Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số biện pháp tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp ở trung tâm GDTX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.66 KB, 22 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, dưới tác động của quy luật kinh tế thị trường
với xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ, ngoài mặt tích cực, sự ảnh hưởng tiêu cực của
xã hội cũng rất đáng lo ngại. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống có những thay
đổi, tính phức tạp của cơ chế mở tác động không nhỏ đến quá trình giáo dục ở
nhà trường. Một bộ phận học sinh có lối sống lu mờ, thực dụng, chạy theo mốt
sống hiện đại, tình trạng bạo lực học đường có chiều hướng gia tăng... Trước
những yêu cầu bức xúc đó, giáo viên chủ nhiệm đóng một vai trò không nhỏ
trong quá trình giáo dục học sinh. Giáo viên chủ nhiệm trong quá trình đảm
nhiệm trọng trách này đều tích luỹ cho mình một số kinh nghiệm riêng. Nhưng
làm sao để đáp ứng tốt vai trò một giáo viên chủ nhiệm là vấn đề không hề cũ.
Kéo theo, những kinh nghiệm mà giáo viên chủ nhiệm tích luỹ được cần được
quan tâm, chia sẻ, bồi dưỡng thêm nhằm mục đích làm tốt công tác chủ nhiệm,
làm tốt nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân đã tin tưởng giao phó là giáo dục, rèn
luyện các em ngày càng tốt hơn, giúp các em trở thành những con người lao
động “vừa hồng, vừa chuyên”, sống hoàn thiện, có ích trong tương lai.
Ở nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp là cầu nối giữa Ban giám đốc, giữa
các tổ chức đoàn thể trong nhà trường, giữa các giáo viên bộ môn với tập thể lớp
chủ nhiệm. Và là nhân vật chủ chốt, là linh hồn của lớp, là người tổ chức, cổ vũ
tư tưởng cho học sinh. Là người cùng với phụ huynh học sinh dìu dắt giáo dục
các em phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, công dân tốt cho xã
hội. Có thể khẳng định công tác chủ nhiệm không phải là công việc đơn giản.
Nó luôn là vấn đề trăn trở của hầu hết giáo viên, đặc biệt là giáo viên Trung tâm
GDTX.
Chính vì những lẽ đó, tôi đã dành khá nhiều thời gian, tâm sức cho công
tác chủ nhiệm lớp mình. Hôm nay tôi mạnh dạn trình bày đề tài: “Một số biện
pháp tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp ở Trung tâm GDTX” đúc kết
kinh nghiệm từ quá trình chủ nhiệm lớp của bản thân trong các năm học vừa
qua, đặc biệt là năm 2015 – 2016. Rất mong sự góp ý chân thành của cấp trên
cùng quý bạn đồng nghiệp để tôi ngày càng có thêm nhiều kinh nghiệm qúy báu


trong công tác chủ nhiệm lớp.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của SKKN chính là cái đích của công tác chủ nhiệm cần đạt tới
cụ thể, mục đích phải định rõ được các công việc và mức độ hoàn thành của
GVCN về nề nếp, học tập của học sinh trong một năm học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.3.1. Trong phạm vi của SKKN, chúng tôi không có tham vọng đi sâu giải
quyết mọi vấn đề về Công tác chủ nhiệm lớp. Bởi đây là vấn đề khó khăn và
1


phức tạp, được mở ra nhiều hướng khác nhau. Do vậy, phạm vi mà đề tài hướng
tới là: Đề xuất một số biện pháp tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp ở Trung
tâm GDTX
1.3.2. Với đề tài này, tôi đã chọn lớp 11B mà tôi đang trực tiếp chủ nhiệm
để thực nghiệm và lớp đối chứng là lớp 10B là lớp chủ nhiệm năm học 2014 –
2015.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp quan sát
Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của học viên để tìm ra giải
pháp tối ưu nhất.
1.4.2. Phương pháp điều tra
Trò chuyện, trao đổi với các giáo viên bộ môn, học sinh, bạn bè của các
em, phụ huynh … để hiểu rõ nguyên nhân vì sao các em ngại học.
1.4.3. Phương pháp thử nghiệm
Thử áp dụng các giải pháp vào công tác giáo dục đạo đức, hình thành ý
thức học tập của học viên.
1.4.4. Phương pháp đối chứng
Nhằm đối chứng kết quả rèn luyện đạo đức, học tập của học viên trong
các năm học.

2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Các phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của con người nói chung, học
sinh nói riêng được hình thành và phát triển trong các môi trường: gia đình, nhà
trường và xã hội. Trong đó nhà trường được xem là trọng tâm, chủ động, định
hướng trong việc phối hợp với gia đình và xã hội. Trong nhà trường, công tác
chủ nhiệm quyết định chất lượng dạy và học của giáo viên và học sinh. Làm tốt
công tác chủ nhiệm tức là người giáo viên đã hoàn thành việc tổ chức giáo dục,
rèn luyện đạo đức cho học sinh. Đặc biệt ở Trung tâm GDTX, vai trò của người
giáo viên chủ nhiệm hết sức quan trọng: là sự phối hợp nhịp nhàng, có hiệu quả
với gia đình học sinh, với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường và ngoài xã hội
để có phương pháp giáo dục học sinh một cách tốt nhất, thích hợp nhất.
Trước hết, chúng ta sẽ nghiên cứu vị trí, vai trò và nhiệm vụ của người
giáo viên chủ nhiệm (GVCN) ở Trung tâm GDTX:
- Vị trí, vai trò của GVCN lớp ở TTGDTX:
+ Giáo viên chủ nhiệm lớp thay mặt Giám đốc quản lí và tổ chức học tập, rèn
luyện cho học viên đạt mục tiêu đào tạo của Nhà trường. GVCN vừa đóng vai
trò quản lí hành chính Nhà nước, vừa đóng vai trò người thầy, người anh trong
gia đình, là người tổ chức, tư vấn, đồng thời còn đóng vai trò người đại diện cho
quyền lợi của tập thể lớp.
2


+ GVCN là người đại diện cho nhà trường quản lí học viên, giáo dục học
viên, quyết định kết quả học tập của học viên, là người tổ chức, giáo dục, rèn
luyện đạo đức hành vi học viên; là cầu nối giữa học viên với nhà trường, nhà
trường với phụ huynh.
- Nhiệm vụ của GVCN lớp:
+ GVCN là những người có tinh thần trách nhiệm trong công tác, nhiệt tình
với nhiệm vụ được giao.

+ GVCN phải nắm vững quy chế, quy định của Nhà trường
+ GVCN phải cùng với giáo viên bộ môn và các lực lượng giáo dục khác
chịu trách nhiệm chính trong việc hình thành nhân cách cho học sinh.
+ GVCN phải nắm vững danh sách, tình hình học viên lớp mình được giao
như: lí lịch, hoàn cảnh gia đình, sức khỏe và điều kiện học tập.
+ GVCN phải hướng dẫn cho học viên xây dựng kế hoạch học tập, biết lựa
chọn cách học sao cho phù hợp với năng lực, sở trường của mình.
+ GVCN phải cố vấn cho học sinh xây dựng lớp học thành một đơn vị tập
thể mang tính chất giáo dục toàn diện, phát huy khả năng tự giác tự quản của
học sinh.
+ Tham gia sinh hoạt 15 phút đầu giờ, sinh hoạt cuối tuần, theo dõi, đánh
giá toàn diện về học tập, rèn luyện của học viên cuối mỗi tháng, kỳ, năm học.
+ GVCN phải chủ động trong việc phối kết hợp với các đoàn thể, các lực
lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.
- Hơn nữa, trong giai đoạn mới thì :
+ GVCN lớp thì phải có lý tưởng nghề nghiệp đúng đắn, có niềm tin nghề
nghiệp.
+ GVCN phải là người có chuyên môn vững vàng, có “tay nghề” cao.
+ GVCN phải là người biết hướng nghiệp cho học viên trong quá trình học
tập. Biết tư vấn cho học viên những vấn đề về tâm lí, học tập, quan hệ xã hội và
điều quan trọng biết uốn nắn học viên hình thành ý thức học tập.
+ GVCN là những người có nhân cách đáp ứng yêu cầu về mặt đạo đức
công dân, thái độ nghề nghiệp, lối sống phù hợp để hoàn thành tốt các vai trò
của người GVCN lớp tại Trung tâm GDTX.
+ GVCN nói riêng và giáo viên nói chung phải thực sự mẫu mực, là tấm
gương tự học và sáng tạo cho học sinh noi theo. Vì vậy, lời nói gọn, rõ ràng, dứt
khoát, tác phong đúng mực, nhìn thẳng vào học viên, biết lắng nghe học viên nói
với một thái độ lạc quan và truyền cho học viên niềm tin tích cực, và phải biết
thông cảm, chia sẻ những khó khăn của các em, phải đóng vai trò là người anh,
người chị mà các em tin tưởng, nhờ cậy. Qua đó, giúp các em biết sống nhẫn

nại, giàu lòng vị tha, biết vươn lên trong học tập.
+ Người GVCN cần phải biết đối xử sư phạm khéo léo và có uy tín đối với
học sinh, phụ huynh học sinh cũng như các tổ chức đoàn thể trong nhà trường.
3


Từ những cơ sở lí luận trên, chúng ta thấy rằng trong giai đoạn hiện nay
công tác chủ nhiệm lớp ngày càng đòi hỏi sự dày công của người giáo viên. Bởi
yêu cầu ngày càng cao của xã hội, mặt trái của kinh tế thị trường đang tác động
xấu đến học sinh, sự mưu sinh của gia đình nên không ít phụ huynh đã giao phó
việc giáo dục con cái cho nhà trường. Vì vậy, để thực hiện công tác chủ nhiệm
lớp không phải là lúc nào chúng ta cũng thực hiện một việc làm giống nhau với
tất cả các đối tượng và thực hiện suốt cả năm học, như thế sẽ gây tâm lý nhàm
chán, không hiệu quả. Mỗi giáo viên cần có những biện pháp cụ thể riêng,
những cách làm việc riêng và luôn có sự đổi mới, có những biện pháp tích cực
để tạo sự mới mẻ, ham thích đối với học sinh nhằm thúc đẩy các em thực hiện
tốt những yêu cầu mà giáo viên đưa ra.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Hiện nay vấn đề giáo dục tại trường học cho học sinh còn rất nhiều bất
cập, thực tế vẫn còn tồn tại một bộ phận giáo viên có quan niệm sai lầm trong
nhận thức về chức vụ của GVCN lớp, chưa tương xứng với tầm quan trọng của
chức vụ và nhiệm vụ của mình và chưa đúng với các văn bản luật cũng như các
văn bản quản lí giáo dục quy định; thậm chí có cả có những phương pháp giáo
dục lỗi thời chưa theo kịp với mục tiêu của giáo dục hiện nay...Chẳng hạn vẫn
còn tồn tại chuyện các giáo viên chủ nhiệm nóng nảy mất bình tĩnh, có những
lời nói xúc phạm học sinh, những hành động sai lầm lớn như: chửi học sinh,
đánh học sinh, đuổi các em ra khỏi giờ học...Ngược lại, có những thầy, cô giáo
chủ nhiệm quá dễ dãi với học sinh, buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm với
học sinh, với tập thể lớp để cho một số học sinh hư hỏng và kéo theo nhiều học
sinh khác theo đà... Như vậy việc thiếu kinh nghiệm hoặc sử dụng phương pháp

giáo dục thiếu linh hoạt, hoặc quá trình thực hiện thiếu liên tục và thiếu sự nhiệt
tình sẽ dẫn đến chất lượng giáo dục ở từng lớp có sự chênh lệch rõ rệt, vẫn còn
tồn tại một số học sinh chất lượng văn hoá và đạo đức chưa cao.
Về phía học sinh, cùng với sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin,
các phương tiện thông tin đại chúng ngày một phát triển, nhất là các trò chơi
điện tử luôn đáp ứng đúng thị hiếu học sinh. Vì vậy nhiều học sinh lơ là, ham
chơi nhất là bỏ học đi chơi game, bia... Dẫn đến trong một lớp học, việc học của
các em không đồng đều, có em chú ý nghe thầy cô giảng bài, có nhiều em lại
không chú ý, từ chỗ không hiểu bài dẫn đến chán nản, buông xuôi việc học,
thậm chí bỏ tiết đi chơi, tham gia vào các tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, có những
học viên chỉ thụ động nghe, ghi chép những gì giáo viên nói mà không tham gia
vào việc tìm hiểu bài giảng...
Là một giáo viên đang công tác tại Trung tâm GDTX Cẩm Thủy, bản thân
nhận thấy ngoài những thuận lợi như: Giáo viên chủ nhiệm nhận được sự chỉ
đạo, quan tâm sâu sát của chi bộ Đảng, của Ban Giám Đốc; đội ngũ các thầy cô
giáo bộ môn nhiệt tình, yêu nghề và trách nhiệm cao, chuyên môn vững vàng và
4


có tinh thần đoàn kết... Nhiệm vụ vừa giảng dạy vừa làm công tác chủ nhiệm
cũng gặp rất không ít khó khăn như:
- Trung tâm có 23 cán bộ, giáo viên, đa phần là người trẻ tuổi, kinh nghiệm
chuyên môn, kinh nghiệm cuộc sống còn ít; một số đồng chí phải nuôi con nhỏ
chưa có nhiều thực tiễn trải nghiệm để hướng dẫn học viên.
- Áp lực về nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao hơn nhiệm vụ chủ
nhiệm lớp.
- Nhà trường chưa có cơ chế, chính sách thiết thực sát với công tác chủ
nhiệm lớp.
- Chưa có tài liệu hướng dẫn về công tác chủ nhiệm, chủ yếu là học hỏi kinh
nghiệm của nhau

- Đầu vào của đa số học sinh không cao lại là con em của những gia đình
nghèo không có điều kiện quan tâm tới việc học của các em. Vì thế, sự kết nối
giữa GVCN lớp với phụ huynh chưa cao.
- Tâm lí của học viên chưa hoàn thiện, thích thì học không thích thì thôi.
Về phía lớp chủ nhiệm, năm học 2015 – 2016 bản thân tôi được Ban Giám
đốc phân công chủ nhiệm lớp 11B. Học sinh chủ yếu có kiến thức về các môn
học trung bình hoặc yếu. Bởi đa phần đầu vào của học viên trong lớp không cao,
phần lớn các em thi không đậu vào các trường phổ thông rồi mới nạp đơn xin
vào Trung tâm để học. Ý thức học tập, đạo đức của các em không cao, ý thức
chấp hành kỷ luật chưa tốt, có nhiều em có cuộc một số em có thái độ chán nản,
không hứng thú với việc học, đi học vì bố mẹ muốn như vậy… Đa phần các em
đều xuất thân từ gia đình làm nông nghiệp, có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên
bố mẹ phải lo kiếm tiền nuôi sống gia đình, ít có thời gian quan tâm đến con cái,
lại có nhiều bố mẹ phải bỏ quê đi làm ăn xa để các em ở nhà một mình hoặc với
ông bà. Hầu hết các em đều sinh sống trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn, một
số em nhà quá xa nên những hôm trời mưa các em thường nghỉ học.
Ngoài ra, quan niệm giáo dục của một số gia đình chưa thực sự tích cực:
Họ phó mặc việc học hành cho nhà trường, thầy cô giáo, đặc biệt là giáo viên
chủ nhiệm, có nhiều phụ huynh học sinh còn mặc cảm, ngại ngần không dám
gọi điện hay liên lạc với giáo viên chủ nhiệm.
Chính vì vậy, trong công tác chủ nhiệm việc vận dụng một số biện pháp
tích cực vào công tác chủ nhiệm là thật sự cần thiết và quan trọng để công tác
chủ nhiệm đạt hiệu quả cao.
2.3. Một số giải pháp cụ thể
Như chúng ta đã biết điều quan trọng nhất của GVCN là phải có tâm với học
sinh, từ đó mới tìm ra cách giáo dục học sinh có hiệu quả. GVCN cần đảm bảo
quyền lợi chính đáng, thưởng phạt phân minh, kịp thời công bằng đối với tất cả
học sinh. Không có công thức nào chung nhất cho công tác chủ nhiệm, nhưng
trước tiên phải có cái tâm, lòng nhiệt tình và phương pháp hợp lí sẽ mang lại sự
5



thành công. Phải thật sự yêu nghề, tận tâm với công việc, gần gũi, thương yêu,
tôn trọng học sinh. Mỗi giáo viên thực sự là một tấm gương sáng cho học sinh
noi theo thể hiện qua tư tưởng, ngôn ngữ, tác phong, cách làm việc và đối xử
hàng ngày. Để đạt hiệu quả cao trong công tác chủ nhiệm tôi đã áp dụng các
biện pháp tích cực sau:
2.3.1. Khảo sát đối tượng học sinh vào đầu năm học để giúp GVCN đưa ra
phương pháp giáo dục phù hợp
Công tác chủ nhiệm đòi hỏi phải hiểu học sinh một cách đầy đủ, cụ thể và
toàn diện nhằm có thể lựa chọn những tác động sư phạm phù hợp, có khả năng
mang lại hiệu quả cao nhất. Thực tiễn giáo dục đã cho thấy nhiều trường hợp
thất bại đáng tiếc của giáo viên thậm chí gây thương tổn nặng nề cho cả hai phía
do các thầy cô không hiểu biết đầy đủ về học sinh. Hiểu học sinh còn là điều
kiện cần trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp thuận lợi giữa giáo viên chủ
nhiệm và học sinh, là tiền đề cho việc hình thành tình cảm thầy trò thông hiểu,
gắn bó.
Năm học 2015 – 2016 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 11B. Lớp 11B có 21
học sinh trong đó có 3 học sinh nữ, 18 học sinh nam. Sau khi nhận lớp xong, tôi
tiến hành điều tra lí lịch của từng học sinh. Vì muốn hiểu kĩ học sinh, tôi phải
biết rõ gia đình các em.
Trước hết tôi tìm hiểu học sinh qua các mặt sau:
Thành phần gia đình:


Con thương binh, liệt sĩ: 0.



Con dân tộc Mường: 17 .




Con Dân tộc Dao là: 03



Con dân tộc Kinh là: 01



Con mồ côi cha : 02 ( Quách Anh Tuấn , Lê Phương Nhi)

Điều kiện kinh tế gia đình và nghề nghiệp của bố mẹ:
100% học sinh trong lớp là phụ huynh làm ruộng.
Đa phần kinh tế gia đình các em đều chỉ ở mức đủ ăn, không khá giả, thậm
chí còn khó khăn.
Học sinh có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế:
• Nguyễn Xuân: bố mẹ phải đi làm thuê, kinh tế gia đình khó khăn, em
lại còi và chậm hơn so với các bạn.
• Lê Phương Nhi: Bố mẹ bỏ đi, em sống với ông bà ngoại từ nhỏ. Ông
bà đã già yếu không còn khả năng lao động để kiếm sống.

6


Địa bàn cư trú :


Xã Cẩm Sơn : 9 em.




Xã Cẩm Ngọc : 7 em.



Xã Cẩm Bình : 3 em.



Xã Cẩm Châu : 1 em.



Xã Cẩm Tâm : 1 em.

Qua việc tìm hiểu trên có thể giúp tôi lựa chọn được những phương pháp
giáo dục phù hợp đối với từng học sinh. Đặc biệt, sau khi tìm hiểu được hoàn
cảnh của các em, tôi nhận thấy rằng muốn các em thật sự tin yêu và gắn bó với
mình thì bản thân tôi phải đến với các em bằng tấm lòng của người thầy, bằng
tình cảm của một người chị, của một người bạn.
Để dể tìm hiểu và nắm bắt được các nội dung trên tôi tiến hành làm các
công việc sau:
Bước 1: Điều tra lí lịch học sinh qua phiếu Sơ yếu lí lịch vào tuần đầu tiên
của năm học mới với các nội dung sau:
SƠ YẾU LÍ LỊCH HỌC SINH
I. Phần tự ghi của học sinh
1. Họ và tên học sinh:……………….……………… Giới tính: ……
2. Ngày…. tháng…. năm sinh……


Dân tộc:…..….. Tôn giáo:….

3. - Địa chỉ thường trú: Xóm……..thôn ……..xã …….huyện ……..
- Số điện thoại bàn của gia đình:…………………
4. - Họ, tên cha: ……………….Nghề nghiệp:………Số điện thoại:…….
- Họ, tên mẹ: ……………......Nghề nghiệp:……….Số điện thoại:……
5. Số anh……….. chị……….….. em………….. trong gia đinh.
6. Điều kiện kinh tế gia đình:………………….
7. - Xếp loại của năm học 2014 - 2015
- Học lực:…………….Hạnh kiểm:………………
- Chức vụ đã làm ở năm học 2014 - 2015……………
8. Năng khiếu:………………….. Sở thích:…………………
9. Các bạn thân hiện nay:…………
10. Chỉ tiêu phấn đấu của em trong năm học này:
7


Học lực:……………………..Hạnh kiểm:……………………….
11. Em có ý kiến, đề nghị gì với GVCN và nhà trường:
...........................................................................................................
II. Phần ghi của PHHS.
1. Phụ huynh có thường xuyên quan tâm, giáo dục con em mình hay
không? Vì sao?...................................................................................................
2. Phụ huynh tạo điều kiện gì cho con em mình học tốt? .........................
Phụ huynh có nhận xét gì về con em mình?……………………................
PHHS có đề nghị gì với nhà trường và GVCN?……………………….....
Bước 2: Để kiểm tra độ chính xác của các thông tin mà tôi thu thập được
qua phiếu điều tra tôi cố gắng tìm hiểu thông qua nhiều kênh khác nhau như từ
bạn bè, người quen, chính quyền địa phương, đến thăm gia đình một số học sinh,

… Qua đó sẽ hiểu biết cụ thể hơn, chi tiết hơn hoàn cảnh gia đình các em. Từ đó
tôi có những hình thức, những biện pháp giáo dục linh hoạt phù hợp với từng em
bởi giáo dục không phải là một công thức chung có sẵn.
Bước 3: Đây là bước tiến hành thường xuyên ở từng giai đoạn. Tôi cung
cấp số điện thoại của bản thân, của nhà trường đến từng em và liên hệ với gia
đình học sinh qua điện thoại, sổ liên lạc. Đây là sự liên hệ hai chiều qua lại giữa
nhà trường với gia đình, giữa GVCN với PHHS. Bằng các hình thức liên hệ đó
tôi sẽ nắm được những diễn biến về đạo đức, về học tập của các em từ đó có thể
đánh giá hiệu quả những tác động sư phạm đồng thời điều chỉnh phương pháp
giáo dục. Vì đạo đức, học lực của từng em luôn biến đổi từng giờ, từng ngày chứ
không phải là bất biến theo kiểu “Đầu sao đuôi vậy”.
2.3.2. Ổn định nề nếp lớp và làm tốt công tác tổ chức lớp
*Xếp chỗ ngồi:
- Khi sắp chỗ ngồi cần chú ý các em có nhu cầu về tai mắt (HS cận thị)
- Chú ý những em có cùng khuyết điểm
- Chú ý tới vóc dáng chiều cao, giới tính, học lực (Thấp ngồi trước, cao ngồi
sau; nam - nữ xen kẽ; HS Giỏi - Yếu, Khá - Trung bình ngồi cùng bàn; Tỉ lệ
Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu ở các tổ đều nhau).
Ví dụ: Lớp có em Nguyễn Xuân có vóc dáng nhỏ hơn so với các bạn trong
lớp, em lại chậm và không mạnh dạn như các bạn khác nên khi xếp chỗ ngồi
phải xếp cho em ngồi bàn đầu.
Mục đích của việc xếp chỗ ngồi như vậy là: Các em khá sẽ hướng dẫn,
đôn đốc các bạn chú ý nghe giảng, học bài cũ, hướng dẫn làm những bài tập
8


khó…Sau mỗi tuần trong giờ sinh hoạt cuối tuần các em được giao nhiệm vụ có
trách nhiệm lên báo cáo với GVCN lớp, nếu em nào có tiến bộ sẽ khen thưởng,
khích lệ trong từng tuần.
Thông qua giải pháp này, tôi cũng điều hành cho các em có tính tự quản.

Cụ thể: GVCN lớp sẽ phân công từng tổ theo dõi các bạn đi học có đầy đủ
không, ghi bài, nói chuyện riêng…sẽ nhắc nhở, xử phạt trong giờ sinh hoạt cuối
tuần.
*Bầu Ban cán sự (BCS) lớp:
Khi GVCN đã nắm được học lực, hạnh kiểm của học viên sẽ lựa chọn
những học viên có đủ phẩm chất đạo đức để bầu làm lớp trưởng, các lớp phó và
các tổ trưởng, tổ phó. Đây là vấn đề rất cần thiết để giao trách nhiệm cho BCS
lớp thay mặt GVCN điều hành, quản lý lớp. Trong quá trình giao nhiệm vụ, nếu
thấy trong BCS những học viên nào không làm tốt sẽ thay bằng học viên khác
để tiếp tục quản lý lớp.
Sau khi đã bầu chọn được Ban Cán sự của lớp, tôi giao nhiệm vụ cụ thể cho
từng em như sau:
- Nhiệm vụ của lớp trưởng:
+ Theo dõi, kiểm tra mọi hoạt động của lớp.
+ Điểm danh và ghi sĩ số của lớp vào sổ theo dõi.
+ Giữ trật tự lớp khi giáo viên chấm bài, khi giáo viên có việc phải ra khỏi
lớp và khi lớp dự lễ chào cờ đầu tuần.
+ Đề nghị giáo viên tuyên dương, phê bình cá nhân hoặc tập thể.
- Nhiệm vụ của lớp phó học tập:
+ Tổ chức lớp truy bài 15 phút đầu giờ; giúp đỡ các bạn học yếu học bài,
làm bài.
+ Điều khiển các bạn trao đổi, thảo luận hoặc trả lời câu hỏi trong tiết học
khi giáo viên yêu cầu.
+ Theo dõi việc học tập của lớp trong các tiết học.
+ Làm mọi việc của lớp trưởng khi lớp trưởng vắng mặt hoặc nghỉ học.
- Nhiệm vụ của lớp phó Văn thể my: Tổ chức theo dõi, tham gia các hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao do Đoàn TNCS HỒ CHÍ MINH, do
trường tổ chức.
- Nhiệm vụ của lớp phó lao động:
+ Phân công, theo dõi và kiểm tra các tổ trực nhật và chịu trách nhiệm tắt

đèn, quạt khi ra về.
+ Theo dõi, kiểm tra các bạn khi tham gia các buổi lao động do trường, lớp
tổ chức.
+ Phối hợp với lớp trưởng, lớp phó học tập giữ trật tự lớp.

9


Nhiệm vụ của mỗi em, tôi ghi rõ ràng trong một cuốn sổ, sau đó phát cho
các em. Tôi hướng dẫn từng em cách ghi chép trong sổ một cách khoa học, cụ
thể, rõ ràng. Mỗi em sẽ làm đúng các nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, lớp trưởng
với 3 lớp phó và các tổ trưởng phải đoàn kết và hợp tác chặt chẽ với nhau trong
công việc chung.
Danh sách Ban cán sự lớp 11B
TT
Họ và tên
Chức vụ
1
Phạm Văn Tình
Lớp trưởng
2
Lê Phương Nhi
Lớp phó học tập
3
Phạm Thị Mơ
Lớp phó Lao động
4
Trương Thị Duyên
Lớp phó Văn thể mĩ
5

Triệu Duyên Quân
Tổ trưởng tổ 1
6
Đinh Thị Hòa
Tổ trưởng tổ 2
7
Quách Tuẩn Quang
Tổ trưởng tổ 3
8
Phạm Long Nhật
Tổ trưởng tổ 4
*GVCN xây dựng nội quy lớp:
Ngoài việc GVCN phổ biến cho học viên biết về Nội quy nhà trường bắt
buộc học viên phải thực hiện bên cạnh GVCN cần xây dựng Nội quy riêng cho
lớp để các em thực hiện. Có thể ở mỗi lớp GVCN xây dựng nội quy lớp khác
nhau tùy thuộc vào đặc điểm, tình hình của lớp.
Ví dụ:
TRUNG TÂM GDTX CẨM THỦY

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

LỚP 11 B

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NỘI QUY LỚP HỌC
1. Đến lớp phải đúng giờ quy định.
2. Phải học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp.
3. Tổ trực phải vệ sinh phòng học sạch sẽ trước khi vào học.
4. Quần áo, đầu tóc, dày dép gọn gàng, sạch sẽ, đúng quy định.
5. Không mang thức ăn đóng hộp, thức uống bằng chai, lon, bọc nylon

vào phòng học.
6. Giữ gìn vệ sinh phòng học, không được nhả kẹo cao su xuống nền
gạch.
7. Không được viết, vẽ trên tường, bàn ghế.
8. Không được đùa giỡn, chọc ghẹo, làm mất trật tự trong giờ học.
9. Nếu nghỉ học phải báo cáo với GVCN (bất cứ lý do gì).
10. Đi học phải mang theo nội quy lớp.
GVCN
(Đã ký)

10


Phùng Thị Mai
Sau khi xây dựng xong nội quy lớp, GVCN phổ biến trước lớp cho tất cả
học viên đều biết và thống nhất thực hiện. Sau đó GVCN phát cho mỗi học viên
một bảng Nội quy và bắt buộc các em phải giữ bảng Nội quy này và thường
xuyên mang theo trong suốt năm học để làm cơ sở xử lý học viên vi phạm, nếu
học viên vi phạm nhẹ có thể bắt học viên đọc lại bảng Nội quy trước lớp hoặc
học thuộc bảng Nội quy...
Nội quy lớp là một công cụ hỗ trợ GVCN xử lý học viên vi phạm. Bên
cạnh GVCN phải xây dựng thang điểm thi đua của lớp hàng tuần ứng với nội
quy của lớp, trong đó có hình thức biểu dương, khen thưởng và kỷ luật cụ thể
từng trường hợp và được công khai vào buổi sinh hoạt chủ nhiệm cuối tuần.
2.3.3. Áp dụng phương pháp giáo dục phù hợp với từng đối tượng học sinh
a. Đối với những học sinh có hoàn cảnh gia đình khó khăn :
- GVCN thường xuyên động viên giúp đỡ học viên cả về vật chất lẫn tinh
thần. Kêu gọi học sinh cả lớp có tinh thần đoàn kết giúp bạn vượt khó. Đề đạt
với chi hội phụ huynh lớp, nhà trường tạo điều kiện giúp đỡ những em đó. Tính
ưu việt của việc làm này là vừa khắc phục được khó khăn lại vừa giáo dục được

lòng nhân ái cho học sinh và tranh thủ được sự hỗ trợ của nhà trường của Hội
phụ huynh học sinh.
Ví dụ: Lớp11B có 2 em Nguyễn Xuân và Lê Phương Nhi là 2 em có hoàn
cảnh gia đình khó khăn, GVCN và tập thể lớp đã động viên giúp đỡ 2 em đồng
thời đề xuất với nhà trường để được sự hỗ trợ của nhà trường và các tổ chức
ngoài nhà trường. Kết quả: 2 em đã được công ty SamSung trao học bổng; em
Lê Phương Nhi được nhà trường miễn giảm các khoản đóng góp.
b. Đối với học sinh cá biệt về đạo đức:
Tìm hiểu nguyên nhân qua gia đình: Gia đình có sự mâu thuẫn giữa bố và
mẹ, gia đình thiếu quan tâm hoặc có thể bị bạn bè, kẻ xấu lôi kéo….Hoặc trẻ có
những tính xấu mà bản thân gia đình chưa giáo dục được…
Dùng phương pháp tác động tình cảm, nghiêm khắc đối với học sinh
nhưng không cứng nhắc. Tuyệt đối không sử dụng phương pháp trách phạt, chú
ý gần gũi các em và thường xuyên nhắc nhở động viên khen chê kịp thời. Giao
cho các em đó một chức vụ trong lớp nhằm gắn với các em trách nhiệm để từng
bước điều chỉnh mình.
Ví dụ: Em Hà Công Đại không có tinh thần học tập, ngồi trong lớp uể
oải, đôi khi có tư tưởng bỏ học; năm học 2014 – 2015 và đầu năm 2015-2016
em hay nghỉ học vô lí do đặc biệt là các buổi học phụ đạo. Nắm được như vậy,
bản thân tôi đã thường xuyên gần gũi, động viên em và khen kịp thời mỗi khi
em thực hiện tốt. Đồng thời đến tận nhà để trao đổi với phụ huynh về tình hình
của em, cùng với phụ huynh đưa ra phương pháp giáo dục hợp lí. Kết quả: em

11


đã đi học chuyên cần hơn, không còn tình trạng nghỉ học vô lí do nữa và không
còn tư tưởng bỏ học nữa.
c. Đối với học sinh học yếu:
- Trước hết tôi tìm hiểu nguyên nhân vì sao em đó học yếu, học yếu

những môn nào. Có thể là ở gia đình các em đó không có thời gian học tập vì
phải làm nhiều việc hoặc em đó có lỗ hỏng về kiến thức nên cảm thấy chán nản.
- Sau đó lập kế hoạch giúp đỡ đối tượng bằng những việc cụ thể như sau:
+ Giảng lại bài mà các em chưa hiểu hay còn hiểu mù mờ vào những thời
gian ngoài giờ lên lớp .
+ Thường xuyên trao đổi với GV bộ môn để giáo viên bộ môn tăng cường
kiểm tra các đối tượng đó trong quá trình lên lớp.
+ Tổ chức cho học sinh học theo nhóm để học sinh khá giỏi giúp đỡ học
sinh yếu kém tiến bộ.
+ Gặp gỡ phụ huynh học sinh trao đổi về tình hình học tập, cũng như sự
tiến bộ của con em để phụ huynh giúp đỡ thêm việc học ở nhà cho các em.
+ Chú ý tránh thái độ miệt thị, phân biệt đối xử làm cho các em nhụt chí,
xấu hổ trước bạn bè.
d. Đối với những học sinh có năng lực đặc biệt:
- Điều quan trọng là phát hiện những năng lực đặc biệt ở học sinh về văn
hoá văn nghệ, thể dục thể thao, hội hoạ…
- Bồi dưỡng, khơi dậy ở các em lòng say mê hứng thú học tập thông qua
những hội thi hoặc gần gũi nhất ngay trong tiết học chính khoá.
Tóm lại dù với đối tượng nào bản thân giáo viên phải lưu ý dùng phương
pháp tác động tình cảm, động viên khích lệ kịp thời, phối hợp với phụ huynh để
giáo dục và đặc biệt xác định vấn đề giáo dục đạo đức là then chốt.
2.3.4. Thực hiện tốt tiết sinh hoạt
Một trong những yếu tố giúp giáo viên thưc hiện tốt công tác chủ nhiệm của
mình đó là phải thực hiện tốt tiết sinh hoạt. Trong giờ sinh hoạt tôi yêu cầu ban
cán sự tóm tắt kết quả học tập và rèn luyện của cả lớp trong tuần của ban cán sự
lớp. Thông qua sổ đầu bài, sổ trực nề nếp của Ban nề nếp, các GVBM, tôi nhận xét,
đánh giá từng HV. Tôi luôn luôn nhắc nhở và động viên tinh thần các em, tạo động
lực giúp cả lớp cố gắng hơn. Có thể nói, GVCN phải thật sự gắn bó, quan tâm tới
lớp mới nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý và tình hình học tập của từng em. Từ kết quả
học tập, năng khiếu, tính cách của mỗi HV mà GVCN góp ý kiến với từng HV về

việc lựa chọn nghề nghiệp cho mình thật phù hợp.
Qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm, người GVCN cần kết hợp dạy các em cách
học làm người, cách sống, cách ứng xử với mọi người,... cũng cần phải linh hoạt
chứ không nên chỉ là những lời nói lí lẽ, lí thuyết đều đều. Để giáo dục đạo đức
12


học viên đạt được hiệu quả cao nhất, người giáo viên chủ nhiệm cần biết kết hợp
nhiều những phương pháp giáo dục khác nhau như: phân tích cho các em hiểu
về cách sống, cách làm người, tổ chức đóng kịch tình huống để các em bày tỏ
quan điểm của cá nhân mình, tổ chức trò chơi, các buổi diễn đàn, hội thảo nhỏ,...
Trong buổi sinh hoạt cuối tuần, GVCN đóng vai trò cố vấn, hướng dẫn
các em từng bước tiến hành. Sau đó GVCN sẽ là người kết luận cuối cùng. Đối
với những trường hợp vi phạm cho các em tự báo cáo về mình dựa theo nội quy
của lớp. (từng học viên báo báo)
Ngày
Số lần
Nội dung báo cáo
vi phạm
vi phạm
1. Đến lớp phải đúng giờ quy định.
2. Phải học bài, làm bài đầy đủ trước khi đến lớp
3. Tổ trực phải vệ sinh phòng học sạch sẽ trước khi vào
học.
4. Quần áo, đầu tóc, giày dép gọn gàng, sạch sẽ, đúng
quy định.
5. Không mang thức ăn đóng hộp, thức uống bằng
chai, lon, bọc nylon vào phòng.
6. Giữ gìn vệ sinh phòng học. Không được nhả kẹo cao
su xuống nền gạch.

7. Không được viết, vẽ trên tường, bàn ghế.
8. Không được đùa giỡn, chọc ghẹo, làm mất trật tự
trong giờ học.
9. Nếu nghỉ học phải báo cáo với GVCN.
10. Đi học phải mang theo nội quy lớp.
Sau đó lớp trưởng nhận xét xem còn ai chưa báo cáo, hoặc báo cáo không
chính xác để GVCN xử lý. Trong việc xử lý những học viên vi phạm phải đúng
người, đúng tội theo Nội quy đã đề ra. Tránh trường hợp vị nể, xử học viên này
nặng, xử học viên kia nhẹ làm mất đi tính nghiêm khắc, công minh của người
thầy. Những học viên vi phạm phải chấp nhận hành vi vi phạm của mình. Điều
này thông qua sự báo cáo của BCS lớp phải thật sự chính xác công bằng. Những
hình thức kỷ luật đã đưa ra bắt buộc học viên đó phải thực hiện, GVCN không
bỏ qua với bất cứ trường hợp nào. Làm được điều đó sẽ giúp cho nề nếp lớp học
đi vào khuôn khổ nhất định, rèn luyện cho các em chấp hành tốt Nội quy trường,
lớp như vậy sẽ hạn chế tối đa trường hợp học viên có biểu hiện cá biệt tái phạm.
Ngoài việc xử lý học viên vi phạm, GVCN cần phải có hình thức biểu
dương, khen thưởng. Ngay từ đầu năm học tôi đã đưa ra những hình thức khen
thưởng rất cụ thể để tạo không khí thi đua trong học tập của học viên. Cụ thể:
13


- Tuyên dương những em ngoan, đạt điểm 9,10 vào cuối tuần trong giờ
sinh hoạt bằng một tràng pháo tay và sẽ thưởng 1 cuốn vở/em.
- Đạt học sinh tiên tiến sẽ thưởng 50.000 đ/ em
- Đạt học sinh giỏi thưởng 100.000 đ/em
Như chúng ta đã biết, tâm lí học sinh là rất thích khen, GVCN phải biết
nắm bắt được điều này, phải biết trân trọng những mặt tốt, những thành tích dù
là rất nhỏ của học sinh. Với biện pháp này trong năm lớp 11B đã đạt được những
thành tích đáng kể:
Các em có tinh thần học tập cao hơn trong các tiết học; điểm 9, 10 tăng lên

trong các tuần học; điểm số lớp cao và luôn đứng top đầu trong bảng thi đua các
tuần học.
2.3.5. Phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội.
a. Phối hợp với Ban giám đốc:
- GVCN là cầu nối giữa BGĐ và học sinh do đó trước hết tôi nhận kế
hoạch và triển khai hoạt động, đồng thời phản ảnh với BGĐ những thuận lợi,
khó khăn hoặc những vấn đề bất cập trong kế hoạch giúp BGĐ kịp thời điều
chỉnh cho phù hợp.
- Tôi thường xuyên báo cáo với BGĐ về kết quả giáo dục từng tuần, từng
tháng để giúp BGĐ thu thập được thông tin của lớp một cách kịp thời, chính
xác cũng như những thông tin liên quan đến trường lớp. Ví dụ như các vấn đề:
+ Số học sinh không gửi xe đạp trong trường.
+ Số học sinh nghỉ học trong các tuần cao điểm trước và sau tết.
+ Số học sinh nghỉ học phụ đạo nhiều.
+ Những giáo viên bộ môn cần được góp ý về chuyên môn cũng như
phương pháp sư phạm, cư xử với học sinh.
+ Những thắc mắc của phụ huynh và học sinh: về việc sử dụng điện thoại
di động trong giờ học, các chế độ chính sách, giờ giấc học chính khóa, bồi
dưỡng...
Từ đó giúp nhà trường có được những biện pháp xử lý thích hợp.
- Ngoài ra, khi gặp một tình huống khó xử nào đó tôi cũng thường trao
đổi, tâm sự với Ban giám đốc vì thông thường các đồng chí trong Ban giám đốc
là những người hoặc là vững chuyên môn hoặc là có bề dày kinh nghiệm hơn
mình, nhiều lúc tâm sự với họ tôi như gặp được quân sư trong lĩnh vực mà mình
đang khó tìm cách giải quyết hợp lí.
b. Phối hợp với Đoàn Thanh niên và ban nề nếp
Tôi đã có ý kiến với Đoàn thanh niên về việc tuyên truyền giáo dục ý thức
đạo đức, tác phong đến trường cho học sinh qua việc kiểm tra thắt chặt việc thực
hiện nề nếp hoc tập, rèn luyện, cũng như đăng ký ủng hộ những đợt quyên góp,
đóng góp của Đoàn một cách nhiệt tình, tích cực nhất. Thông qua các hoạt động

14


tương thân tương ái như đóng góp quỹ “Kế hoạch nhỏ”, “ ủng hộ các bạn học
sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn”, tôi đã động viên các em tự nguyện quyên
góp ủng hộ các em nhỏ ở vùng sâ, vùng xa, có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt.
Thông qua những hoạt động của Đoàn, các em sẽ được rèn luyện thêm nhiều
phẩm chất của người học sinh cần có như là: tình đoàn kết, lòng nhân ái, tinh
thần cầu tiến,… Phối hợp với Đoàn Thanh Niên có nghĩa là giáo viên chủ
nhiệm hiểu biết về hoạt động Đoàn của các em, luôn động viên nhắc nhở uốn
nắn các em trong các hoạt động của Đoàn.
Phối hợp với Đoàn thanh niên và Ban nề nếp trong việc phát hiện và xử lí
những học sinh vi phạm nội quy, vi phạm kỉ luật của lớp như: đi học chậm, trốn
tiết, nghỉ học vô lí do, trong lớp sử dụng điện thoại di động, nói chuyện riêng
trong giờ học, hút thuốc lá, đánh nhau...
c. Đối với giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm cùng khối
* Với giáo viên bộ môn
Bên cạnh bên cạnh sự phối kết hợp tốt với tổ chức Đoàn thanh niên, với
Ban giám đốc, tôi còn luôn gần gũi tiếp cận với các giáo viên bộ môn lớp mình
để nắm bắt được tình hình học tập, rèn luyện của các em.
- Tôi thấy GVCN cần thường xuyên trao đổi, thông báo cho các giáo viên
bộ môn (GVBM) biết tình hình học tập của lớp, một số đặc điểm đặc biệt của
học sinh, những nhu cầu nguyện vọng và các yêu cầu của các em về môn học
của thầy cô giúp các GVBM kịp thời điều chỉnh, bổ sung về nội dung, phương
pháp cho phù hợp.
- GVCN phản ánh với các GVBM về các học sinh yếu kém, cũng nhu các
học sinh khá giỏi để các thầy cô có phương pháp giảng dạy, kèm cặp và kiểm tra
phù hợp cho từng đối tượng trong quá trình giảng dạy.
- Khi giáo viên bộ môn phản ánh về tình trạng ít học bài cũ, thiếu vở soạn
văn hay chưa làm bài tập về nhà ... thì tôi lại phải siết chặt đội ngũ cán bộ lớp,

họp cán bộ lớp để đề ra những biện pháp cụ thể. Khi giáo viên bộ môn khen thì
tôi lại có những hình thức khen thưởng khác nhau đối với các em.
- Thông qua giáo viên bộ môn, tôi có thể biết được cụ thể lực học của các
em ở các môn, biết được điểm mạnh để kịp thời động viên các em phát huy và
sở đoạn của các em để phân tích giúp các em khắc phục. Và cũng qua đó biết
được học sinh cốt cán bộ môn đó trong lớp, những em học còn non để có thể
điều chỉnh sơ đồ lớp hàng tháng tạo điều kiện cho những em khá giúp các em
yếu, để có thể ra đời “những đôi bạn cùng tiến”.
- Tôi cũng thường xuyên lắng nghe, trao đổi góp ý cùng các giáo viên bộ
môn để từ đó có biện pháp thích hợp, kích thích các em học tập đạt kết quả tốt
hơn. Bên cạnh đó, tôi luôn khuyến khích các em trao đổi trực tiếp những khúc

15


mắc, nguyện vọng của mình với giáo viên bộ môn, nếu không được thì hãy trao
đổi với GVCN. Chính điều đó đã giúp học sinh đạt được một số tiến bộ đáng kể.
- GVCN thường xuyên thông tin hai chiều với GVBM về những học sinh
chậm tiến về đạo đức, những học sinh hay vi phạm trong giờ học và bàn phương
pháp giáo dục.
- Trong quá trình đánh giá xếp loại học sinh, GVCN cũng cần phối hợp tốt
với GVBM để kết quả thêm chính xác, khách quan và công bằng.
- GVCN luôn nắn các em biết kính trọng các thầy cô, biết chia sẻ những
khó khăn trong học tập với các thầy cô; đồng thời phải biết quan tâm đến những
khó khăn và hoàn cảnh của các thầy cô tạo cho các em có được một sự đồng
cảm, một tình cảm gắn bó giữa thầy và trò.
* Với các giáo viên chủ nhiệm cùng khối
Các GVCN cùng khối là một tập thể GVCN hoạt động thống nhất dưới sự
chỉ đạo chung của BGĐ về nội dung, kế hoạch một cách đồng bộ. Do đó, tôi
thường trao đôi bàn bạc với họ để thống nhất một số hoạt động trước khi triển

khai tới học sinh. Tôi đã thông qua các GVCN khác trong khối để có được
những tấm gương vượt khó vươn lên đạt kết quả cao trong học tập ở các lớp
khác ngay trong trường, những tấm gương đó cũng có thể là bạn đã từng học
chung cấp với các em. Tôi phân tích hoàn cảnh gia đình (thông tin lấy từ các
GVCN cùng khối), ý chí, nghị lực tiến thủ và thành tích đạt được của các gương
đó để học sinh lớp tôi “soi vào” và học tập.
Cũng thông qua các GVCN khác, tôi có được thông tin về một số học sinh
ở lớp khác trong khối vi phạm nội qui nhà trường như hút thuốc, nói bậy, đánh
nhau ... để từ đó răn đe học sinh lớp mình không rơi vào những trường hợp trên.
Không những thế qua GVCN khác, tôi đã học hỏi thêm được rất nhiều
kinh nghiệm giúp cho công tác chủ nhiệm của bản thân đạt kết quả tốt hơn.
d. Đối với gia đình học sinh và chi hội phụ huynh học sinh
* Với gia đình học sinh
Giáo dục gia đình là một phần không thể thiếu trong sự nghiệp giáo dục
xã hội. Song giáo dục gia đình vốn có đặc trưng riêng của nó (yếu tố di truyền,
văn hóa gia đình, quan niệm giáo dục...), để phát huy được hết tiềm năng giáo
dục của gia đình, GVCN phải biết khéo léo phối hợp với gia đình như thế nào
mới đảm bảo được tính thống nhất, toàn vẹn của quá trình giáo dục.
- Do đó khi phối hợp với phụ huynh học sinh thì đối với từng học sinh tôi
yêu cầu phụ huynh:
+ Hàng ngày kiểm tra sách vở của con em mình
+ Nhắc nhở con em học bài cũ trước khi đến lớp
+ Theo dõi thời khóa biểu hàng ngày để kiểm tra xem con em mình chuẩn
bị đồ dùng học tập đã đủ chưa, đúng chưa…
16


+ Trong cuộc họp phụ huynh học sinh, tôi cũng đề nghị các gia đình thực
hiện cam kết giữa học sinh – nhà trường và gia đình, đặc biệt không để các em
sa ngã và bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội. Những tệ nạn xã hội có thể ảnh hưởng

đến giới trẻ bất kỳ lúc nào, hay nơi nào nếu chúng ta không đề phòng ngăn chặn
từ trước
+ Với những học sinh nghỉ học, tôi yêu cầu phụ huynh phải gọi điện trực
tiếp cho tôi bằng số điện thoại mà đầu tại cuộc họp phụ huynh đã đăng ký hoặc
học sinh phải viết giấy xin phép nghỉ. Giấy xin phép này phải được chính phụ
huynh ký tên và phải trùng với chữ ký tại cuộc họp đầu năm. Tôi phải làm chặt
chẽ như vậy bởi cũng đã có không ít trường hợp học sinh đi học nhưng không
vào trường, bỏ học đi chơi rồi nhờ người viết giấp xin phép và gọi điện báo cáo.
Nếu có học sinh nghỉ học bất thường không có lý do tôi gọi điện trực tiếp cho
phụ huynh ngay trong ngày hôm đó để tìm hiểu. Nếu không liên lạc được thì tôi
thường ghi thư tay với nội dung với nội dung ngắn gọn rồi gửi học sinh khác
đem về. (Ví dụ như: Kính gửi bác …. Phụ huynh em … Hôm nay em … nghỉ
học mà không báo cáo lý do. Đề nghị gia đình chủ động liên lạc ngay với
GVCN để giải quyết).
+ Thường xuyên trao đổi với GVCN lớp để nắm bắt tình hình có phối hợp
để giáo dục học viên.
- Về phía bản thân, tôi thường xuyên, trao đổi, liên lạc với phụ huynh học
sinh thông qua điện thoại, qua các buổi họp phụ huynh về tình hình học tập, đạo
đức của các em.
Ví dụ: Trong lớp có em Quách Văn Cường, đầu năm đã có tư tưởng bỏ học,
theo bạn bè rủ rê đi Hà Nội làm ăn. Tôi đã kịp thời phối hợp với gia đình em,
liên lạc và động viên em để em tiếp tục về học. Kết quả sau vài ngày em đã trở
về đi học bình thường và chuyên cần hơn rất nhiều. Đặc biệt từ giữa kì 1 cho
đến nay, em không còn tình trạng nghỉ học vô lí do nữa, đi học chuyên cần hơn.
- Khi có những kế hoạch đột xuất hoặc liên quan đến khoản thu, chi tôi đều
gửi thông báo đến từng phụ huynh rồi thu lại kiểm tra chữ kí xác nhận của phụ
huynh sau khi nhận được.
Kết quả trong năm học này lớp đã hoàn tât các khoản thu của nhà trường
một cách nhanh chóng.
* Với chi hội cha mẹ học sinh

Thực tế trong nhiều năm qua tôi đã không xem nhẹ việc tổ chức chi hội
cha mẹ học sinh. Hoạt động của chi hội góp phần quan trọng vào kết quả giáo
dục học sinh ở lớp, nhất là những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt. Nội dung và
phương pháp phối hợp với chi hội thể hiện như sau:
Vào đầu năm học, Nhà trường sẽ tổ chức họp phụ huynh để thông báo
tình hình nhà trường, lớp, kế hoạch đào tạo trong năm học và chọn Ban đại diện
hội cha mẹ học sinh, đó là những người:
17


+ Có tâm huyết, nhiệt tình với phong trào thi đua của lớp
+ Am hiểu nhiều về lĩnh vực giáo dục
+ Có con em đạt học lực khá trở lên…
- Đại diện Hội cha mẹ học sinh kết hợp với GVCN lớp theo dõi, đôn đốc,
động viên quá trình học tập, sinh hoạt của học viên.
- Thỉnh thoảng tôi cũng phối hợp cùng đại diện phụ huynh học sinh đến thăm
những học sinh có hoàn cảnh khó khăn hoặc những em cá biệt trong lớp nhằm
động viên giúp đỡ các em. Với những em có hoàn cảnh khó khăn tôi thường đề
nghị BCH kêu gọi sự giúp đỡ ngay trong chi hội.
- Bên cạnh đó, tôi cũng thường tập hợp, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp
của phụ huynh học sinh trong lớp, khuyến khích phụ huynh học sinh viết thư,
gọi điện cho tôi nếu có việc cần thiết (để nắm bắt kịp thời các thông tin có thể
như các hiện tượng bài bạc sau Tết, học sinh bỏ nhà khi bị bố mẹ đánh mắng hay
quan hệ yêu đương trong lớp...) để từ đó tôi có kế hoạch điều chỉnh phù hợp.
Để có được những kết quả nhất định trong công tác phối hợp với phụ
huynh học sinh, với chi hội cha mẹ học sinh, tôi đã phải tạo được niềm tin cho
phụ huynh học sinh rất nhiều thông qua những việc làm cụ thể của mình, qua
nhiều tiến bộ và kết quả đạt được của lớp mình dưới sự dìu dắt hay giúp đỡ của
BGH nhà trường, các thầy cô giáo bộ môn và tổ chức Đoàn.
2.3.6. Hướng học sinh đến những hoạt động đoàn kết, quan tâm, giúp

đỡ nhau
Ngay từ những ngày đầu năm học, tôi đã tổ chức các hoạt động cho học sinh
giao lưu, tìm hiểu về nhau. Để giúp các em biết quan tâm, giúp đỡ nhau thì ban
đầu trong mỗi ngày học, giáo viên dành ra một khoảng thời gian để trò chuyện
cùng các em, hỏi các em có những gì vui, buồn,... chia sẻ với cô và các bạn. Dần
dần sau đó, giáo viên cho các em tự đi tìm hiểu, chia sẻ với nhau. Qua những
hoạt động đó tạo mối gắn kết các em lại thành một tập thể đoàn kết, thương yêu,
quý mến nhau. Ngoài ra, còn tạo cho học sinh biết đối xử thân thiện, hòa nhã với
nhau, xưng hô lịch sự, biết dùng lời hay ý đẹp để nói với nhau.
Tóm lại, người giáo viên chủ nhiệm phải có sự có tâm huyết, “đầu tư” cả
về thời gian, công sức, tâm trí, tình cảm của mình vào lớp chủ nhiệm, tận tình
chỉ bảo và dạy dỗ các em bằng chính cái tâm của mình, coi các em như chính
con cháu của mình, đồng thời người giáo viên chủ nhiệm qua đó có thể khẳng
định được bản ngã của mình dù ở bất kì lĩnh vực nào.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua những năm công tác ít ỏi, bằng tất cả sự nỗ lực của bản thân cùng với sự
quan tâm chỉ đạo sát sao của BGĐ và sự vận dụng linh hoạt những biện pháp
tích cực trong công tác chủ nhiệm lớp, tôi đã thu được những kết quả đáng kể.
Cụ thể như sau:
18


Bản thân tôi được đồng nghiệp tin yêu, phụ huynh tin tưởng, yên tâm. Bên
cạnh đó, phụ huynh cũng thường xuyên theo dõi được việc học, đạo đức của con
em và có nhiều sự hỗ trợ đối với giáo viên. Phụ huynh cũng cảm thấy phấn khởi
khi thấy con em mình được giáo viên quan tâm, các em có nhiều tiến bộ, các em
ngày càng hoàn thiện và thành những đứa trẻ ngoan, học tốt.
Lớp tôi cũng đã đạt được nhiều thành tích trong các mặt học tập, phong trào:
Học sinh biết vâng lời và yêu quý thầy cô giáo, biết xác định động cơ học tập
đúng đắn, tập thể học sinh biết thương yêu đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng

tiến bộ. Đặc biệt trong năm học này lớp 11B được sự tin tưởng thương yêu của
tất cả các thầy cô, ai cũng hào hứng khi bước vào lớp giảng dạy.
Kết quả cả năm 2015 – 2016 đạt được như sau:
Học lực:


Giỏi
0

Khá

0%


7

33,3% 14

Kém

Yếu

66,7% 0

0%

0

0%


Hạnh kiểm

Tốt
17

Trung bình

81%

Khá
4

19%

Trung bình
0

0%

Yếu
0

0%

- Trong năm học 2015-2016, lớp 11B có 2 em được nhận học bổng của
công ty SamSung.
- Lớp luôn đạt điểm số cao và đứng tốp đầu trong các tuần học.
- Vẫn duy trì được sĩ số lớp
- Hoàn tất các khoản đóng góp của nhà trường
- Cơ sở vật chất của lớp được đảm bảo, không bị hư hỏng.

Các phong trào khác:


Đạt giải nhất kéo co chào mừng ngày 20/11.



Đạt giải ba bóng chuyền nam chào mừng ngày 20/11.

3. Những kiến nghị và đề xuất
Qua một số biện tích cực trong công tác chủ nhiệm đã nêu ở trên tôi rút ra
được bài học sau:
Để đạt được kết quả như mong muốn, giáo viên cần phải thực hiện những
yêu cầu sau:
- Nắm chắc Sơ yếu lý lịch của học sinh.
19


- Người giáo viên cần phải nắm và am hiểu sự phát triển tâm sinh lí của
học sinh TTGD - TX để để có biện pháp giáo dục không phải là khuôn mẫu, mỗi
con người đều có hoàn cảnh, có tâm sự, có tình cảm, tính tình khác nhau cho nên
việc am hiểu các em và tìm biện pháp giáo dục thích hợp quả là không đơn giản.
Nó vốn đã khó với một giáo viên lại càng khó hơn đối với một giáo viên chủ
- Luôn có sự đổi mới trong các hình thức rèn luyện, thi đua, giáo dục để
tạo hứng thú, mới mẻ đối với học sinh.
Giáo viên chủ nhiệm cần có lòng nhiệt tình, tính chịu khó, năng động sáng
tạo nhất là thực sự yêu mến quan tâm đến học sinh như chính con em mình để từ
đó giáo dục bằng tất cả tấm lòng, tình thương yêu và tinh thần trách nhiệm.
Với những kinh nghiệm này, tôi thiết nghĩ những phương pháp tích cực trong
công tác chủ nhiệm mà tôi mạnh dạn nêu trong đề tài có thể áp dụng với bất cứ

giáo viên nào, đối tượng học sinh nào bởi nó không khó thực hiện mà chỉ cần có
lòng say mê, sự quyết tâm của giáo viên thì chắc chắn chúng ta sẽ thành công.
Có thể nói, giáo dục là cả một quá trình rất cần sự nỗ lực và kiên trì của mỗi
giáo viên cần biết lựa chọn và kết hợp sử dụng các phương pháp phù hợp với
từng đối tượng học sinh. Tôi rất mong nhận được sự góp ý của hội đồng giáo
dục nhà trường cũng như của tất cả các quý thầy cô. Và đặc biệt là các thầy cô
đã từng làm công tác chủ nhiệm lớp để cho đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Các cấp lãnh đạo giáo dục nên thường xuyên tổ chức tập huấn công tác chủ
nhiệm lớp nhất là công tác chủ nhiệm cho CBGV Trung tâm GDTX để thông
qua đó giáo viên có thể học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Trên đây là một số phương pháp tích cực trong công tác chủ nhiệm mà tôi
đã áp dụng. Chắc chắn những kinh nghiệm trên còn nhiều hạn chế. Kính mong
được Hội đồng khoa học Ngành Giáo dục tỉnh Thanh Hóa quan tâm giúp đỡ để
chúng tôi rút kinh nghiệm và thực hiện tốt hơn trong công tác giáo dục.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG

Cẩm Thủy, ngày 19 tháng 5 năm 2016

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Phùng Thị Mai

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phương pháp dạy học tích cực – Nguyễn Kỳ, NXB Giáo dục 1995
2. Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng, NXB Đại học quốc gia Hà Nội
2011.
3. Ứng xử sư phạm những điều cần biết – NXB ĐHQGHN

4. Tham khảo thêm tài liệu trên mạng Internet:
- violet.vn
- buiphan.net

PHỤ LỤC

21


Trang
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh

1
1
1
2
2
4


nghiệm
2.3. Một số giải pháp cụ thể
2.3.1. Khảo sát đối tượng học sinh vào đầu năm học để

5
6

giúp GVCN đưa ra phương pháp giáo dục phù hợp
2.3.2. Ổn định nề nếp lớp và làm tốt công tác tổ chức lớp
2.3.3. Áp dụng phương pháp giáo dục phù hợp với từng đối

8
11

tượng học sinh
2.3.4. Thực hiện tốt tiết sinh hoạt
2.3.5. Phối hợp chặt chẽ giữa giáo dục nhà trường, gia

12
14

đình và xã hội.
2.3.6. Hướng học sinh đến những hoạt động đoàn kết, quan

18

tâm, giúp đỡ nhau
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Những kiến nghị và đề xuất


18
19

22



×