MỤC LỤC
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
Nội dung
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Tổ chức nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng
3. Các giải pháp
4. Kết quả đạt được
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Trang
02
02-03
03
03
04
05
05-07
07-09
09-10
11
12
12-13
13
15
1
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Hoạt động Thể dục thể thao là một hoạt động không thể thiếu được trong
đời sống của mỗi con người, sự hoàn thiện về thể chất lẫn tinh thần giúp con
người phát triển một cách toàn diện.
Nhận thức được vai trò to lớn của Thể dục thể thao, tháng 3 năm 1946
Bác Hồ đã viết lời kêu gọi " Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống
mới việc gì cũng cần có sức khỏe mọi việc mới thành công. Vậy nên rèn luyện
thể dục, bồi bổ sức khỏe là bổn phận của mỗi người dân yêu nước'' . Chủ Tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng vận mệnh của đất nước gắn liền với sức khỏe của
từng người dân. '' Mỗi một người dân yếu ớt tức là làm cho nước yếu ớt một
phần, mỗi một người dân khỏe mạnh tức là làm cho nước khỏe mạnh ". Thấm
nhuần tư tưởng chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Đảng và nhà Nước ta luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng
chăm sóc sức khỏe cho nhân dân đặc biệt là sự nghiệp trồng người, thế hệ tương
lai của đất nước.
Giáo dục thể chất cho học sinh là một trong những nội dung cơ bản giáo
dục toàn diện: “ Trí lực và Thể lực” góp phần giáo dục tố chất vận động, nhân
cách, đạo đức lối sống, tác phong làm việc. Việc gì cũng cần có sức khỏe thì mới
có thể làm được, có sức khỏe tốt, tinh thần minh mẫn thì làm việc gì kết qủa đạt
được cũng luôn luôn cao. Do vậy bồi bổ sức khỏe cho học sinh hiện nay để làm
nền tảng sau này đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội, giáo viên chuyên
ngành và các em học sinh.
Môn chạy bền được giảng dạy xuyên suốt chương trình từ lớp 6 đến lớp 9
của bậc THCS. Tập chạy bền để phát triển sức bền với cự ly chạy thường 400m
trở lên, học sinh phần lớn còn ngại tập luyện và chạy bền là nội dung tập luyện
tương đối đơn điệu, đòi hỏi năng lực, sức chịu đựng của người tập rất cao, và
phải hoạt động trên một đoạn đường dài, khả năng chống chịu mệt mỏi của cơ
thể cao, qúa trình tập luyện nhất thiết bản thân phải nỗ lực và cầm cự, tính kiên
nhẫn, bền bỉ, dẻo dai.
Khi tổ chức các trò chơi giáo viên cho học sinh chơi đi chơi lại một trò
chơi qúa nhiều lần gây ra hiện tượng học sinh nhàm chán, không có hứng thú
trong học tập, không có sự ganh đua giữa tổ này với tổ khác, đội này với đội kia.
Không đưa các trò chơi ưa thích của địa phương vào nội dung chơi, giải thích và
hướng dẫn luật chơi không cụ thể nên tính tổ chức kỷ luật không cao.
Khi hướng dẫn trò chơi giáo viên không hướng dẫn một cách chi tiết,
thường giao cho cán sự lớp tổ chức, giáo viên không quan sát xem học sinh có
tích cực tự giác hay không. Nội dung chạy bền xuyên suốt cả qúa trình học nên
cần nâng dần lượng vận động một cách hợp lý. Trong qúa trình dạy học chạy
bền giáo viên thường cho học sinh chạy khi nào thấy mồ hôi ra nhiều thì mới
cho dừng lại, nhiều em có sức khỏe yếu thường thấy hoa mắt, chóng mặt, buồn
nôn. Bên cạch đó một số giáo viên không chú trọng công tác chuyên môn dẫn
đến chất lượng dạy học Thể dục đặc biệt là nội dung chạy bền ngày càng đi
2
xuống, chưa áp dụng phương pháp dạy học tích cực. Giáo viên cần liên tưởng
trong khâu tổ chức tập luyện, chưa khuyến khích được học sinh trong các giờ
học, mà đặc điểm tâm lý của lứa tuổi này là thích được khen.
Ngoài nội dung chính bắt buộc trong phân phối chương trình giáo viên
thường ít chú ý biên soạn (ở phần trò chơi do GV chọn) , chưa tìm tòi những trò
chơi mới lạ hấp dẫn để đưa vào phục vụ mục đích giảng dạy, hoặc nếu có thì còn
đơn giản không phong phú và hấp dẫn, chưa đưa ra hình thức thưởng phạt thích
đáng. Chính vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài này nhằm nâng cao chất lượng dạy
học thể dục nói chung và dạy nội dung chạy bền nói riêng góp một phần nhỏ
công sức hoàn thành mục tiêu mà ngành giáo dục đề ra.
Qua đề tài này mục đích của bản thân nhằm phát huy tối đa khả năng vận
động của các em, giúp các em tích cực tự giác luyện tập nhằm nâng cao sức
khỏe thông qua các trò chơi đa dạng, phong phú bởi trò chơi tôi đưa vào được sử
dụng như một nội dung học tập, vừa là phương tiện rèn luyện sức khỏe, thể lực
và giáo dục đạo đức cho học sinh. Các trò chơi này mang đầy đủ các đặc điểm,
tính chất hấp dẫn, lôi cuốn học sinh nhất, thu hút các em vào luyện tập tạo sự
hứng thú trong học tập. Với những yêu cầu cấp bách trên, tôi quyết định lựa
chọn đề tài:
“Tạo hứng thú cho học sinh trong học nội dung chạy bền thông qua các trò
chơi vận động nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ở trường THCS Định
Hưng”
2. Mục đích nghiên cứu
2.1. Tạo cho các em sự say mê, hứng thú trong môn học.
2.2. Giúp các em rèn luyện thân thể tốt, có sức khoẻ đảm bảo trong việc học tập.
2.3. Sử dụng một số trò chơi vận động phù hợp với lứa tuổi các em đảm bảo tính
vừa sức, hấp dẫn.
3. Tổ chức nghiên cứu:
3.1.Thời gian nghiên cứu:
Đề tài này được tiến hành nghiên cứu từ tháng 8/2014 đến tháng 3/2017
và được tiến hành qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Năm học 2014-2015. Dạy thực nghiệm theo giáo án thông thường
- Giai đoạn 2: Từ tháng 5/2015 đến tháng 8/2015 đọc tài liệu lựa chọn các bài
tập bổ trợ tiên tiến, xây dựng đề cương.
- Giai đoạn 3: Từ tháng 9/2015 đến tháng 3/2017. tiến hành nghiên cứu, thu
thập tính toán, xử lý số liệu, phân tích các số liệu thu được của nhóm thực
nghiệm và nhóm đối chứng. Hoàn thành đề tài.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Đưa các trò chơi vận động và giảng dạy nội dung chạy bền cho học
sinh khối 9 nhằm tạo hứng thú và nâng cao thành tích chạy bền cho học
sinh THCS.
3.3. Địa điểm nghiên cứu:
3
Trường trung học cơ sở Định Hưng
4. Phương pháp nghiên cứu.
4.1. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Dựa vào dạy thực nghiệm khối 9 năm học 2014 – 2015
4.2. Phương pháp thống kê :
Nghiên cứu qua kết quả học tập năm học 2014 – 2015 và việc thăm dò
cũng như kết quả kiểm tra nội dung Chạy bền đối với học sinh khối 9 năm
học 2015 – 2016.
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp này để xử lý số
liệu và đánh giá hiệu quả của việc ứng dụng các bài tập mà chúng tôi đã lựa
chọn. Bao gồm các công thức toán học thống kê sau:
n
- Công thức tính trung bình cộng:
Trong đó:
X
x
i
i 1
n
X là giá trị trung bình cộng.
xi là giá trị thành tích của từng học sinh
n là số lượng cá thể
n
- Công thức tính phương sai:
- Công thức tính độ lệch chuẩn:
- Công thức tính hệ số biến sai :
2
x
x
i
X
i 1
n 1
n 30
x x2
T
X
A
X
B
A2 B2
nA
nB
Dựa vào bảng giá trị T quan sát để tìm trong bảng T ngưỡng xác suất P
ứng với độ tự do?
+ Nếu T tìm ra > TBảng thì sự khác biệt có ý nghĩa ở ngưỡng xác suất P < 5%
+ Nếu T tìm ra < TBảng thì sự khác biệt không có ý nghĩa ở ngưỡng xác suất
P = 5%.
4.3. Phương pháp bổ trợ:
4.3.1. Phương pháp phân tích tổng hợp.
4.3.2. Phương pháp phỏng vấn
4.3.3. Phương pháp tham khảo tài liệu.
4
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cở sở lý luận:
1.1. Đặc điểm về mặt tâm lý, giải phẩu sinh lý:
- Về mặt tâm lý:
Ở lứa tuổi này quá trình tăng trưởng cơ thể của các em chưa kết thúc. Mặc
dù hoạt động thần kinh cao cấp của các em đã đến lúc phát triển cao nhưng ở
một số em vẫn phần nào hưng phấn mạnh hơn ức chế để có những phản ứng
thiếu kìm hãm cần thiết, do đó để làm rối loạn sự phối hợp vận động tính tình,
trạng thái tâm lý lứa tuổi này cũng hay thay đổi, có lúc rất tích cực, hăng hái,
nhưng có lúc lại buồn chán, tiêu cực. Ngay ở tuổi này các em cũng còn hay đánh
giá quá cao năng lực của mình mới chạy, nhảy bao giờ cũng dốc hết sức ngay,
mới tập bao giờ cũng muốn tập nặng ngay các em thường ít chú ý khởi động đầy
đủ, như thế rất dể tốn sức, hay dể xẩy ra chấn thương và chính điều đó đôi lúc
làm ảnh hưởng không tốt trong tập luyện TDTT.
Vì vậy khi tiến hành công tác giáo dục thể chất cho các em ở lứa tuổi này
không chỉ yêu cầu học sinh thực hiện đúng, nhanh những bài tập dưới sự chỉ dẫn
trực tiếp của giáo viên mà còn phải chú ý uốn nắm, luôn nhắc nhở và chỉ đạo,
định hướng và động viên các em hoàn thành nhiệm vụ, kèm theo khen thưởng
để có sự khuyến khích động viên, nói cách khác phải dạy các em biết cách học,
tự rèn luyện thân thể.
- Về mặt giải phẩu sinh lý:
Lứa tuổi lớp 9 là lứa tuổi đầu của thanh niên, là thời kỳ đạt được sự
trưởng thành về mặt thể lực, nhưng sự phát triển cơ thể còn kém so với sự phát
triển cơ thể của người lớn. Có nghĩa là lứa tuổi này cơ thể các em đang phát
triển mạnh khả năng hoạt động của các cơ quan và bộ phận cơ thể được nâng
cao cụ thể là:
* Hệ vận động:
+ Hệ xương: Ở lứa tuổi này phát triển một cách đột ngột về chiều dài,
chiều dày đàn tính xương giãn. Quá trình cốt hóa xương ở các bộ phận chưa
hoàn tất. Các tổ chức sụn được thay thế bằng mô xương nên cùng với sự phát
triển chiều dài của xương cột sống. Vì vậy mà trong quá trình giảng dạy cần
tránh cho học sinh tập luyện với dụng cụ có trọng lượng quá nặng và các hoạt
động gây chấn động quá mạnh.
+ Hệ cơ: Ở lứa tuổi này cơ của các em phát triển với tốc độ nhanh để đi
đến hoàn thiện, nhưng phát triển không đồng đều và chậm hơn chi dưới. Do vậy
khi cơ hoạt động chóng dẫn đến mệt mỏi. Vì vậy khi tập luyện giáo viên giảng
dạy cần chú ý phát triển cơ bắp cho các em.
* Hệ thần kinh:
Ở lứa tuổi này hệ thống thần kinh trung ương đã khá hoàn thiện hoạt động
phân tích trên vỏ não về tri giác có định hướng sâu sắc hơn khả năng nhận, hiểu
cấu trúc động tác và tái hiện chính xác hoạt vận động đơn lẻ như trước (Chạy,
nhảy, bật, bay và chạm đất khi nhảy ném tại chỗ hoặc có đà) mà chủ yếu từng
bước hoàn thiện ghép những phần đã học trước thành các liên hợp động tác
5
tương đối hoàn chỉnh, ở các điều kiện khác nhau phù hợp với từng đặc điểm của
từng học sinh. Vì vậy khi giảng dạy cần thay đổi nhiều hình thức tập luyện, vận
dụng các hình thức trò chơi, thi đấu để hoàn thành tốt những bài tập đã đề ra.
* Hệ hô hấp:
Ở lứa tuổi này phổi các em phát triển mạnh nhưng chưa đều, khung ngực
còn nhỏ, hẹp nên các em thở nhanh và nông, không có sự ổn định của dung tích
sống, không khí đó chính là nguyên nhân làm cho tần số hô hấp của các em tăng
cao khi hoạt động và gây thiếu ôxi, dẫn đến mệt mỏi.
* Hệ tuần hoàn:
Ở lứa tuổi này hệ tuần hoàn đang trên đà phát triển mạnh để kịp thời phát
triển toàn thân, tim lớn hơn, khả năng co bóp của cơ tim phát triển, do đó nâng
cao khá rõ lưu lượng máu/phút mạch lúc này bình thường chậm hơn (tiết kiệm
hơn) nhưng khi vận động căng thẳng thì tần số nhanh hơn, phản ứng của tim đối
với các lượng vận động thể lực đã khá chính xác, tim trở nên dẻo dai hơn.
Từ những đặc điểm tâm lý đó để lựa chọn một số bài tập bổ trợ trên căn
bản khối lượng cường độ phù hợp với lứa tuổi học sinh đặc biệt khi áp dụng các
bài tập bổ trợ cần căn cứ vào đặc điểm tình hình tiếp thu kỹ thuật và đặc điểm
thể lực phù hợp với tâm sinh lý của học sinh để cho quá trình giảng dạy đạt kết
quả cao, giúp cho các em học sinh trở thành con người phát triển toàn diện về
thể chất, tinh thần.
1.2. Cơ sở thực tiễn:
Trên thực tế Chạy bền là một môn học đơn điệu gây mệt mỏi và dễ nhàm
chán. Để đạt thành tích cao trong Chạy bền ngoài việc có kỹ thuật, có mối quan
hệ giữa độ dài và tần số bước chạy phù hợp theo nguyên lý kỹ thuật, người chạy
cần có thể lực nhất định để duy trì được kỹ thuật cần thiết. Chính vì vậy người
Chạy bền cần có sức bền chung và sức bền chuyên môn tốt. Sức bền chung giúp
cho người tập hoàn thành được nhiệm vụ của từng buổi tập trong quá trình tập
luyện cũng như thi đấu, nó cũng là cơ sở để phát triển sức bền tốc độ. Sức bền
tốc độ cho phép người chạy có tốc độ trung bình cao trên toàn cự ly. Ở Chạy bền
yếu tố chủ yếu gây mệt mỏi, làm giảm thành tích chạy là những biến đổi của
môi trường bên trong cơ thể như; tăng lượng axit lactic và đioxi cacbon trong
máu... Quá trình luyện tập chính là quá trình rèn luyện, phát triển nhiều mặt của
người tập, trong đó có việc giúp cho cơ thể quen dần và chịu đựng được mệt
mỏi, dễ dàng vượt qua trạng thái cực điểm duy trì được tốc độ trung bình cao
hoặc thực hiện được các phương án chiến thuật trong thi đấu.
Do phải chạy trong thời gian dài, năng lượng cho cơ thể hoạt động chỉ tiêu
hao mà không bù đắp đầy đủ, kịp thời cho nên yếu tốt tiết kiệm năng lượng
trong khi chạy cũng giúp cho học sinh có thành tích chạy tốt. Cụ thể hơn nếu kỹ
thuật chạy hợp lý, được củng cố thành tự động hoá “Kỹ xảo” sẽ giúp cho học
sinh chạy đạt tốc độ cần thiết nhưng sự tiêu hao năng lượng của cơ thể lại ít, do
vậy học sinh đủ sức chạy hết cự lý với tốc độ cao, thậm chí còn có thể tăng tốc
khi về đích. Trong đó yếu tố thở sâu, thở tích cực để cung cấp oxi, đặc biệt là
luân phiên dùng sức và thả lỏng cơ bắp (nhất là các cơ quan tham gia các động
6
tác đạp sau và chống trước) cũng là cách để duy trì khả năng chạy với tốc độ cao
trên toàn cự ly. Ngoài ra tập luyện Chạy bền thường xuyên còn làm cho người
chạy có cảm giác tốc độ tốt hơn, phân phối sức hợp lý hơn. Việc không chủ
động được tốc độ chạy sẽ dẫn tới không đủ sức về đích hoặc về đích với thành
tích thấp trong khi cơ thể vẫn dồi dào sức lực.
2. Thực trạng:
Qua thực tế giảng dạy gần 15 năm tại trường THCS bản thân tôi nhận
thấy muốn tổ chức tốt một tiết học không phải là đơn giản. Ở chương trình lớp 9
nội dung chạy bền trong phân phối có nhiều tiết sử dụng trò chơi (do GV chọn)
nhưng hầu hết giáo viên chưa chú trọng quan tâm lựa chọn trò chơi, các trò chơi
thường lặp lại nhiều lần gây sự nhàm chán. Vì vậy nó đòi hỏi người giáo viên
phải nỗ lực rất nhiều, phải thường xuyên học tập, tự bồi dưỡng nâng cao trình
độ, nghiệp vụ đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi của việc đổi mới PPDH, nâng cao
chất lượng dạy - học bộ môn. Phải tăng cường dự giờ, trao đổi kinh nghiệm,
tham khảo các bài giảng của đồng nghiệp để rút kinh nghiệm nâng cao nghiệp
vụ sư phạm. Hơn nữa điều kiện về sân bãi tập luyện, trang thiết bị dụng cụ cần
thiếu rất nhiều nên rất khó khăn cho việc đưa trò chơi vào các tiết học.
Trong qúa trình lên lớp, vẫn còn giáo viên thực hiện các bước lên lớp một
cách cứng nhắc, tuần tự đi từ bước này sang bước khác, làm cho giờ học nhàm
chán, nặng nề. Chưa kết hợp và giải quyết hài hòa giữa các bước lên lớp.
Khâu tổ chức chưa linh hoạt, nên trong giờ học mất nhiều thời gian tập
hợp cũng như luân chuyển đội hình làm ảnh hưỏng không nhỏ đến thời gian
luyện tập của học sinh.
Hơn nữa một bộ phận nhỏ học sinh chưa thấy rõ tầm quan trọng của việc
học môn thể dục ( nội dung Chạy bền). Với những hiện trạng trên, làm cho chất
lượng giờ dạy chưa thật đạt yêu cầu. Thực tế và mục tiêu cần có một khoảng
cách cần được khắc phục nhằm thực hiện có chất lượng mục tiêu rèn luyện sức
bền và rèn luyện thể lực, góp phần nâng cao sức khỏe cho học sinh.
Tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát việc tập luyện chạy bền của nhà trường
để thu thập các thông tin và đã tiến hành phỏng vấn bằng phiếu các em học sinh
khối 9.
Câu hỏi 1: Theo em có cần thiết phải tập luyện thể dục nói chung và
luyện tập chạy bền nói riêng hay không?
- Ý kiến trả lời không cần thiết chiếm tỷ lệ 68,18%.
- Ý kiến trả lời cần thiết chiếm tỷ lệ 31,82%.
Như vậy, đại đa số học sinh đều nhận thức không đúng về tác dụng của
tập luyện thể dục nói chung và tập luyện Chạy bền nói riêng. Tuy nhiên, cũng có
một số học sinh có nhận thức đầy đủ, cho rằng việc tập luyện thể dục nói chung
và luyện tập chạy bền nói riêng là cần thiết bởi vì nó nâng cao sức khỏe, sự dẻo
dai và sức chống chịu tốt hơn.
Câu hỏi 2: Theo em có cần thiết phải thay đổi trò chơi phù hợp, lôi cuốn,
hấp dẫn hay không hay chỉ cần một vài trò chơi, chơi đi chơi lại là đủ?
Ý kiến trả lời như sau:
7
Số em học sinh cho rằng cần thiết phải thay đổi trò chơi phù hợp, lôi
cuốn, hấp dẫn chiếm tỷ lệ 92,37%.
Số em học sinh cho rằng không cần thiết phải thay đổi trò chơi chỉ cần
một vài trò chơi, chơi đi chơi lại là đủ chiếm tỷ lệ 8,63%.
Như vậy, có thể bước đầu kết luận được rằng số ý kiến cho rằng cần thiết
phải thay đổi trò chơi phù hợp, lôi cuốn, hấp dẫn`chiếm tỷ lệ rất cao. Điều đó
chứng tỏ hướng đi của đề tài này là hợp lý. Vì vậy bản thân tôi cũng như các
giáo viên phải nghiên cứu, tìm tòi nhiều trò chơi phù hợp với thực trạng hiện
nay ở trường học của mình.
Câu hỏi 3: Vì sao em không thích học nội dung Chạy bền?
Đối với câu hỏi này tôi đã chuẩn bị trước bốn phương án trả lời, để các
em có thể khoanh tròn vào những ý kiến phù hợp với suy nghĩ của mình.
Phương án 1: Do phải hoạt động trên một đoạn đường dài, khả năng
chống chịu mệt mỏi của cơ thể cao, lượng vận động qúa lớn.
Phương án 2: Do giáo viên không kiểm tra xem xét tình trạng sức khỏe
các em cũng như tâm sinh lý của học sinh nên hay cáu gắt, phạt các em không
thực hiện đủ nội dung mà giáo viên đề ra.
Phương án 3: Các em ngại tập luyện chạy bền và chạy bền là nội dung tập
luyện tương đối đơn điệu, qúa trình tập luyện nhất thiết bản thân phải nỗ lực và
cầm cự, tính kiên nhẫn, bền bỉ, dẻo dai.
Phương án 4: Do sức tập không đảm bảo
* Kết quả thu được như sau:
Số em chọn cả bốn ý trên chiếm tỷ lệ 86,55%.
Ý kiến như vậy là hoàn toàn đúng đắn, bởi vì nội dung Chạy bền được áp
dụng thời gian dài. Về mặt tâm lý học, việc tập luyện bài tập đơn điệu, ít đổi mới
sẽ tạo nên tâm lý xấu, làm học sinh thiếu hứng thú tập luyện và dẫn đến thiếu tập
luyện tích cực. Việc tập luyện không tích cực chắc chắn sẽ ảnh hưởng xấu tới
việc phát triển thể chất, làm giảm sút ý thức tổ chức kỷ luật và ý thức đối với
việc rèn luyện thân thể.
Ngoài kết quả phỏng vấn các em qua 3 câu hỏi trên. Còn có 24,15% các
em cho rằng ở trường còn thiếu những điều kiện đảm bảo cho việc tập luyện,
chủ yếu là thiếu khoảng không gian, cơ sở vật chất, sân tập, ý kiến trả lời trên
đây cũng hết sức khách quan, bởi vì hiện tại diện tích sân trường không đủ đảm
bảo để học sinh luyện tập Chạy bền, các dụng cụ phục vụ dạy và tổ chức trò
chơi hầu như không có.
Từ kết quả phỏng vấn, có thể rút ra một số nhận định sơ bộ như sau:
Qúa trình dạy học nội dung Chạy bền trước đây là chưa phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lý của các em, chưa tạo được sự hứng thú trong luyện tập do giáo
viên chưa thật sự quan tâm tới tâm sinh lý của các em, chưa thật sự gần gũi tâm
sự trò chuyện cởi mở. Nguyên nhân của việc tập luyện chạy bền chưa tốt, chủ
yếu là do bài tập, trò chơi còn đơn điệu, ít được thay đổi. Nhận thức của học
sinh đối với việc tập luyện chạy bền cũng chưa đầy đủ. Còn thiếu những điều
8
kiện về cơ sở vật chất cần thiết bảo đảm thực hiện nội dung chạy bền có chất
lượng.
3. Các giải pháp:
Nghiên cứu lựa chọn trò chơi vận động phù hợp nhằm phát triển sức bền
cho học sinh.
Trước hết ta cần phải hiểu sức bền là gì ? Nó có tác dụng như thế nào đối
với người học?.
Sức bền: là khả năng của cơ thể chống lại mệt mỏi khi học tập, lao động
hay tập luyện thể dục thể thao kéo dài.
* Có hai loại sức bền: Sức bền chung và sức bền chuyên môn.
- Sức bền chung là khả năng của cơ thể khi thực hiện các công việc nói chung
trong một thời gian dài.
- Sức bền chuyên môn là khả năng cơ thể thực hiện chuyên sâu một hoạt động
lao động hay bài tập thể thao trong một thời gian dài.
* Tác dụng của tập luyện sức bền nói riêng hay tập luyện thể dục thể thao nói
chung.
- Tập luyện Thể dục thể thao thường xuyên, đúng phương pháp khoa học sẽ làm
cho cơ phát triển thể hiện ở sức nhanh, sức mạnh, sức bền. độ đàn hồi và linh
hoạt của cơ tăng lên.
- Tập luyện Thể dục thể thao làm cho xương tiếp thu máu được đầy đủ hơn, các
tế bào xương phát triển nhanh và trẻ lâu, xương dày lên cứng và dai hơn, khả
năng chống đỡ tăng lên.
- Tập luyện Thể dục thể thao làm cho cơ xương phát triển tạo ra vẻ đẹp và dáng
đi khỏe mạnh của con người.
- Tập luyện Thể dục thể thao sẽ làm cho tim khỏe lên, sự vận chuyển máu của hệ
mạch đi nuôi cơ thể và thải các chất cặn bả ra ngoài được thực hiện nhanh hơn.
Nhờ vậy khí huyết được lưu thông, người tập ăn ngon, ngủ ngon, học tập đạt
hiệu quả cao hơn.
- Nhờ tập luyện Thể dục thể thao thường xuyên lồng ngực và phổi nở ra, các cơ
làm chức năng hô hấp được khỏe và độ đàn hồi tăng.
Muốn tạo sự hứng thú cho học sinh học tập tích cực nội dung Chạy
bền thì mỗi giáo viên cần xác định được tâm lý lứa tuổi của các em. Các
phương pháp dạy học môn Thể dục cũng như các môn học khác bao gồm
nhiều phương pháp khác nhau, phương pháp trò chơi phù hợp lứa tuổi này
và các em thích được vui đùa, thích được khen trước bạn bè. Vì vậy việc sử
dụng trò chơi vận động vào các giờ học chạy bền là rất phù hợp vấn đề ở
đây là chọn trò chơi nào và phương pháp tổ chức ra sao.
Thực tế cho thấy nhiều giáo viên chưa thực sự quan tâm vấn đề đưa
trò chơi phò hợp vào tiết dạy. Quan điểm như vậy là sai lầm vì như vậy
không tạo được sự sôi động trong giờ học, chưa phát huy được tính tích
9
cực, tự giác của học sinh dẫn đến học sinh chán nản mệt mỏi, học chiếu lệ,
đối phó.
Từ lâu con người đả biết sử dụng trò chơi như là một trong những phương
tiện, phương pháp giáo dục thể chất. Trong giáo dục thể chất, phương pháp trò
chơi là sử dụng các trò chơi vận động hoặc những bài tập được soạn dưới dạng
trò chơi để dạy cho học sinh. Luật lệ chơi, nhiều tình tiết của trò chơi được các
em rất ưa thích. Ví dụ trò chơi “ Mèo đuổi chuột và chồn đuổi gà” thực chất là
một bài tập về chạy được soạn dưới dạng hai con vật chạy đuổi nhau, hay trò
chơi “Chạy tiếp sức chuyển vật” cũng là những bài tập về chạy nhưng được
soạn dưới hình thức trò chơi có luật lệ. Nếu chỉ tập chạy không, học sinh sẽ
không có sự cố gắng cao nhưng khi được học dưới hình thức trò chơi thì em nào
cũng tích cực, năng động lên nhiều. Ngoài ra khi tham gia học sinh thường bộc
lộ những ưu và nhược điểm cũng như khả năng của mỗi cá nhân về mức độ tính
thật thà, tính trung thực, tính kỹ luật, tính đồng đội, khả năng sự tháo vát nhanh
nhẹn, sự sáng tạo…. Đó là những điều rất cần thiết đối với các thầy cô giáo
trong giáo dục nói chung và giáo viên Thể dục nói riêng. Phương pháp trò chơi
khai thác được tính tích cực, sự sáng tạo, mức độ tự giác tham gia vào công việc
của mỗi thành viên rất cao, do đó dạy và học rất có hiệu quả.
Sau đây tôi xin nêu ra quy trình tổ chức trò chơi.
Bước 1: Giáo viên cần căn cứ vào mục tiêu bài dạy để lựa chọn trò chơi.
Bước 2: Nêu tên, mục đích trò chơi, phổ biến luật chơi và cách chơi.
Bước 3: Phân chia đội chơi và cho học sinh chơi thử.
Bước 4: Tổ chức cho học sinh chơi, công bố kết quả sau mỗi hiệp chơi.
Bước 5: Nhận xét và kết luận đội thắng cuộc.
Các trò chơi được tôi đưa vào các tiết dạy cụ thể như sau:
Tiết 8 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Mèo đuổi chuột"
Tiết 11 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Người thừa thứ 3"
Tiết 13 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Chạy tiếp sức chuyển vật"
Tiết 15 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Ù"
Tiết 21 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Gánh nước"
Tiết 24 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Tàu hỏa chạy"
Tiết 29 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Rồng rắn"
Tiết 38 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Bóng chuyền 6"
Tiết 39 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Truyền tin thắng trận"
Tiết 41 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Đuổi bắt bóng"
Tiết 44 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Hai người ba chân"
Tiết 45 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Cứu thương"
Tiết 50 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Chồn đuổi gà"
10
Tiết
Tiết
Tiết
Tiết
51 : Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Kết bạn"
53: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Chạy vòng số 8”
55: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Chạy díc dắc ”
58: Chạy bền ( trò chơi do GV chọn) " Chạy theo tín hiệu ”
Các trò chơi này được tôi tìm tòi, lựa chọn, cải biên nhằm tạo ra các
tình huống mới mẻ mà không mất đi mục đích cơ bản là phát triển sức bền
cho học sinh lớp 9.
4. Những kết quả đạt được:
So sánh kết quả kiểm tra ở tiết 65 với kết quả năm học 2014-2015 tôi
nhận thấy rằng: trong năm học 2015-2016 khi vận dụng linh hoạt các trò chơi
vận động vào các tiết học chạy bền, chất lượng dạy học nội dung chạy bền bộ
môn Thể dục ở trường THCS Định Hưng được nâng cao rõ rệt, học sinh đam
mê, rất hứng thú khi học nội dung chạy bền hơn. Thành tích được nâng lên rõ rệt
Bảng so sánh kết quả: Năm học 2014 – 2015 và Năm học 2015 – 2016
* Chất lượng đại trà.
Năm học 2014 – 2015 (29em) Năm học 2015 – 2016( 29 em)
Điểm
Số lượng
Tỷ lệ %
Số lượng
Tỷ lệ %
Đạt
24
82.7 %
28
96.5 %
Chưa đạt
5
17.3 %
1
3.5%
*Chất Lượng mũi nhọn:
Năm học 2014 – 2015 Chỉ đạt 1 giải kk học sinh giỏi cấp huyện nội dung
chạy 800m(Nữ)
Năm học 2015 – 2016. Đã đạt giải 3 giải HSG cấp huyện:
1 ba 800m
1 khuyến khích 1500m
1 khuyến khích 800m
Năm học 2016 – 2017. Đã đạt giải 4 giải HSG cấp huyện :
1 nhì 1500m
1 khuyến khích 1500m
2 khuyến khích 800m
Qua bảng thống kê cũng như qúa trình dạy Thể dục ở trường THCS và
qua trao đổi và thảo luận với giáo viên bộ môn và các em học sinh trong nhà
trường tôi đã đi đến thống nhất và đi đến kết luận việc áp dụng đề tài này là rất
phù hợp và mang lại hiệu quả.
11
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Với việc sử dụng trò chơi vận động vào phục vụ giảng dạy nội dung
chạy bền trong chương trình môn Thể dục 9, nhằm mục đích phát triển sức
bền cho các em đã đem lại hiệu quả rõ rệt. Bản thân nhận thấy học sinh có
sự tiến bộ đáng kể về mặt thể lực. Thông qua nội dung kiểm tra chạy bền ở
tiết 65 có thể thấy răng các em đa số luôn đạt thành tích khá trở lên, hơn
nữa qua thăm dò các em học sinh có thể thấy rằng các em không còn cảm
giác sợ học chạy bền nữa, các em có hứng thú học môn thể dục hơn, các
em có ý thức cao, tiết học vui tươi, sinh động. Trong giờ học thể dục đã có
nhiều em tích cực tham gia, khi tổ chức trò chơi các em đoàn kết hơn,
quyết tâm hơn để dành chiến thắng cho đội mình, các em hồ hởi động viên
nhau, cổ vũ, hò reo làm cho tiết học vui tươi hơn hẳn. Điều đó chứng tỏ
quá trình đi sâu nghiên cứu đề tài này là hợp lý và phù hợp với lứa tuổi các
em lớp 9.
Với mục đích đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa
người học thì việc sử dụng trò chơi vận động mang đầy đủ các đặc điểm,
tính chất giúp các em phát huy hết khả năng vận động trong học chạy bền.
Chúng ta có thể sử dụng trò chơi vào các tiết học chạy bền.
Qua giảng dạy bộ môn và đi sâu nghiên cứu đề tài “Tạo hứng thú trong
học nội dung chạy bền thông qua các trò chơi vận động” tôi xin nêu lên những
kinh nghiệm sau:
+ Để đề tài này thật sự có hiệu quả và đi sâu vào các trường học thì các
giáo viên cần phải tìm tòi thêm các trò chơi mới lạ phù hợp với cơ sở vật
chất của trường mình và cần phải chuẩn bị phương tiện phục vụ trò chơi
chu đáo có như vậy mới hấp dẫn lôi cuốn các em học sinh tham gia chơi.
Không nên chơi đi chơi lại một trò chơi hoặc đưa các trò chơi không hấp
dẫn mà cần chú trọng tìm tòi trò chơi mới lạ hấp dẫn.
+ Muốn giảng dạy có hiệu quả, chất lượng giảng dạy Thể dục cơ bản cho học
sinh THCS nói riêng ở các nội dung khác nhau và các đối tượng khác nói chung,
giáo viên phải không ngừng đầu tư trí tuệ, công sức vào việc đổi mới phương
pháp dạy học, lấy học sinh làm trung tâm của quá trình dạy học, phát huy vai
trò chủ động, sáng tạo của học sinh trong tự học, tự tìm tòi.
+ Giáo viên phải nắm chắc nội dung phân phối chương trình, đối tượng giảng
dạy, phương pháp bộ môn.
+ Không ngừng nâng cao ý thức trách nhiệm, thường xuyên học tập, tự bồi
dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ để đáp ứng mọi yêu cầu đòi hỏi của việc đổi
mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn. Cần dự giờ,
12
trao đổi kinh nghiệm, tham khảo các tài liệu chuyên ngành để rút kinh nghiệm,
nâng cao nghiệp vụ sư phạm.
+ Thường xuyên làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục.
+ Thực sự yêu thích bộ môn dạy học của mình, nghiêm túc và gần gủi với học
sinh.
+ Để đạt được kết quả cao trong nội dung trò chơi phát triển sức bền người giáo
viên cần tìm tòi, sưu tầm nhiều trò chơi mới là hấp dẫn lôi cuốn học sinh.
+ Cần phát huy tác dụng của các “hạt nhân” trong mỗi lớp học, giúp cho các em
có thói quen luyện tập theo nhóm – đội chơi.
+ Tạo ra không khí vui tươi trong giờ học, làm thay đổi trạng thái lao động,
đồng thời giáo dục cho các em tính tổ chức kỹ luật cao, tác phong nhanh nhẹn
hoạt bát, tinh thần tập thể. Từ đó giúp các em yêu trường, ham học, lôi cuốn các
em hăng say nỗ lực hơn trong các môn học văn hóa khác và phát triển toàn diện
tố chất thể lực.
+ Đối với nhà trường cần tạo mọi điều kiện để đảm bảo trang thiết bị, sân bãi,
môi trường, bóng mát. Đây cũng là điều kiện không thể thiếu được trong qúa
trình rèn luyện thể chất học sinh trong nhà trường. Tham mưu tốt với Ban giám
hiệu, để tạo cơ sở vật chất tối thiểu phục vụ cho việc dạy học môn Thể dục nói
chung và trò chơi phát triển sức bền nói riêng.
Thể dục là một bộ môn đặc thù, nó vừa rèn luyện thể lực tăng cường sức
khỏe vừa trau dồi những phẩm chất đạo đức tốt đẹp, nhằm tạo những lớp người
mới phù hợp với sự phát triển của xã hội. Vì thế trong quá trình giảng dạy, giáo
viên cần vận dụng một số giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả dạy học
môn Thể dục. Qua đó giáo dục các em có tính sáng tạo, chủ động, tự giác và ý
chí luôn rèn luyện thân thể khỏe mạnh.
Trong giảng dạy người thầy, phải là người yêu nghề. Phải có năng lực
sáng tạo luôn có ý thức đổi mới có phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng,
tạo một giờ học hứng thú, thuận lợi có lượng vận động thích hợp, hiệu quả.
Những suy nghĩ trên đây của bản thân tôi chỉ là một khía cạnh và ở mức
độ nhất định với mong muốn đóng góp thêm tiếng nói của mình vào việc lựa
chọn một số trò chơi vận động phù hợp với học sinh khối 9 nhằm tạo hứng thú
trong học nội dung chạy bền để các giáo viên khác tham khảo và áp dụng. Trên
đây chỉ là những ý kiến chủ quan của bản thân tôi, nên đề tài chắc chắn cũng có
nhiều thiếu sót hoặc có nhiều vấn đề chưa đề cập đến do vậy tôi kính mong các
đồng nghiệp, các cấp quản lí giáo dục tham khảo, góp ý để cùng nhau xây dựng,
lựa chọn các trò chơi vận động phù hợp nhằm tạo hứng thú trong học nội dung
chạy bền để giảng dạy nội dung chạy bền ngày một tốt hơn. Và đặc biệt là đưa
vào áp dụng rộng rãi trong các trường THCS.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Đề tài này có tác dụng rất lớn trong việc giảng dạy nội dung Chạy bền cho
học sinh khối 9 do đó để đề tài được hoàn thiện và áp dụng rộng rãi tôi rất mong
nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của đồng nghiệp.
13
Tôi mong mọi người giáo viên giảng dạy thể dục hãy xem đây như là cẩm
nang, tài liệu tham khảo thiết thực khi giảng dạy trò chơi bổ trợ sức bền cho học
sinh.
Các cấp có thẩm quyền cũng như Ban giám hiệu các trường cần quan tâm
nhiều hơn nữa bộ môn Thể dục nói chung và nội dung trò chơi bổ trợ Chạy bền
nói riêng để luôn có những thế hệ học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt.
Xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Yên Định, ngày 08 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
(Tác giả ký và ghi rõ họ tên)
Dương Văn Tuấn
14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trong qúa trình nghiên cứu tôi có sử dụng các tài liệu tham khảo sau.
1, Bác Hồ với Thể thao Việt Nam
- Tác giả: PTS Lê Bửu
- Nhà xuất bản Thể dục Thể thao Hà Nội
2, Lý luận và phương pháp Thể dục Thể thao
- Tác giả: Nguyễn Toàn - Đăng Danh Tốn
- Nhà xuất bản Thể dục Thể thao Hà Nội
3, Tâm lý học lứa tuổi
- Tác giả: Lê Ngọc Lan- Lê Văn Hồn - Nguyễn Văn Hưng
- Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội
4, Sách giáo viên Thể dục 6,7,8,9
- Tác giả: Trần Đồng Lâm – Vũ Học Hải – Vũ Bích Huệ
- Nhà xuất bản giáo dục
5, Trò chơi thi đua ngoài trời ( tập 2)
- Tác giả: Trần Phiên – Đài Trang – Duy Vũ
- Nhà xuất bản trẻ
6, Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kỳ III Môn Thể
dục (quyển 1 và quyển 2)
- Tác giả: Đinh Mạnh Cường - Phạm Vĩnh Thông – Vũ Thị Thư
- Nhà xuất bản giáo dục
7, Báo Thể thao Việt Nam
8, Các tài liệu trên mạng Internet.
15
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Dương Văn Tuấn
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THCS Định Hưng
TT
Tên đề tài SKKN
1.
" Nghiên cứu một số bài tập nhằm
nâng cao hiệu quả xuất phát thấp
cho học sinh mũi nhọn ".
“Tìm hiểu những sai lầm thường
mắc và đề xuất một số bài tập
nhằm nâng cao hiệu quả khi học
giai đoạn chạy đà trong môn học
ném bóng 150 gram cho học sinh
lứa tuổi 14-15 trường THCS".
"Nghiên cứu ứng dụng các bài tập
nhảy dây và bật xa tại chỗ để nâng
cao thể lực cho học sinh khối 7".
“Nghiên cứu và ứng dụng một số
bài tập nhằm phát triển sức mạnh
tốc độ ở nội dung chạy 60m cho
nam học sinh khối 9”
“Một số biện pháp giáo dục học
sinh cá biệt (chưa ngoan) có hiệu
quả trong công tác chủ nhiệm”.
“Đưa một số trò chơi vào giảng
dạy chạy cư ly ngắn để nâng cao
thành tích chạy 100m”
"Đưa một số bài tập bổ trợ vào
giảng dạy kỹ thuật phát cầu, tâng
cầu để nâng cao hiệu quả môn học
đá cầu cho học sinh THCS ".
"Đưa một số phương pháp tập
luyện và bài tập bổ trợ vào giảng
dạy để nâng cao thành tích nội
dung nhảy xa “kiểu ngồi”.
2.
3.
4.
5.
6.
7
8
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
Năm học
đánh giá
xếp loại
Phòng
GD&ĐT
C
2006-2007
Phòng
GD&ĐT
B
2007-2008
Phòng
GD&ĐT
B
2010-2011
Phòng
GD&ĐT
A
2011-2012
Phòng
GD&ĐT
C
2012-2013
Phòng
GD&ĐT
A
2013-2014
Phòng
GD&ĐT
A
2014-2015
Phòng
GD&ĐT
A
2015-2016
16
17