- CƠ SỞ LÍ LUẬN:

Văn học là một môn nghệ thuật giàu tính hình tượng, tính biểu cảm, là tấm
gương phản ánh cuộc sống con người, đồng thời có tác dụng phục vụ cuộc sống.
Ở mỗi tác phẩm người đọc có thể tiếp thu cái hay, cái đẹp, cái đúng để vận dụng
vào cuộc sống, làm cho cuộc sống đẹp hơn. Đồng thời môn Ngữ văn (bao gồm
ba phần: Văn học, Tiếng Việt, Làm văn) cũng là một môn học nền tảng về kiến
thức và công cụ giao tiếp, có vị trí quan trọng trong các môn học, góp phần tạo
nên trình độ văn hóa cơ bản cho học sinh. Cùng với việc rèn kĩ năng đọc hiểu, kĩ
năng sử dụng tiếng Việt, phần Làm văn được chú trọng vì đây là phần thể hiện

rõ nhất kĩ năng thực hành, sáng tạo của học sinh.
Làm văn gồm hai dạng: nghị luận xã hội và nghị luận văn học . Trong xu thế
ra đề thi đặc biệt là kì thi học sinh giỏi năm nay, dạng bài nghị luận chứng minh
một nhận định lí luận văn học qua một tác phẩm rồi liên hệ đến một tác phẩm
khác được định hướng trong cấu trúc đề thi. Đây là dạng đề vừa quen vừa lạ.
Quen vì đề vẫn yêu cầu chứng minh một nhận định lí luận văn học( yêu cầu cơ
bản), lạ vì đòi hỏi phải liên hệ đến tác phẩm khác để chỉ ra nét tương đồng và
khác biệt ( yêu cầu nâng cao). Như vậy, để làm tốt bài văn nghị luận văn học
học sinh cần phải được trang bị kiến thức phong phú, sâu rộng, có tư duy bao
quát đối sánh và kĩ năng thuần thục, chứ không chỉ học thuộc và dập khuôn máy
móc.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

Trong những năm gần đây dạng đề chứng minh một nhận định lí luận văn
học được ra thường niên trong các kì thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp Tỉnh. Xin
điểm qua một số đề thi câu nghị luận văn học 10 điểm.
- Đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh năm học 2015-2016
“Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây
truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng.”
(Tiếng nói văn nghệ - Nguyễn Đình Thi, Ngữ Văn 9, tập 1, NXBGD 2014)
Từ cảm nhận về bài thơ Ánh trăng (Nguyễn Duy), em hãy trình bày suy
nghĩ của mình về ý kiến trên.
- Đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh năm học 2015-2016
Nhà thơ Tố Hữu từng chia sẻ:
“Đọc một câu thơ hay, người ta không thấy câu thơ, chỉ còn thấy tình người
trong đó.”
Từ cảm nhận về bài thơ Nói với con của Y Phương, em hãy làm sáng tỏ ý
kiến trên.
- Đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh năm học 2018-2019 ở mức độ nâng cao
hơn,vừa chứng minh nhận định qua một tác phẩm lớp 9 vừa liên hệ đến tác

phẩm ở lớp 8.
3


Nhà phê bình văn học Hoàng Minh Châu cho rằng: Văn chương hướng tới
chân, thiện, mĩ bao giờ cũng là văn chương cho mọi người và là văn chương của
muôn đời.
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng hiểu biết về truyện ngắn Chiếc
lược ngà (Nguyễn Quang Sáng, Ngữ văn 9, tập một, NXBGD Việt Nam 2018),
liên hệ với truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng (O Hen-ri, Ngữ văn 8, tập một,
NXBGD Việt Nam 2018) hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Thực trạng đề thi có dạng chứng minh nhận định lí luận văn học, liên hệ,
so sánh xuất hiện phong phú như vậy nhưng trong chương trình sách giáo khoa
môn Ngữ văn của trung học cơ sở lại không có một kiểu bài dạy riêng để hướng
dẫn cho thầy cô giáo cũng như các em học sinh nắm được phương pháp làm
dạng đề này một cách hiệu quả nhất. Chưa có bài học nào cụ thể nào cung cấp
cho các em kiến thức cơ bản về lí luận văn học. Chính vì vậy mà như đã trình
bày ở phần lí do chọn đề tài nhiều em học sinh tỏ ra rất lúng túng khi đứng trước
đề bài này. Các em học và làm bài nghi luận văn học một cách máy móc, còn
quá lệ thuộc vào cách học khuôn mẫu, thiếu tư duy sáng tạo. Kiến thức lí luận
văn học, kiến thức văn học non kém, không có khả năng cảm nhận văn học một
cách sáng tạo. Vì thế số điểm học sinh đạt được còn khiêm tốn. Còn không ít
thầy cô thì băn khoăn về phương pháp làm bài để hướng dẫn học sinh. Đứng
trước thực trạng đó, bằng kinh nghiệm của bản thân qua những năm dạy đội
tuyển học sinhgiỏi, tôi đề xuất “Cách làm dạng đề nghị luận văn học: Chứng
minh một nhận định lí luận văn học qua một tác phẩm, liên hệ, so sánh đến
một tác phẩm khác” để được trao đổi cùng đồng nghiệp, góp phần nâng cao
chất lượng bài thi của học sinh.
III. CÁCH TIẾN HÀNH THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP.
1.Cung cấp cho học sinh kiến thức về lí luận văn học, về tác phẩm văn học

trong chương trình.
a.Kiến thức lí luận văn học.
Kiến thức lí luận văn học là những nội dung được giảng dạy ở năm Nhất đối
với sinh viên chuyên ngành Ngữ văn. Có thể nói mảng kiến thức này khá chuyên
sâu và không dễ tiếp thu. Thế nhưng, một nghịch lý tồn tại đó là ngay từ lớp 9 ở
các kì thi học sinh giỏi học sinh đã phải nắm các đơn vị kiến thức này và phải
vận dụng ở mức độ cao trong các bài thi để giải quyết một nhận định lí luận văn
học.
Phải chăng điều này là quá sức với học sinh? Làm thế nào để biến những
kiến thức khiến sinh viên chuyên ngành vò đầu để học sinh lớp 9 đễ tiếp nhận và
vận dụng vào bài thi của mình ? Đó là câu hỏi khó đặt ra với giáo viên.
Với học sinh lớp 9 tôi chủ yếu cung cấp cho các em những kiến thức lí luận
văn học đặc trưng cơ bản . Những tri thức này sẽ là nền tảng đề học sinh tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn ở các bậc học cao hơn. Sau đây là một số nội dung tôi giúp
học sinh hiểu để có thể diễn đạt bằng lời văn của mình.

4


Đặc trưng văn học: Lý giải những đặc điểm chung nhất của văn học, trả lời các
câu hỏi như văn học bắt nguồn từ đâu, đối tượng chủ yếu của văn học là gì, tác
phẩm văn học được cấu trúc như thế nào, phương thức phản ánh của văn học là
gì…
Chức năng văn học: Trả lời cho câu hỏi: văn học tồn tại nhằm mục đích gì? Văn
học phục vụ thế nào cho đời sống của con người?
Nhà văn và quá trình sáng tác: Khái quát quy luật sáng tạo nên tác phẩm văn
học, những điều kiện về tài năng, phẩm chất, nhân cách của người viết…
Đặc trưng ngôn từ nghệ thuật: Khái quát các đặc điểm về chất liệu của văn học –
ngôn từ nghệ thuật.
Đặc trưng thể loại: Khái quát các đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của những

thể loại văn học thường gặp như thơ, tự sự (cụ thể là truyện ngắn, tiểu thuyết),
hiện tượng tương tác giữa các thể loại.
Tiếp nhận văn học: Khái quát các đặc điểm của quá trình đọc, hiểu và chiếm lĩnh
tác phẩm văn học.
Khi các em đã có vốn kiến thức lí luận văn học cơ bản rồi, kết hợp với quá
trình phân tích cảm nhận các tác phẩm văn học các em sẽ thấy lí luận không quá
khó, khô khan mà nó được rút ra, khái quát từ chính những tác phẩm ta đang
học. Những kiến thức lí luận văn học này sẽ giúp học sinh giải thích tốt và hiểu
đúng nội dung của các nhận định lí luận văn học trong đề bài.
Như vậy,trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi, việc dạy các em nắm được
các kiến thức cơ bản của lí luận văn học đã giúp cho học sinh có cơ sở vững
chắc để cảm thụ tác phẩm văn học. Việc trang bị cho học sinh những vấn đề cơ
bản của lí luận và hướng dẫn học sinh cách làm bài có dạng đề lí luận là vô cùng
cần thiết, giúp các em hiểu đúng nội dung nhận định lí luận văn học nêu ra ở đề
bài để xây dựng hệ thống luận điểm cho chính xác. Đồng thời nhằm khắc phục
nhược điểm bài văn thiếu chiều sâu, để từ đó cảm thụ, phân tích tác phẩm văn
học, đánh giá một hiện tượng văn học sẽ sâu sắc và thuyết phục hơn.
b.Kiến thức về tác phẩm văn học trong chương trình.
Đây là phần quan trọng đầu tiên trong quá trình bồi dưỡng học sinh giỏi.
Giáo viên cần trang bị cho học sinh kiến thức về tác phẩm: giá trị về nội dung ,
đặc sắc về nghệ thuật của từng tác phẩm văn học trong chương trình văn học
Việt Nam, văn học nước ngoài, văn học địa phương cả lớp 8 và lớp 9. Đồng
thời kết hợp ôn theo giai đoạn và chủ đề.
* Ôn tập theo giai đoạn và chủ đề:
Khi ôn luyện phần văn bản, tôi thường tập trung vào ôn tập theo giai đoạn
văn học, chia theo chủ đề. Qua đó gặp tác phẩm văn học ở giai đoạn nào, viết về
chủ đề gì, học sinh dễ dàng nhận diện, và có cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về
những tác phẩm đó.
Ví dụ: Khi ôn tập phầnVăn lớp 9 tôi chia thành 2 giai đoạn văn học: Văn học
Trung đại và văn học Hiện đại. Khi dạy phần văn học Trung đại, tôi tập trung

vào khai thác chủ đề: Vẻ đẹp người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua 2 tác
phẩm “Truyện Kiều” và “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Khi dạy phần văn học hiện đại tôi thường chia thành 2 phần.
5


+ Phần 1 là thơ hiện đại: Tôi tập trung ôn tập về chủ đề người lính, thể hiện
qua các bài “Đồng chí ” của Chính Hữu, bài “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” của Phạm Tiến Duật, bài thơ “Ánh trăng ” của Nguyễn Duy, “Khi con tu
hú” của Tố Hữu. Chủ đề ca ngợi quê hương, đất nước, ca ngợi chủ tịch Hồ Chí
Minh thể hiện trong các bài “Đoàn thuyền đánh cá ” của Huy Cận, “Mùa xuân
nho nhỏ” của Thanh Hải, “Quê hương” của Tế Hanh, “Hai cây phong” của Aima-tốp, bài “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, “Tức cảnh Pác Bó”, “Ngắm
trăng”, “Đi đường” của Hồ Chí Minh. Chủ đề tình cảm gia đình thể hiện qua các
bài “Bếp lửa ” của Bằng Việt, “Nói với con ” của Y Phương…
+ Phần 2 Văn xuôi hiện đại: tập trung vào chủ đề ca ngợi vẻ đẹp người nông
dân. Chủ đề này tập trung phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm “Làng”
của Kim Lân, “Lão Hạc” của Nam Cao, “Tức nước vỡ bờ” của Ngô Tất Tố. Chủ
đề ca ngợi vẻ đẹp của con người mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, tình cảm gia đình trong chiến tranh, tình người trong cuộc sống. Để làm nổi
bật nội dung này tôi tập trung phân tích vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên
trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long hay tình cha con cảm động
trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh qua “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang
Sáng, “Chiếc lá cuối cùng” của O.Hen-ri…
* Ôn tập về tác giả, tác phẩm:
Trong quá trình ôn luyện các tác phẩm văn học, ngoài nắm được những nội
dung kiến thức cơ bản của từng bài tôi đặc biệt nhấn mạnh về tác giả, tác phẩm.
Đối với tác giả cần quan tâm đến phong cách, đến sở trường của từng nhà văn.
Phần tác phẩm tôi thường hướng HS chú ý đến hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Tôi thấy nếu học sinh nắm chắc được hoàn cảnh ra đời của tác phẩm thì quá
trình thâm nhập vào tác phẩm HS sẽ hiểu sâu sắc hơn về giá trị nội dung, tư

tưởng tình cảm mà tác giả thể hiện trong tác phẩm.
Ví dụ 1: Khi học tác phẩm “Truyện Kiều” giáo viên cần yêu cầu học sinh
phải nắm chắc thân thế, cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du để từ đó hiểu được
những tác động hướng ngòi bút của ông vào phản ánh hiện thực xã hội thông
qua số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, giúp HS hiểu sâu sắc
hơn về giá trị nội dung tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm trong tác phẩm..
Ví dụ 2: Khi dạy bài thơ “Đồng chí ”của Chính Hữu phần giới thiệu về tác
phẩm ngoài những thông tin: Bài thơ ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng
chiến chống Pháp ( 1948), sau chiến dịch Việt Bắc Thu Đông . Tôi còn cho HS
thấy được trong cuộc kháng chiến đó người lính phải dối mặt với bao nhiêu khó
khăn và thử thách: thiếu thốn, bệnh tật. Lúc đó Chính Hữu là chính trị viên đại
đội, ông được giao rất nhiều nhiệm vụ chăm sóc cho các thương binh, lo liệu
cho các tử sĩ. Sau chiến dịch, ông bị bệnh sốt rét rừng rất nặng. Trong thời gian
đó ông được một người đồng đội chăm sóc ân cần, chu đáo. Cảm động trước
tấm lòng của người bạn ông viết bài thơ này như một lời cảm ơn chân thành đến
người động đội của mình. Nắm được điều đó HS mới thấu hiểu được tình cảm
của người lính dành cho nhau chân thành sâu sắc như thế nào.
Ví dụ 3: Đặt bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” vào hoàn cảnh Thanh Hải đang
nằm trên giường bệnh trước khi qua đời không bao lâu ta mới thấu hiểu tiếng
6


lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với thiên nhiên đất nước và khát vọng được
sống và cống hiến của nhà thơ Thanh Hải.
*. Khai thác các chi tiết nghệ thuật đặc sắc:
- Ngoài ra trong quá trình ôn luyện các tác phẩm văn học tôi khuyến khích
học sinh phát hiện những chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm, hướng dẫn
học sinh phân tích giá trị của các chi tiết nghệ thuật dó.
Ví dụ: Văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương” phát hiện và phân tích
ý nghĩa chi tiết chiếc bóng. Văn bản “Làng” Phân tích chi tiết ông Hai đi khoe

“Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn.” Văn bản “Chiếc lược ngà” Chi tiết chiếc
lược ngà.
Như vậy khi ôn luyện phần văn học, ngoài nắm vững những kiến thức cơ
bản, tôi yêu cầu học sinh phân loại tác phẩm theo giai đoạn, chủ đề, phải nắm
chắc hoàn cảnh ra đời, các chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm.
2. Các bước tiến hành giải quyết dạng đề “Cách làm bài văn chứng minh
một nhận định lí luận văn học qua một tác phẩm, liên hệ, so sánh đến một
tác phẩm khác”.
Để giải quyết dạng đề này tôi hướng dẫn học sinh các bước sau:
2.1 Tìm hiểu đề.
Đối với dạng đề chứng minh một nhận định lí luận văn học qua một tác
phẩm , liên hệ so sánh đến tác phẩm khác, việc nhận diện đề, kiểu bài,phạm vi
dẫn chứng không quá khó với học sinh. Cái khó ở chỗ học sinh cần xác định
đúng vấn đề cần chứng minh thông qua việc hiểu đúng bản chất, nội dung của
nhận định ở đề bài. Tác phẩm nào chính cần phân tích sâu sắc, tác phẩm nào liên
hệ cần phân tích khái quát. Và vận dụng những phương pháp lập luận nào? Do
vậy yêu cầu học sinh cần phải:
- Đọc kĩ đề, gạch chân từ ngữ quan trọng để xác định đúng vấn đề nghị luận.
-Xác định đúng phương pháp lập luận. Chủ yếu là phương pháp giải thích,
chứng minh, bình giảng kết hợp với so sánh, liên hệ, đánh giá tổng hợp vấn đề.
-Xác định đúng phạm vi dẫn chứng trong tác phẩm.
Ví dụ: “Một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là xây
dựng thành công tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhận vật” . Bằng những
hiểu biết cuả em về truyện ngắn “ Làng” của nhà văn Kim Lân, hãy làm sáng tỏ
nhận định trên. Liên hệ đến “ Chiếc lá cuối cùng” của O.Hen-ri để thấy được
tài năng của mỗi nhà văn.
Với đề bài trên học sinh cần xác định:
+Vấn đề nghị luận: Thành công của truyện ngắn ( tác phẩm văn học) là xây
dựng được tình huống độc đáo và nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật hấp dẫn.
+Phương pháp lập luận: Giải thích, chứng minh,so sánh, liên hệ( thao tác chủ

yếu) kết hợp bình luận, đánh giá,tổng hợp vấn đề.
+Tư liệu: Kiến thức về lí luận văn học, tác phẩm “Làng” và “Chiếc lá cuối
cùng”
2.2 Xác lập luận điểm.
Đây là bước khó nhất với học sinh, nhiều em tỏ ra lúng túng không biết
xác định luận điểm như thế nào để đáp ứng, làm sáng rõ vấn đề nghị luận. Một
7


bài văn hay, đạt điểm cao là bài văn phải có hệ thống ý đầy đủ, sáng tạo, chặt
chẽ, đáp ứng toàn diện yêu cầu của đề, được thể hiện qua một hình thức trình
bày và diễn đạt chính xác, trong sáng, tinh tế, khéo léo, có hình ảnh và cảm xúc.
Nếu bài văn có hệ thống ý không đúng hoặc không trúng với yêu cầu của đề
xem như bài làm đã xa đề thậm chí lạc đề. Vì vậy khi giải quyết một đề văn điều
quan trọng nhất là tìm ra ý (xây dựng luận điểm).
Để xây dựng được hệ thống luận điểm đúng đắn tôi hướng dẫn học sinh cần
dựa vào yêu cầu của đề bài, căn cứ vào nội dung nhận đinh lí luận văn học đã
cho trong đề, kết hợp với kiến thức các em đã học hoặc đã đọc. Sau khi đã xây
dựng được hệ thống luận điểm cần xác định xem luận điểm nào là chính cần
phân tích kĩ lưỡng, luận điểm nào là phụ chỉ cần phân tích ngắn gọn hoặc lướt
qua ; cũng như mối quan hệ qua lại giữa các luận điểm đồng thời sắp xếp các
luận điểm theo một trình tự hợp lí và có ý nghĩa nhất.
Ví dụ: “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời
sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm
hồn, trí tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng
hay.”
(Xuân Diệu, Toàn tập, Tập 5, NXB Văn
học)
Qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, em hãy làm sáng tỏ ý
kiến trên. Liên hệ với bài thơ Quê hương của Tế Hanh để thấy điểm gặp gỡ về

tâm hồn, trí tuệ của hai nhà thơ.
Với đề bài trên hệ thống luận điểm cần xác lập là:
- Giải thích nhận định. : Ý kiến của Xuân Diệu khẳng định: một tác phẩm thơ
cần bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống, thể hiện những tìm tòi, sáng tạo mới mẻ,
sâu sắc, độc đáo cả về nội dung tư tưởng, tình cảm lẫn hình thức nghệ thuật để
đem lại giá trị thẩm mĩ.
-Chứng minh nhận định
* Bài thơ: “Đoàn thuyền đánh cá”
+ Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá xuất phát từ hiện thực đời sống những năm
miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Tâm hồn, trí tuệ của bài thơ là cảm xúc dào dạt tin yêu của nhà thơ trước cuộc
sống mới qua hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá từ lúc
hoàng hôn đến lúc bình minh.
+ Bài thơ thành công bởi sự sáng tạo về nghệ thuật, làm nên nét cá thể hóa, độc
đáo của bài thơ.
*Liên hệ trí tuệ, tâm hồn trong tác phẩm Quê hương: Hình ảnh quê hương làng
chài hiện về trong nỗi nhớ tha thiết của người xa quê. Bài thơ có những nét đặc
sắc về nghệ thuật làm nên nét cá thể hóa, độc đáo .
* Điểm tương đồng và khác biệt
- Điểm gặp gỡ về tâm hồn và trí tuệ của hai bài thơ: khắc họa được sắc nét cảnh
vật thiên nhiên và con người lao động giữa biển trời.
8


- Điểm khác biệt là hai bài thơ ra đời trong hai giai đoạn khác nhau với hoàn
cảnh sáng tác riêng.
*. Đánh giá, nâng cao
2.3 Xây dựng dàn bài chung.
a. Mở bài: - Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề nghị luận, trích dẫn nguyên văn nhận
định, ý kiến.

- Giới thiệu tác phẩm cần chứng minh.
Lưu ý : Cách giới thiệu làm sao để người đọc thấy được tác phẩm chính và tác
phẩm liên hệ.
b.Thân bài
*.Giải thích nhận định: Giải thích, làm rõ vấn đề:
- Giải thích, cắt nghĩa các từ, cụm từ có nghĩa khái quát hoặc hàm ẩn trong ý
kiến .
- Sau khi cắt nghĩa các từ ngữ cần thiết cần phải giải thích, làm rõ nội dung của
cả ý kiến. Thường trả lời các câu hỏi: Ý kiến trên đề cập đến vấn đề gì? Câu nói
ấy có ý nghĩa như thế nào?Chốt vấn đề nghị luận: Như vậy, vấn đề cần bàn ở
đây là gì? Khẳng định ý kiến đúng hay sai?
( Trong quá trình giải thích lồng vào bàn luận, lí giải vấn đề nghị luận)
*. Chứng minh ý kiến .
- Qua tác phẩm chính
+ Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
+ Căn cứ vào nội dung của nhận định để xây dựng thành các luận điểm và lựa
chọn chi tiết trong tác phẩm để làm rõ biểu hiện của vấn đề nghị luận.( Phân
tích, chứng minh qua nội dung và nghệ thuật tác phẩm)
- Liên hệ đến tác phẩm thứ hai.
+ Khái quát vài nét về tác giả, tác phẩm.
+ Phân tích khái quát về nội dung và nghệ thuật theo hệ thống luận điểm đã
được xây dựng ở trên.
*. So sánh: Từ nội dung của nhận định, ý kiến, so sánh chỉ ra những nét tương
đồng và khác biệt giữa hai tác phẩm :
+ Nhận xét nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả các bình diện
như chủ đề, nội dung hình thức nghệ thuật...(bước này vận dụng kết hợp nhiều
thao tác lập luận nhưng chủ yếu là thao tác lập luận phân tích và thao tác lập
luận so sánh) . Bước này nhằm phát huy trí tuệ sắc sảo và mĩ cảm của học sinh.
Tùy từng đối tượng được yêu cầu so sánh và bám vào nội dung nhận định mà có
cách chia tách ra các khía cạnh nhỏ khác nhau như: ngôn từ, hình ảnh, chi tiết,

kết cấu, âm hưởng, giọng điệu đến đề tài, chủ đề, tư tưởng và cảm hứng nghệ
thuật . Học sinh cần có sự quan sát tinh tường, phát hiện chính xác và diễn đạt
thật nổi bật, rõ nét, tránh nói chung chung, mơ hồ. Khi nhận xét về điểm giống
và khácnhau, tôi định hướng cho các em tìm trên các bình diện để sosánh như :
-> Thời đại, hoàn cảnh ra đời
-> Đề tài, chủ đề
-> Phong cách sáng tác
-> Nội dung tư tưởng
9


-> Đặc sắc nghệ thuật
->Vị trí đóng góp của tác phẩm, tác giả.....
Nhưng quan trọng nhất vẫn phải bám vào nội dung nhận định và yêu cầu cụ thể
ở đề bài để so sánh. Nếu các em đối chiếu hai đối tượng (văn bản) được so sánh
trên các bìnhdiện trên để khái quát vấn đề chắc chắn các em sẽ tìm thấy điểm
giống và khácnhau. Vì người ra đề thi dạng liên hệ, so sánh thường dựa trên
những vấn đề có liên quan tới nhau để ra đề.
+Lý giải sự khác biệt: . Bước này đòi hỏi những tiêu chuẩn chắc chắn và bản
lĩnh vững vàng cùng những hiểu biết sâu sắc ngoài văn bản để tránh những suy
diễn tùy tiện, chủ quan, thiếu sức thuyết phục .Thực hiện thao tác này cần dựa
vào các bình diện: bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong
cách nhà văn; đặc trưngthi pháp của thời kì văn học.
Ví dụ: Với đề bài trên, giáo viên hướng dẫn học sinh chỉ ra điểm tương đồng
và khác biệt về tâm hồn và trí tuệ của hai tác giả, hai bài thơ căn cứ vào nội
dung cảm xúc, đề tài chủ đề, hoàn cảnh ra đời, hoàn cảnh thời đại…
- Điểm gặp gỡ về tâm hồn và trí tuệ của hai bài thơ: khắc họa được sắc nét cảnh
vật thiên nhiên và con người lao động giữa biển trời. Đều xuất phát từ hai nguồn
cảm hứng về thiên nhiên và con người lao động, thể hiện tình yêu, sự gắn bó với
thiên nhiên và cuộc sống lao động của con người. Cả hai bài thơ đều vẽ lên

những hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, làm nền cho vẻ đẹp của con người trong
hành trình chinh phục biển khơi. Cả hai bài thơ đều khắc họa tâm thế hào hứng
và niềm lạc quan phơi phới của người lao động. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê
hương, đất nước của hai thi sĩ.
- Điểm khác biệt là hai bài thơ ra đời trong hai giai đoạn khác nhau với hoàn
cảnh sáng tác riêng. Quê hương thuộc phong trào Thơ mới, sang tác (1938)
trong hoàn cảnh nhà thơ xa quê, gửi tình yêu và nỗi nhớ của người con phương
xa về với quê nhà. Còn Đoàn thuyền đánh cá ra đời năm 1958, trong giai đoạn
miền Bắc xây dựng CNXH, nhà thơ có dịp đi thực tế vùng mỏ Quảng Ninh,
cùng sống trong không khí lao động khẩn trương, chứng kiến niềm vui phơi
phới của con người lao động mới làm chủ cuộc đời.
=> Tuy ra đời trong hai giai đoạn với hoàn cảnh sáng tác riêng, song hai nhà thơ
cùng xuất phát từ hiện thực đời sống, đi qua tâm hồn, trí tuệ của nhà thơ để sáng
tạo nên những bài thơ hay, đánh dấu trong sự nghiệp sáng tác của mỗi người.
*. Đánh giá, nâng cao, mở rộng vấn đề.
- Đánh giá tính đúng đắn của vấn đề nghị luận.
- Bổ sung, phản biện lại vấn đề (Nếu có)
- Rút ra bài học cho nhà văn trong quá trình sáng tác và bạn đọc trong quá trình
tiếp nhận.
- Mở rộng : Liên hệ đến một vài tác phẩm có sự tương đồng để khẳng định lại
một lần nữa tính đúng đắn của nhận định.
c.Kết bài.
- Khẳng định lại tính đúng đắn, sâu sắc của nhận định. Khẳng định lại giá trị của
hai tác phẩm đối với vấn đề đặt ra trong nhận định. Sức sống lâu bền của tác
10


phẩm, sự lay động tâm thức người đọc, ánh sáng mà tác phẩm rọi vào bên trong
tâm hồn bạn đọc, tên tuổi của tác giả trong nền văn học…
2.4. Hướng dẫn học sinh viết bài .

a. Mở bài.
- Không phải không có lí khi có ý kiến cho rằng: văn hay chỉcần đọc mở bài. Tất
nhiên nếu chỉ đọc mở bài thì không thể đánh giá đượctoàn bộ bài văn. Nhưng
mở bài có tầm quan trọng thực sự đối với bài viết. Người ta thường nói “Vạn sự
khởi đầu nan”. Khi viết văn có được một mở bài hay, tự nhiên “dòng văn” như
được khơi chảy, tuôn trào. Mở bài lúng túng, trục trặc sẽ khiến bài văn thiếu sinh
khí, văn phong không liền mạch, ý tứ sẽ trở nên rời rạc.
- Đối với dạng đề chứng minh một nhận định lí luận văn học qua một tác
phẩm, liên hệ, so sánh đến một tác phẩm khác, học sinh càng lúng túng hơn
khi viết mở bài vì liên quan tới hai tác giả, hai tác phẩm. Qua thực tế chấm bài
của học sinh làm tôi thấy nhiều học sinh mở bài so sánh chưa đúng nguyên tắc.
Các em thường mắc phải lỗi giới thiệu tuần tự hai tác giả, hai tác phẩmmột cách
rời rạc khiến người chấm có cảm giác như có hai mở bài. Hoặc các em dẫn dắt
chưa sát, với vấn đề nêu ra trong nhận định, hoặc vòng vo dài dòng . Vì vậy dạy
đề văn dạng này giáo viên cần lưu ý cho học sinh cách mở bài:
+ Mở bài gián tiếp và cần dẫn dắt từ các nội dung gần gũi, liên quan đến vấn đề
đặt ra trong nhận định. Có thể dẫn từ đề tài, từ một ý kiến, nhận định khác, một
câu thơ; từ chức năng, nhiệm vụ, công dụng của văn chương (lí luận văn học)

+ Để có một mở bài hay các em cần mở bài ngắn gọn, đầy đủ (các thông tin cơ
bản), độc đáo (gây được sự chú ý của người đọc về vấn đề mình sẽ viết) và phải
tự nhiên, hấp dẫn.
+ Giới thiệu phạm vi dẫn chứng theo trình tự tác phẩm chính trước, tác phẩm
liên hệ sau và nhấn mạnh để người chấm biết được điều đó.
+ Độ dài vừa phải, không quá dài cũng không quá ngắn ( khoảng 17 dòng).
Ví dụ: “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống,
nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí
tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng hay.”
(Xuân Diệu, Toàn tập, Tập 5, NXB Văn
học)

Qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Liên hệ với bài thơ Quê hương của Tế Hanh để thấy điểm gặp gỡ về tâm hồn, trí
tuệ của hai nhà thơ.
Với đề bài trên, sau khi tôi hướng dẫn học sinh đã mở bài như sau:
“Vạt áo của triệu nhà thơ không bọc hết vàng mà đời rơi vãi
Hãy nhặt lấy chữ của đời mà góp nên trang”
Thơ ca là cuộc đời nhưng thơ ca không phải là trang giấy in nguyên vẹn hình
bóng của cuộc đời rộng lớn. Người nghệ sĩ phải tìm đến cuộc đời, hút lấychất
mật tinh túy nhất để tạo nên một tác phẩm thực sự có giá trị. Sinh ra từ tâm hồn
và trái tim con người, thơ là những rung động của tâm hồn, soi chiếu qua chiều
sâu tư tưởng thi sĩ được chắt lọc và gọt rũa bằng nghệ thuật ngôn từ. Và đó cũng
11


là yêu cầu của người đọc thơ đối với nhà thơ. Hiểu được điều đó, nhà thơ Xuân
Diệu đã khẳng định; “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ hiện thực
cuộc sống nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ, phải in dấu vào đó thật
sâu sắc, càng cá thể , càng độc đáo, càng hay”. Và bài thơ “ Đoàn thuyền đánh
cá” của Huy Cận đã đi qua tâm hồn, trí tuệ nhà thơ, in một dấu ấn độc đáo, sâu
sắc. Đồng thời ta cũng thấy được qua “Quê hương” của Tế Hanh điểm gặp gỡ
về “tâm hồn, trí tuệ” của hai nhà thơ.
(Bài làm của em Lê Thị Thu Hà –
Lớp 9A)
b. Thân bài
Giải quyết vấn đề được xem là phần quan trọng nhất trong một bài viết
vì nó chiếm số lượng điểm nhiều nhất của toàn bài. Chính vì vậy mà phần này
giáo viên không chỉ trang bị kiến thức lí luận, kiến thức về tác giả, kiến thức sâu,
rộng về tác phẩm mà phải hướng dẫn cho các em các kĩ năng viết bài.
Ở phần này tôi hướng dẫn học sinh cách chuyển ý, chốt ý, cách bám sát
yêu cầu đề cũng như là nghệ thuật hành văn, kĩ thuật xoáy trọng tâm , bình giảng

chi tiết hình ảnh để làm nổi bật ý và bài làm có chiều sâu, phân tích đậm nhạt chỉ
khai thác yếu tố nghệ thuật, nội dung đặc sắc nhất, có mối liên hệ rõ nhất với
vấn đề nghị luận. Bởi năng lực tư duy, năng lực cảm thụ văn học của người viết,
sự tinh tế, sâu sắc và điểm số cuả bài văn phụ thuộc rất nhiều vào việc phân tích
chi tiết, hình ảnh và cảm nhận dẫn chứng của người viết.
Ví dụ : Khi phân tích vẻ đẹp “tâm hồn, trí tuệ” của nhà thơ qua bài “Quê
hương”, đây là tác phẩm liên hệ nên vừa đòi hỏi sự khái quát kiến thức vừa cần
chọn lọc dẫn chứng, hình ảnh, xoáy sâu vào các ý sau:
- Khổ đầu bài thơ Quê hương là cảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá trong buổi
bình minh. Đó là những câu thơ đẹp, mở ra cảnh tượng bầu trời cao rộng, trong
trẻo, nhuốm nắng hồng bình minh; trên đó, nổi bật lên hình ảnh đoàn thuyền
băng mình ra khơi.
+ Hình ảnh so sánh Chiếc thuyền hăng như con tuấn mã và một loạt các động từ
mạnh: hăng, phăng, vượt...diễn tả thật ấn tượng khí thế băng tới dũng mãnh của
con thuyền ra khơi, làm toát lên một sức sống mạnh mẽ, một vẻ đẹp hùng tráng
đầy hấp dẫn. Bốn câu thơ vừa là phong cảnh thiên nhiên tươi sáng, vừa là bức
tranh lao động đầy hứng khởi và dào dạt sự sống.
+ Hai câu tiếp theo miêu tả cánh buồm căng rất đẹp, một vẻ đẹp lãng mạn với sự
so sánh bất ngờ: Cánh buồm bỗng trở nên lớn lao, thiêng liêng và rất thơ mộng.
Hình ảnh so sánh vừa vẽ ra chính xác cái hình, vừa cảm nhận được cái hồn của
tạo vật, gợi vẻ đẹp bay bổng mang ý nghĩa lớn lao. Con thuyền, cánh buồm đã
trở thành linh hồn của làng chài...
- Khổ cuối bài thơ là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong không khí lao
động ồn ào, tấp nập, đày ắp niềm vui, sự sống. Hình ảnh con người với vẻ đẹp
vạm vỡ, nhuộm nắng gió, nồng thở vị xa xăm của biển khơi.
Đồng thời tôi hướng dẫn học sinh triển khai luận điểm, mỗi luận điểm viết
thành một đoạn văn, sau đó tìm luận cứ và cách lập luận để làm rõ luận điểm.
12



Cụ thể hướng dẫn học sinh viết từng đoạn: đoạn giải thích nhận định; đoạn giới
thiệu về tác giả, tác phẩm; các đoạn chứng minh theo từng luận điểm; đoạn so
sánh; đoạn đánh giá, nâng cao, mở rộng. Mỗi đoạn văn có thể viết dưới nhiều
hình thức như diễn dịch, quy nạp, tổng- phân- hợp…Sự kết hợp luân phiên các
đoạn văn với các hình thức khác nhau sẽ tránh cho bài văn khỏi sự lặp lại một
cách nhàm chán, đơn điệu.
Ở mỗi đoạn tôi đặc biệt chú ý sửa lỗi diễn đạt câu chuyển ý và câu chốt đoạn
hướng vào nhận định. Câu chuyển ý, chốt đoạn rất quan trọng, nó đảm bảo cho ý
bài văn liền mạch, thống nhất và luôn hướng vào yêu cầu của đề bài. Thông
thường câu chuyển ý sẽ nhắc lại nội dung luận điểm đang chứng minh được nêu
ra ở nhận định, có tác dụng khép lại ý đã viết xong và mở ra ý mới nên cần được
diễn đạt khéo léo, tự nhiên nhất. Câu chốt đoạn cần chỉ ra rõ vấn đề nghị luận
được thể hiện như thế nào trong tác phẩm.
Ví dụ: “Người đọc thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống,
nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí
tuệ phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng hay.”
(Xuân Diệu, Toàn tập, Tập 5, NXB Văn
học)
Qua bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Liên hệ với bài thơ Quê hương của Tế Hanh để thấy điểm gặp gỡ về tâm hồn, trí
tuệ của hai nhà thơ.
- Với đề bài trên , ở luận điểm chứng minh “tâm hồn, trí tuệ” được thể hiện
trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận , được chia ra các luận điểm
nhỏ: “tâm hồn, trí tuệ” được thể hiện khi đoàn thuyền ra khơi, khi đánh cá trên
biển, khi trở về. Học sinh đã viết những câu chuyển ý ở các luận điểm phụ này
khá linh hoạt, khéo léo.
+ Cuộc sống là vườn hoa đầy hương sắc, như những con ong cần mẫn đi làm
mật cho đời, nhà thơ không chỉ sao chép hiện thực cuộc sống trần trụi mà còn
gửi gắm những tư tưởng , tình cảm tốt đẹp, một tâm hồn, một trí tuệ sâu sắc.
Tâm hồn trí tuệ của bài thơ là cảm xúc dạt dào tin yêu của nhà thơ trước cuộc

sống mới qua hành trình ra khơi của đoàn thuyền đánh cá.
+ Tâm hồn trí tuệ của nhà thơ hòa quện vào nhau tạo nên một bức tranh lao động
trong đêm thật kì vĩ, tráng lệ.
+ Tâm hồn và trí tuệ của Huy Cận giao hòa vào nhau tạo nên một khung cảnh
thiên nhiên rực rỡ, huy hoàng trong khí thế của đoàn thuyền băng băng rẽ sóng
trở về.
+Câu kết đoạn (Ở cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về): Cảnh đánh cá trở về là sự
hòa quyện giữa tâm hồn và trí tuệ, tình cảm và tư tưởng-tình yêu, niềm tự hào,
sự ngợi ca của nhà thơ trước vẻ đẹp kì vĩ của thiên nhiên, trước hiện thực cuộc
sống lao động của con người mới được làm chủ biển trời quê hương.
(Bài làm của em Lê Thị Thu Hà – Lớp 9A)
Trong quá trình phân tích luận điểm tôi hướng dẫn học sinh cần chú ý sử
dụng linh hoạt hệ thống từ khóa của đề bài. Đối với bài thi học sinh giỏi phần
phân tích không cần quá nặng nề về kĩ lưỡng. Các em cần có kĩ năng phân tích
13


đậm nhạt để làm nổi bật cái thần của văn bản, cần có lời bình hay, hành văn đẹp
– đó là chất văn của bài viết.
c.Kết bài
Phần kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở mở bài và đã giải
quyết ở thân bài. Phần này góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho bài
văn. Trải qua khâu chấm thi tôi nhận thấy các em học sinh thường xem nhẹ kết
bài. Với tâm lí “đầu xuôi thì đuôi khắc lọt”, thêm vào đó một lí do sắp hết giờ
nên chỉ cần có “đóng lại” bằng cách tóm lại một vài ý đãtrình bày ở trên là
được. Đứng trước thực trạng đó nên tôi đã hướng dẫn cho học sinh cách kết bài
của dạng đề này :
+ Thứ nhất độ dài phải gần tương ứng với mở bài.
+Thứ hai đúng nguyên tắc,hay không chỉ ngắn gọn, khép lại nhữngvấn đề đã
bàn luận, khẳng định tính đúng đắn của nhận định ở trên mà học sinh có thể kết

bài mở, kết bài phát triển, kết bài theo hướng nâng cao, mở rộng để gợi ra nhiều
suy nghĩ liên tưởng mới nơi người đọc.
Tóm lại: Có nhiều cách, nhiều kiểu kết bài. Nhưng dù kết bài theo kiểu nào
đi chăng nữa thì cũng nhằm khắc sâu kết luận của người viết để lại ấn tượng cho
người đọc và nhằm nhấn mạnh ý nghĩa của vấn đề đã được nghị luận. Kết bài
hay phải vừa đóng lại, chốt lại, phải vừa mở ra, nâng cao và cứ ngân nga mãi
trong lòng người đọc.
Ví dụ: Ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu quả thật đúng đắn và sâu sắc “Người đọc
thơ muốn rằng thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua
một tâm hồn, một trí tuệ và khi đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ phải in dấu vào
đó thật sâu sắc, càng cá thể càng độc đáo, càng hay.” Và bài thơ “Đoàn thuyền
đánh cá” của Huy Cận, “Quê hương” của Tế Hanh đã đi qua tâm hồn, trí tuệ
của hai thi sĩ để trở thành những bài thơ đi cùng năm tháng, neo đậu bền chặt
trong tâm hồn bạn đọc bao thế hệ. Hai bài thơ đã rọi vào tâm hồn ta một thứ ánh
sáng riêng đẹp đẽ, ngân vang về tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước ,
con người Việt Nam. Để rồi ta thêm yêu mến và trân trọng tài năng, tâm hồn của
hai nhà thơ chân chính ấy.
(Bài làm của em Lê Thị Thu Hà – Lớp 9A)
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Trong năm vừa qua, bản thân tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn
lớp 9 và làm nhiệm vụ bồi dưỡng học sinh giỏi cấp Huyện, Tỉnh. Những kinh
nghiệm trên đã được tôi áp dụng vào việc bồi dưỡng đồng đội học sinh giỏi cấp
Huyện, cấp Tỉnh. Do vậy, dù là dạng đề mới mẻ nhưng với phương pháp trên
các em đã thành thạo trong cách xử lí đề. Biết viết một bài văn đảm bảo các
phần, các ý cơ bản đến nâng cao: Nhiệm vụ chính là phân tích tác phẩm, chiếm
số điểm nhiều hơn, đây là nhiệm vụ cơ bản để đạt mức điểm trung bình, khá.
Bên cạnh đó, còn một nhiệm vụ nâng cao là so sánh, liên hệ, đây là nhiệm vụ đặt
ra để phân hóa học sinh, phải giải quyết nó để đạt mức điểm giỏi. Từ khi tôi áp
14



dụng kinh nghiệm trên trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi cho đến nay tôi thấy
có những chuyển biến đáng kể, số học sinh yêu thích và học giỏi môn văn ,số
học sinh đạt giải cấp Huyện, cấp Tỉnh chiếm tỉ lệ tương đối cao. Năm học 20182019 số học sinh đạt giải cấp Tỉnh do tôi bồi dưỡng đạt 7/10 giải. Trong đó có 2
giải Nhì, 2 giải Ba, 3 giải Khuyến khích. Dù kết quả chưa thực sự mĩ mãn nhưng
phần nào cũng đã thể hiện được những hiệu quả nhất định từ những kinh nghiệm
trên.
C. KÕt luËn vµ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Có thể nói kiểu bài chứng minh một nhận định lí luận văn học qua một tác
phẩm, liên hệ, so sánh đến một tác phẩm khác là một dạng đề khó đối với học
sinh giỏi. Bởi đề đòi hỏi học sinh phải có những hiểu biết nhất định về kiến thức
lí luận văn học để giải thích và hiểu đúng bản chất của nhận định. Để từ đó đi
xây dựng hệ thống luận điểm cho đúng đắn. Không chỉ vậy, còn đòi hỏi học sinh
phải có tư duy so sánh, tìm ra nét tương đồng và khác biệt thấy được điểm kế
thừa và tiếp nối và phát triển, sáng tạo của hai tác phẩm, tác giả. Đây chính là
yêu cầu nâng cao để phận loại học sinh giỏi. Do vây giáo viên cần dày công và
kết hợp với phương pháp ôn luyện phù hợp mới mong có được những bài làm
chất lượng, đạt kết quả cao trong các kì thi học sinh giỏi.
Trên đây là những kinh nghiệm mà tôi đã rút ra được từ thực tế hướng dẫn
học sinh qua mùa đội tuyển bồi dưỡng học sinh giỏi cấp Tỉnhvừa qua và bước
đầu đạt kết quả tương đối khả quan. Hi vọng nhũng kinh nghiệm trên cũng có
thể gỡ bí cho một số học sinh, đồng nghiệp và đồng thời gợi ý thêm một cách
học văn lâu dài.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với tổ chuyên môn.
Tăng cường tổ chức sinh hoạt chuyên môn để trao đổi, góp ý, học hỏi để
cùng nhau tìm ra cách thức thực hiện hiệu quả nhất khi dạy một dạng đề cụ thể
của chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi.
2.2. Đối với cấp trên

Tổ chức các chuyên đề về công tác bồi dưỡng học sinh giỏi để chúng tôi
được giao lưu, trao đổi với các huyện khác, nhất là các huyện có thành tích cao
trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi để được học hỏi kinh nghiệm. Phòng
giáo dục thành lập một tổ các giáo viên cốt cán để hỗ trợ, trao đổi công tác ra đề,
giải đề cùng giáo viên đứng tuyển.
Đề tài này là do bản thân học hỏi, đúc rút kinh nghiệm qua giảng dạy,
nên chắc chắn cũng không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong các
đồng nghiệp tham khảo và góp ý chân thành để bản thân tôi rút kinh nghiệm và
giảng dạy tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
15


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Yên Định, ngày 14 tháng 04 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Thu

16


PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN ĐỊNH
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ LÊ ĐÌNH KIÊN


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
TÊN ĐỀ TÀI:

MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG VIỆC BỒI DƯỠNG
HỌC SINH GIỎI MÔN NGỮ VĂN LỚP 9

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thu
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Lê Đình
Kiên
SKKN thuộc lĩnh vực môn: Ngữ văn

YÊN ĐỊNH, NĂM 2019
17


18



×